Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

ĐỘNG KINH (Epilepsy)

Động kinh là một loại bệnh thần kinh thường gặp và khó trị. Triệu chứng lâm sàng của bệnh rất đa dạng, có những biểu hiện từng cơn về rối loạn ý thức, vận động, cảm giác, ngôn ngữ … tái phát nhiều lần, có những lúc bình thường tùy theo đặc điểm tổn thương bệnh lý của não. Tỷ lệ phát bệnh theo thống kê các nước Âu Mỹ là 2 - 7%, của Trung Quốc là 4,7%, của nước ta là 2% (báo cáo của bộ môn Thần kinh, trường đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 1992). Theo giới tính thì nam nhiều hơn nữ, tỷ lệ 1,7/1. Tỷ lệ phát bệnh ở những người cùng trong một gia đình có người bệnh động kinh cao hơn ở những gia đình khác là 4 - 7,2 lần. Có ít nhất 40% bệnh nhân không rõ nguyên nhân. Đa số bệnh nhân có cơn đầu tiên dưới 19 tuổi (60,6%). Bệnh động kinh làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của thanh thiếu niên và là bệnh rất khó trị, cho nên là một bệnh rất cần đến sự quan tâm của giới y học chúng ta.
Với những triệu chứng chủ yếu trên lâm sàng là những cơn co giật, những cơn rối loạn về ý thức và tinh thần, tái phát nhiều lần, bệnh thuộc phạm trù các chứng “giản”, chứng “điên” trong Đông y học.
I- NGUYÊN NHÂN BỆNH LÝ:
Theo Y học hiện đại, động kinh có thể chia làm 2 loại: động kinh là cơn động kinh do tổn thương thực thể ở não gây ra và động kinh nguyên phát (vô căn) là cơn động kinh không do hoặc chưa tìm thấy tổn thương ở não.
Theo các Y văn cổ, phát sinh bệnh chủ yếu là do sự rối loạn chức năng của các tạng Tâm, Can, Tỳ, Thận gây nên sự rối loạn tạm thời của âm dương, sinh khí nghịch, đàm ủng tắc, hỏa viêm phong động, bế lấp thanh khiếu.
Về các nguyên nhân và sự thay đổi bệnh lý có thể nhận thức như sau:
1- Cơ thể vốn hư: Tâm chủ huyết mạch. Do lao động, nghĩ ngợi nhiều làm tổn hao tâm huyết, tâm huyết không đủ thì thần không được nuôi dưỡng, thận hư thì can huyết kém, tỳ hư vận hóa suy giảm, tinh khí không đủ dưỡng não đều là những nguyên nhân làm cho chức năng não rối loạn sinh bệnh.
2- Đàm trọc ứ tụ: Do ẩm thực không điều độ, tỳ khí hư thì đàm trọc nội tụ, tình khí không điều hòa, can khí uất thì can phong động sinh cơn co giật, can khí nghịch đưa đàm lên che lấp thanh khiếu (đàm mê tâm khiếu) sinh mê man bất tỉnh.
3- Ngoại cảm lục dâm: Ngoại phong kích động nội phong, can phong động sinh co giật. Can khí uất, tỳ khí suy giảm (can khắc tỳ) đàm trọc nội sinh, can khí uất hóa hỏa sinh phong, phong đàm nhiễu tâm, sinh hôn mê co giật.
4- Huyết ứ nội tụ: Té ngã, chấn thương sản khoa gây ứ huyết nội tụ gây tắc não khí, thần chí hôn mê, huyết ứ sinh huyết hư không dưỡng can, sinh can phong nội động gây co giật.
II- TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
Triệu chứng bệnh động kinh rất phức tạp. Y học hiện đại hiện phân làm 5 loại, tóm tắt như sau:
1- Cơn lớn (grand mal): Có đặc điểm chính là co giật toàn thân và mất ý thức. Đột quỵ, cơn không định kỳ, bất tỉnh, hàm răng nghiến chặt, mắt trợn ngược, sắc mặt tái nhợt hoặc tím xạm, mũi miệng phát âm tiếng dị thường, miệng sùi bọt mép, chân tay co giật, tiêu tiểu không tự chủ, một lúc sau tỉnh lại như người bình thường, không nhớ được những gì đã xảy ra.
2- Cơn nhỏ(petit mal): Mất ý thức tạm thời rồi tỉnh, chân tay không co giật.
3- Cơn cục bộ: Có triệu chứng cục bộ như cơn co giật cơ cục bộ hoặc cảm giác khác thường.
4- Cơn tâm thần vận động: Đột nhiên có cơn trạng thái tinh thần hoặc vận động bất thường.
5- Cơn liên tục: Cơn lớn liên tục trong một thời gian ngắn, dễ gây nguy hiểm cho tính mạng.
III- CHẨN ĐOÁN VÀ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:
1- Đặc điểm chủ yếu của bệnh là lên cơn đột ngột, ngắn và tái phát nhiều lần, có những rối loạn về ý thức, cảm giác và chức năng thần kinh thực vật, giữa 2 cơn hoạt động của cơ thể là bình thường và không nhớ được những gì đã xảy ra.
2- Thường lên cơn vào những lúc tinh thần bị kích động, căng thẳng, sợ hãi, lao động quá sức, ăn uống quá đà hoặc đến kỳ hành kinh.
3- Điện não đồ có thể giúp phân biệt các thể bệnh.
4- Hỏi kỹ bệnh sử, khám lâm sàng, kết quả xét nghiệm máu, phân, nước tiểu, X quang, chụp mạch máu não, CT … có thể giúp phát hiện những nguyên nhân của bệnh, giúp xác định chẩn đoán.
5- Dùng thuốc trị cơn động kinh thường có kết quả tốt.
6- Cần phân biệt động kinh với cơn đột quỵ (do tai biến mạch não) và chứng kinh phong.
- Đột quỵ phải được cấp cứu mới tỉnh và sau khi tỉnh thường kèm theo liệt nửa người và các triệu chứng thần kinh khác.
- Kinh phong co giật thường thân mình co cứng, lưng đòn gánh và kèm theo sốt, khó tỉnh lại bình thường.
IV- BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ:
Bệnh động kinh có thể điều trị theo các thể bệnh sau:
1- Can phong đàm trọc:
- Triệu chứng chủ yếu: Trước khi lên cơn, bệnh nhân có cảm giác váng đầu, chóng mặt, ngực tức, mệt mỏi, tinh thần nôn nao, đột nhiên kêu lên và ngã gục, bất tỉnh, sắc mặt tái nhợt, hàm răng nghiến chặt, sùi bọt mép, mắt trợn ngược, tay chân run giật, tiêu tiểu không tự chủ, tạm thời mất ý thức, hai mắt dại, không nói được, vật đang cầm buông rơi, chất lưỡi hồng nhạt, rêu nhầy, mạch huyền hoạt.
- Phép trị: Hóa đàm, tức phong, khai khiếu, định kinh.
- Bài thuốc: Định giản hoàn gia giảm.
Thiên ma, Đởm Nam tinh, Bán hạ, Trần bì, Mạch động đều 10g, Phục thần, Viễn chí, Xương bồ đều 15g, Bạch cương tàm 12g, Toàn yết 6g, Hổ phách 12g (hòa uống), đàm khó khạc gia Toàn qua lâu 30g, đàm rãi loãng trong gia Can khương 5g.
2- Can hỏa hạp đàm:
- Triệu chứng chủ yếu: Ngày thường tính tình nóng nảy, bứt rứt khó ngủ, miệng đắng, họng khô, đại tiện táo kết, lúc lên cơn ngã bất tỉnh chân tay co giật, miệng đầy nước rãi, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch huyền sác.
- Phép trị: Thanh can tả hỏa, hóa đàm, khai khiếu.
- Bài thuốc: Long đởm tả can thang hợp Đạo đàm thang gia giảm.
Long đởm thảo, Đởm nam tinh, Chỉ thực, Bán hạ đều 10g, Phục thần, Viễn chí, Thạch xương bồ đều 15g, Bạch cương tàm 12g, Câu đằng 20g, Toàn yết 6g. Đại tiện táo gia sinh Đại hoàng 5g (cho sau), đàm dính gia nước Trúc lịch 10 ml hòa uống.
3- Huyết che thanh khiếu:
- Triệu chứng chủ yếu: Có tiền sử té ngã hoặc đột quỵ, đầu đau như kim đâm, vị trí thường cố định, lúc lên cơn hôn mê ngã quỵ, chân tay co giật, chất lưỡi tím thâm hoặc có ban tím, mạch sáp hoặc khẩn.
- Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ, tức phong chỉ kinh.
- Bài thuốc: Thông khiếu hoạt huyết thang.
Xích thược 15g, Xuyên khung 12g, Đào nhân 10g, Thiên ma 10g, Cương tàm 20g, Toàn yết 6g, Ngô công 4 con, Đơn sâm 20g. Đại tiện táo gia sinh Đại hoàng 5g (cho sau), đàm nhiều gia Đởm nam tinh 12g.
4- Can thận âm hư:
- Triệu chứng chủ yếu: Thời gian mắc bệnh đã lâu, lưng đau gối mỏi, hoa mắt, chóng mặt, mất ngủ nhiều mộng, trí nhớ giảm sút, hồi hộp bứt rứt, lòng bàn chân tay nóng, miệng lưỡi khô táo, đại tiện bón, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.
- Phép trị: Tư thận dưỡng can, tiềm dương, tức phong.
- Bài thuốc: Đại định phong châu thang gia giảm.
Sinh địa 30g, Mạch môn 12g, A giao 10g (hòa tan uống), Kê tử hoàng 1 cái, Quy bản (tẩm giấm) 30g, sinh Mẫu lệ 20g, Miết giáp (tẩm giấm) 30g, Bạch thược 15g, Ngũ vị tử 10g, Hỏa ma nhân 10g. Bứt rứt, người nóng gia Long đởm thảo 10g, Đăng tâm thảo 3g, ăn kém tiêu gia Sơn tra, sao Mạch nha, Thần khúc đều 10g.
5- Vị hư nhược:
- Triệu chứng chủ yếu: Động kinh kéo dài đã lâu, người bệnh mệt mỏi, sắc mặt xạm, hoa mắt chóng mặt, chán ăn, buồn nôn, nôn, tiêu lỏng, chất lưỡi hồng nhạt, mạch tế nhược.
- Phép trị: Kiện tỳ ích khí, hòa vị giáng nghịch.
- Bài thuốc: Lục quân tử thang gia vị.
Đảng sâm 15g, Bạch truật 12g, Phục linh 20g, Bán hạ 10g, Quất hồng 10g, Sinh long 30g, Mẫu lệ 30g, Câu đằng 30g, Cương tàm 15g, Cam thảo 6g. Đàm nhiều gia Thạch xương bồ 12g, Đởm nam tinh 12g, Viễn chí 6g, nôn ói bụng đầy gia Chỉ xác 10g, Trúc nhự 6g.
6- Tâm huyết hư suy:
- Triệu chứng chủ yếu: Người bệnh vốn hụt hơi, hồi hộp, mất ngủ, nhiều mộng, váng đầu hay quên, miệng đắng họng khô, lúc lên cơn tinh thần bối rối, đi lại vu vơ, miệng nói lẩm nhẩm hoặc hưng phấn bực bội, không nhận ra là ai, chất lưỡi nhạt, mạch tế sác.
- Phép trị: Dưỡng huyết an thần, bình can tức phong.
- Bài thuốc: Toan táo nhân thang hợp Cam mạch đại táo thang gia giảm.
Toan táo nhân, Phục thần, Sinh địa, Tiểu mạch đều 30g, Đương quy 12g, Đảng sâm 12g, Cam thảo 12g, Đại táo 10 quả, Hoàng liên 6g, co giật nhiều gia Toàn yết 10g, Cương tàm 15g, Ngô công 4 con, đại tiện táo gia sinh Đại hoàng 6g, Mang tiêu 10g hòa uống, Chỉ xác 10g.
Tuy trong lâm sàng điều trị bệnh thường gặp 6 thể bệnh trên đây, nhưng cũng cần tìm hiểu kỹ những nguyên nhân của bệnh một cách chính xác như bệnh động kinh có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như di chứng của những bệnh não: viêm não, não úng thủy, tai biến mạch máu não, sán lãi ở não, chấn thương sọ não do té ngã, do sinh, do vết thương chiến tranh hoặc không rõ nguyên nhân, đều cần được xác định trong chẩn đoán để có sự kết hợp Đông Tây y trong điều trị thì kết quả mới được như mong muốn. V- GIỚI THIỆU BÀI THUỐC KINH NGHIỆM:
1- Thanh nhiệt trấn kinh thang gia giảm: (Thượng Tích Xương, Tập nghiệm phương hay trị những bệnh khó, Bắc Kinh, nhà xuất bản Hoa Linh, 1990).
- Thành phần: Câu đằng 12g, Chu sa 1g, Thiên trúc hoàng 5g, Long đởm thảo 9g, Sài hồ 7g, Mộc thông 3g, Hoàng liên 4g, Đăng tâm 2g, Trúc diệp 6g, Cam thảo 5g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh thể Can hỏa hạp đàm. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
2- Ngũ sinh hoàn: (Thượng Tích Xương, Tập nghiệm phương hay trị những bệnh khó, Bắc Kinh, nhà xuất bản Hoa Linh, 1990).
- Thành phần: Sinh Nam tinh, sinh Bán hạ, sinh Xuyên ô, Bạch phụ tử, Hắc đậu, lượng bằng nhau.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh chứng âm, lưỡi sắc nhợt, mạch trầm nhỏ hoặc trầm trì. Trộn nước Gừng hồ hoàn, mỗi lần uống 3g, ngày 2 lần.
3- Long đởm tả can thang: (Lang Thất bí tàng).
- Thành phần: Long đởm thảo, Sinh địa, Đương quy đều 1g, Sài hồ 3g, Trạch tả 3g, Xa tiền tử 1,5g, Mộc thông 1,5g, Hoàng cầm, Chi tử, Cam thảo.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Can hỏa đàm nhiệt. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
4- Tả thanh hoàn: (Tiểu nhi dược chứng trực quyết).
- Thành phần: Đương quy, Băng phiến, Xuyên khung, Chi tử, Đại hoàng (giấy thấm nước bọc nướng), Khương hoạt, Phòng phong lượng bằng nhau.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Can hỏa uất, khó ngủ dễ giật mình. Tán thành bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 1/2 đến 1 hoàn (bằng viên Khiếm thực) với nước sắc Trúc diệp, cho thêm ít đường.
5- Đương quy long hội đoàn: (Đan Khê tâm pháp).
- Thành phần: Đương quy, Long đởm thảo, Chi tử, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm đều 30g, Đại hoàng 15g, Lô hội 15g, Mộc hương 4,5g, Xạ hương 2,5g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh thể Can Đởm thực hỏa. Tán bột mịn, hồ hoàn hoặc mật hoàn, mỗi lần uống 6g.
6- Bạch kim hoàn: (Hà Thị và CS. Tạp chí nội khoa Trung Hoa, 1977).
- Thành phần: Bạch phàn, Uất kim lượng bằng nhau.
- Chỉ định và cách dùng: Thể đàm mê tâm khiếu. Các vị thuốc tán bột mịn, dùng nước sắc Bồ kết trộn làm hoàn. Mỗi lần uống 3 - 6g, ngày uống 1 - 2 lần.
7- Hoàng kỳ xích phong thang: (Y lâm cải thác, quyển hạ).
- Thành phần: Hoàng kỳ sống 60g, Xích thược 3g, Phòng phong 3g.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Khí hư huyết ứ. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
8- Tả quy hoàn: (Cảnh Nhạc toàn thư, quyển 51).
- Thành phần: Thục địa 250g, Sơn dược (sao) 120g, Kỷ tử, Sơn thù, Lộc giao (đập vụn, sao với Chu sa), Quy giao (đập vụn sao Chu sa), Thỏ ty tử đều 120g, Xuyên ngưu tất 90g (rửa rượu chưng chín).
- Chỉ định và cách dùng: Thể Thận tinh suy. Các vị thuốc tán mịn, cùng trộn với nước cao Thục địa, trộn đều cho mật làm hoàn bằng hạt Ngô đồng, uống lúc đói với nước muối nhạt, hoặc nước sắc Cổn đàm thang 100 hạt.
9- Lục quân tử thang: (Thế y đắc hiệu phương, quyển 5).
- Thành phần: Nhân sâm (bỏ cuốn), Chích cam thảo, Bạch phục linh, Bạch truật, Trần bì, Bán hạ, lượng bằng nhau.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Tỳ hư đàm thịnh.
Dùng bột thô mỗi lần 5g, sắc với 150 ml nước, còn 100 ml, uống bất kỳ lúc nảo.
10- Tư âm ninh thần thang: (Y học nhập môn)
- Thành phần: Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa, Nhân sâm, Phục thần, Bạch truật, Viễn chí đều 3g, Toan táo nhân 5g, Cam thảo 5g, Hoàng liên (sao rượu) 1,2g.
- Chỉ định và cách dùng: Thể âm huyết dư. Thuốc trên gia thêm Sinh khương sắc uống ấm. Mỗi ngày 1 thang chia 2 lần.
11- Từ chu hoàn: (Bị cấp thiên kim yếu phương).
- Thành phần: Thần khúc 120g, Từ thạch 60g, Chu sa 30g.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Tâm thận bất giao. Ba vị tán bột mịn, luyện mật làm hoàn bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần uống 3 hạt, ngày uống 3 lần.
12- Đại bổ nguyên tiễn: (Cảnh Nhạc toàn thư).
- Thành phần: Nhân sâm 3 - 6g nhiều dùng 30 - 60g, Sơn dược sao 6g, Thục địa 6 - 9g dùng nhiều 60 - 90g, Đỗ trọng 6g, Đương quy 6 - 9g (tiêu chảy không dùng), Sơn thù 3g (trường hợp sợ chua và ợ chua không dùng), Kỷ tử 6 - 9g, Cam thảo 3 - 6g.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Khí huyết hư nhược.
Đổ nước 400 ml sắc còn 280 ml, uống nóng và lúc đói.
13- Tinh hương nhị trần thang: (Giản ninh Trung y nội khoa học).
- Thành phần: Đại Nam tinh, Mộc hương, Trần bì, Bán hạ, Phục linh, Từ thạch anh, Cam thảo, Sinh khương.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Phong đàm. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần.
14- Triệu thị đàm giản nghiệm phương: (Triệu Tâm Ba nhi khoa lâm sàng kinh nghiệm tuyển biên).
- Thành phần: Thanh mông thạch 10g, Thạch quyết minh 12g, Thiên ma, Đởm Nam tinh, Cương tàm đều 6g, Thiên trúc hoàng 10g, Câu đằng 3g, Toàn yết 2,4g, Đại giá thạch 10g, Nam hồng hoa 5g, Đào nhân 3g, pháp Bán hạ 15g.
- Chỉ định và cách dùng: Chứng động kinh thể đàm trọc, can phong nội động. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
15- Triệu thị kinh giản nghiệm phương: (Triệu Tâm Ba nhi khoa lâm sàng kinh nghiệm tuyển biên).
- Thành phần: Thạch quyết minh 12g, Thiên ma 6g, Thạch xương bồ 6g, Ngô công 2 con, Quảng Uất kim, Thần khúc, Tang chi đều 10g, Nam hồng hoa, Long đởm thảo 5g, Toàn yết 3g, Chu sa 1,2g (hòa uống).
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh chứng đàm nhiệt gặp u uất thì lên cơn.
Sắc nước uống ngày 1 thang chia 2 lần.
16- Định súc hóa phong đinh: (Cảnh Nhạc toàn thư).
- Thành phần: Toàn yết 20 con, Cát cánh, Hoàng liên, Cam thảo đều 10g, Thuyền thoái, Phòng phong, Khương hoạt, Đại hoàng, Khương tàm, pháp Bán hạ đều 15g, Ma hoàng 3g.
- Chỉ định và cách dùng: Thể Đàm nhiệt hạp phong. Trừ Toàn yết, tất cả tán bột thật mịn rồi cho Toàn yết vào, trộn đều, tán mịn rây. Cứ mỗi 300g thuốc cho vào 30g Chu sa, Băng phiến 10g, Ngưu hoàng 5g, Xạ hương 5g, tán bột trộn mật làm hoàn nặng 3g, mỗi lần uống 1 - 3 hoàn, ngày uống 2 lần.
17- Sài hồ long mẫu thang: (Thương hàn luận).
- Thành phần: Sài hồ 12g, Long cốt, Hoàng cầm, Diên đơn, Nhân sâm, Quế chi (bỏ vỏ), Mẫu lệ đều 4,5g, Bán hạ 6g, Đại hoàng 6g, Đại táo 6 quả.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh, suy nhược thần kinh, rối loạn tiền đình, huyết áp cao có chủ chứng là ngực đầy tức. Sắc uống ngày 1 thang chia làm 2 lần.
18- Quế thược trấn giản phiến: (Trần Tuấn Ninh và CS, nghiên cứu Trung thành dược, 1982).
- Thành phần: Sài hồ, Đảng sâm, Cam thảo, Bán hạ, Quế chi, Sinh khương, Hoàng cầm, Thược dược, Đại táo đều bằng nhau.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh cơn lớn và nhỏ, uống 6 viên mỗi lần, ngày uống 3 lần, cơn nhỏ giảm liều.
19- Tam trung thang: (Tôn Thị và CS, Cát lâm Trung y dược 1983).
- Thành phần: Ngô công 2,5g, Toàn yết 7,5g, Cương tàm 15g, Uất kim 15g, sinh Thạch quyết minh 2,5g, Quy bản 2,5g, Đào nhân 10g, Thạch xương bồ 10g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh cơn lớn. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
20- Trấn giản tán: (Tôn Thị và CS, Cát lâm Trung y dược 1983).
- Thành phần: Toàn yết 50g, Bạch phàn, Nam tinh, Uất kim đều 25g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh cơn dày. Mỗi tối uống 10g, cơn nhiều mỗi sáng uống thêm 5g, trẻ nhỏ giảm liều.
21- Điên giản hoàn: (Lộ Vạn Nguyên, Tạp chí Trung y Liêu Ninh, 1984).
- Thành phần: Chích Mã tiền tử 100g, Thiên trúc hoàng 50g, Địa long 50g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh thể phong đàm. Tất cả tán bột mịn, luyện mật làm hoàn to bằng hạt đậu nành, người lớn uống 5 - 7 hoàn một lần, ngày 2 lần, 3 tháng là 1 liệu trình.
22- Ngưu hoàng điên giản hoàn: (Lộ Vạn Nguyên, Tạp chí Trung y Liêu Ninh, 1984).
- Thành phần: Đởm tinh, Minh phàn, Cam thảo, Hổ phách, Kim bạc đều 10g, thanh Bán hạ, Bạch linh, Khô phàn, Chu sa, Uất kim đều 15g, Ngưu hoàng 5g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh thể đàm nhiệt. Tất cả tán bột mịn, trộn bột đậu xanh hồ làm hoàn, mỗi hoàn nặng 5g, mỗi lần uống 1 hoàn, ngày uống 2 lần.
23- Kháng giản tán: (Tiêu Nguyên, Tạp chí Trung y Hồ Bắc 1985).
- Thành phần: Bạc hà 0,2g, Phòng phong, Hoàng liên, Kinh giới, Đởm nam tinh, thanh Bán hạ đều 0,3g, Kim ngân hoa 0,7g, Ba đậu (bỏ vỏ bỏ đầu) 2 hạt.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh cơn lớn.
Tất cả tán bột mịn, gia Bột mì 400g, mè 120g, nướng thành bánh nướng chia 3 lần ăn hết trong ngày, chưa khỏi tiếp tục uống.
24- Hùng hoàng đình giản hoàn: (Trương Hồng Hải, Tạp chí Trung y dược Thượng Hải 1987).
- Thành phần: Câu đằng, chế Nhũ hương đều 25g, Hổ phách, Thiên trúc hoàng, Thiên ma, Toàn yết, Đởm nam tinh, Uất kim, Hoàng liên, Mộc hương đều 19g, Kinh giới tuệ, Minh phàn, Cam thảo đều 13g, Trân châu 2g, Băng phiến 2g, Đậu xanh 200 hạt.
- Chỉ định và cách dùng: Chứng động kinh bất kỳ.
Tất cả thuốc tán bột mịn, chế thành viên bằng hạt đậu xanh. Lấy Hùng hoàng 25g và Chu sa 5g làm áo. Người lớn mỗi lần uống 4 - 6g, trẻ em 1 tuổi uống 1 - 1,5g, tùy theo tuổi lớn lên mà gia giảm, mỗi ngày 2 lần uống với nước sôi nóng. Liệu trình đối với trẻ là 1 tháng, người lớn 3 tháng.
25- Vương thị điên giản hoàn: (Vương Tống Khởi, Trung y dược Cát Lâm 1988).
- Thành phần: Ba đậu sương 5g, Hạnh nhân 20g, Xích thạch chi, Đại giá thạch đều 50g.
- Chỉ định và cách dùng: Chứng điên giản.
Ba đậu bỏ vỏ và ép hết dầu, lấy xác chế thành Ba đậu sương, trộn với các thuốc khác tán mịn, chế mật làm hoàn bằng hạt đậu đỏ. Người lớn mỗi ngày uống 3 hạt, chia làm 3 lần sau khi ăn, nếu không có phản ứng gì khó chịu thì gia lượng dần cho đến 5 viên mỗi lần. Trẻ nhỏ giảm liều. Trường hợp cơn nhiều, khoảng cách ngắn, liệu trình là 1 tháng. Cơn ít, khoảng cách dài thì liệu trình là 2 tháng.
26- Mã nam thang: (Trương Gia Khánh, báo Trung y Tứ Xuyên 1988).
- Thành phần: Linh dương giác, Thiên Nam tinh, Toàn yết, Địa long, Xương bồ, Bán hạ, Khương tàm, Tạo giác, Thiên ma, Sài hồ, Mộc nhĩ, Mã tiền tử (hòa uống).
- Chỉ định và cách dùng: Chứng động kinh.
Mã tiền tử sắc trước 90 phút, lấy ra bỏ vỏ, dùng dầu mè đốt nướng cho vàng, tán bột cất dùng, mỗi lần uống 3g. Các loại thuốc khác sắc nước uống ngày 1 lần. Thời kỳ không lên cơn, các loại thuốc đều tán bột uống, 1 liệu trình 3 tháng.
27- Thông mạch dụ giản hoàn: (Tăng Tuần Huy, báo tân Trung y, 1987).
- Thành phần: Xích thược, Đào nhân, Xuyên khung đều 30g, Đan sâm 90g, pháp Bán hạ, sinh Nam tinh, Mông thạch nướng đều 45g, Thạch xương bồ 20g, Nhục quế 15g, Đương quy, Tử hà sa, Hoàng kỳ, Đảng sâm đều 60g, Thiên ma 50g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh do chấn thương não.
Các vị thuốc đều tán mịn, luyện mật làm hoàn nặng 10g, mỗi lần 1 hoàn, ngày uống 3 lần với nước Gừng. Trẻ em giảm liều. Liệu trình 1 tháng.
28- Viên bọc kháng giản trẻ em: (Khâu Tĩnh Trụ, báo Trung y Thiểm Tây 1990).
- Thành phần: Nhân sâm, Bạch linh, Bán hạ, Đởm nam tinh, Thạch xương bồ đều 10g, Quất hồng 6g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh trẻ em.
Tất cả thuốc tán mịn cho vào viên bọc. Mỗi viên 0,5g, mỗi lần uống 15 viên, ngày uống 3 lần. Co giật nhiều dùng thuốc thang.
29- Chỉ giản linh: (Vương Doãn Vinh, tạp chí Trung y 1986).
- Thành phần: Hoàng kỳ, Hoàng tinh, Sài hồ, Xương bồ đều 10g, Tam lăng, Nga truật, Xuyên khung, Hoàng cầm đều 6g, Đơn sâm, thanh Mông thạch, sinh Mẫu lệ, Trân châu mẫu đều 15g, Nhị sửu 3g, bột Xuyên liên 3g, Ngô công 3g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh.
Các vị trên đều chế thành thuốc nước, mỗi bao có hàm lượng 2 thang thuốc. Mỗi lần uống 1/4 bao, ngày uống 2 lần, nếu cơn về đêm, uống 1/2 bao trước lúc ngủ.
30- Mã yết tán: (Ngô Bảo Tín, tạp chí Trung y dược Thượng Hải 1986).
- Thành phần: Mã tiền tử 120g, Toàn yết, Quảng địa long, Thạch xương bồ, Chế bán hạ, Cương tàm, Nhũ hương, Một dược, sinh Cam thảo đều 40g, Đậu xanh 60g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh các thể.
Cho Mã tiền và Đậu xanh, nước vào nồi sành nấu sôi đến lúc đậu xanh nứt ra là được. Bỏ đậu xanh lấy Mã tiền tử, bỏ vỏ thái mỏng sấy khô giòn, tán bột mịn. Nhũ hương, Một dược được đặt trên miếng ngói mới, nung bỏ dầu, để nguội đập vụn. Các loại thuốc khác đều tán bột, rây kỹ, trộn đều với bột Mã tiền và Nhũ hương. Một dược xong bỏ vào lọ thủy tinh nâu đậy kín.
Liều dùng: Trẻ em dưới 3 tuổi: uống mỗi ngày 0,5g, từ 4 - 7 tuổi: lượng mỗi ngày 0,7 - 1,2g, từ 8 - 15 tuổi: lượng mỗi ngày 1,2 - 1,8g, từ 16 tuổi trở lên: lượng mỗi ngày 1,8 - 2,4g, lượng lớn nhất không quá 3 g mỗi ngày, mỗi tối uống trước ngủ 30 phút với nước sôi ấm, người lớn có thể uống với rượu. Có thể cho thuốc vào nang nhựa để dùng, 45 ngày là 1 liệu trình. Trong liệu trình đầu còn phải phối hợp với thuốc Tây, qua liệu trình 2 dùng 1/2 liều thuốc tây, liệu trình 3 giảm 2/3 thuốc tây, liệu trình 4 ngưng thuốc tây hoàn toàn. Thời gian khống chế cơn còn phải uống tiếp trong 1 năm.
31- Ninh giản tán: (Trương Thịnh Dung, Học báo Trung y học viện An Huy 1982).
- Thành phần: Tàm hưu, Xuyên Uất kim, Bạch phàn đều 15g, quảng Mộc hương, chế Hương phụ đều 9g, Thần sa 1,5g.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh. Lượng thuốc trên tán bột mịn chia thành 10 bao. Người lớn ngày uống 1 bao, trẻ em 1/2 liều. Cơn ban ngày uống vào buổi sáng, cơn về đêm uống vào trước lúc ngủ, một liệu trình 3 tháng.
32- Ninh giản tán: (Thang Thiết Thành, Trung Quốc y dược học báo, 1989).
- Thành phần: Binh lang, Hắc sửu, Tạo giác đều 30g, Đại hoàng tẩm rượu 25g, chế Nam tinh 120g.
- Chỉ định và cách dùng: Chứng động kinh.
Tất cả thuốc tán bột mịn, trộn thêm ít đường cát, uống vào thời kỳ không lên cơn, uống mỗi ngày vào sáng sớm lúc bụng đói, người lớn mỗi lần 6g, trẻ em 3g, lúc lên cơn cho thêm ít Xạ hương uống với nước Gừng, liều lượng như lúc không lên cơn. Liệu trình uống thuốc phải trên 1 tháng.
33- Gia vị Từ chu hoàn: (Vương Hồng Phạm, báo Trung y Cát Lâm 1981).
- Thành phần: Nam tinh, sinh Giá thạch, Chu sa, Toàn trùng đều 100g, Bán hạ 15g, Từ thạch 10g, Ngô công 30 con, Bạch thược, Thần khúc, Cam thảo đều 200g.
- Chỉ định và cách dùng: Chứng động kinh.
Tất cả tán bột mịn, luyện mật làm hoàn nặng 15g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 hoàn, trẻ em giảm 1/2 liều. Liệu trình 90 ngày, thường phải uống 90 ngày đến 1/2 năm.
34- Gia giảm Ôn đởm thang: (Trần Phát Di, báo Y trung cấp, 1987).
- Thành phần: Bán hạ, Phục linh, Trúc nhự, Trần bì, Chỉ xác, Thái tử sâm, Táo nhân, Viễn chí, Xương bồ, Cam thảo.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh có rối loạn tâm thần.
Sắc uống ngày 1 thang, 30 ngày là 1 liệu trình.
35- Ức giản hoàn: (Hoắc Tông Tín và CS. Tạp chí Trung y Sơn đông 1992).
- Thành phần: Thiên ma 30g, Toàn yết 330g, Đơn sâm 90g, Đương quy 150g, Bằng sa 100g, Mật ong 1.000g.
- Chỉ định và cách dùng: Trị chứng động kinh.
4 vị đầu sấy khô cùng với Bằng sa, tán bột mịn, luyện mật làm hoàn, Chu sa làm áo, mỗi hoàn nặng 9g, mỗi lần uống 1 hoàn, ngày uống 3 lần. Uống liên tục 6 tháng là 1 liệu trình.
36- Viên bọc kháng giản: (Hướng Dương, Trung Quốc y dược học báo 1992).
- Thành phần: Thái tử sâm, Phục linh, Thạch xương bồ, Đởm tinh, Bán hạ, Quất hồng, Chỉ xác, Trầm hương, Thanh quả, Thiên ma ...
- Chỉ định và cách dùng: Tất cả tán bột mịn cho vào nang nhựa, mỗi viên có hàm lượng thuốc sống là 4,5g. Từ 1 - 3 tuổi: 4 viên, từ 4 - 6 tuổi: 5 viên, từ 7 - 10 tuổi: 8 viên, trên 10 tuổi: 10 viên, ngày uống 3 lần, nếu cơn dày đổi dùng thuốc thang, uống ngày 1 thang. Kiêng ăn những chất tanh, cay, nóng.
37- Hùng hoàn đình giản hoàn: (Lưu Trung Tuyển, Tạp chí Trung y Sơn Đông 1983).
- Thành phần: Minh hùng hoàng, Câu đằng sao, Nhũ hương đều 25g, Hổ phách, Thiên trúc hoàng, Toàn yết, Đờm nam tinh, Uất kim, Hoàng liên, Mộc hương đều 19g, Kinh giới tuệ 13g, Chu sa 5g, Minh phàn 13g, Trân châu 2g, Cam thảo 13g, Băng phiến 2g, Đậu xanh 200 hạt.
- Chỉ định và cách dùng: Động kinh.
Trừ Hùng hoàng và Chu sa, tất cả đều tán bột mịn, chế nước hoàn bằng hạt đậu xanh, dùng Hùng hoàng và Chu sa làm áo. Người lớn sáng tối mỗi lần uống 4 - 6g, trẻ 1 tuổi trở lại uống sáng tối mỗi lần 1 - 1,5g và theo tuổi mà tăng giảm.
VI- NGHIỆM PHƯƠNG ĐƠN GIẢN:
1- Thạch xương bồ 15 - 30g, sắc uống. Trị các loại động kinh.
2- Viên kháng điên giản: Thanh đại 5.000g, Bằng sa 15.000g, Sơn dược 30.000g, tán bột, chế viên nặng 0,5g.
Mỗi lần uống 4 - 8 viên, ngày uống 3 lần.
3- Bột điên giản: Uất kim 400g, Toàn yết nướng, Ngô công đều 140g, Ba đậu nấu (dấm) 50g, Hương phụ (sao dấm) 250g. Tất cả tán bột mịn, trộn đều. Mỗi lần uống 3g với nước ấm lúc bụng đói. Uống xong trong 6 giờ nhịn đói.
4- Điều trị bằng châm cứu theo 2 thời kỳ:
a/ Lúc lên cơn:
- Phép trị: Trừ đàm, khai khiếu, giải kinh, bình can tức phong.
- Chọn huyệt: Bách hội, Phong phủ, Đại chùy, Hậu khê, Yêu kỳ.
- Biện chứng phối huyệt: Hôn mê gia Nhân trung, Thập tuyên, Dũng tuyền; hàm răng nghiến chặt gia Hạ quan, Giáp xa; cơn về đêm gia Chiếu hải, ban ngày gia Thân mạch, cơn nhỏ phối hợp Thần môn, Nội quan, Thần đình; cơn cục bộ phối hợp Hợp cốc, Thái xung, Cự khuyết.
- Cách châm: Tùy theo tình hình bệnh, mỗi lần chọn 4 - 5 huyệt, đang lúc lên cơn dùng kích thích mạnh, hết cơn có thể châm bổ hay tả tùy tình hình bệnh, châm mỗi ngày hay 2 ngày 1 lần, có thể phối hợp điện châm.
- Giải thích tác dụng của huyệt:
* Bạch hội là huyệt hội các kinh dương, nơi thanh dương hội tụ nên có tác dụng tỉnh não khai khiếu.
* Phong phủ thuộc Đốc mạch có tác dụng tức phong giải kinh.
* Đại chùy là huyệt giao hội của 6 kinh dương tay chân với Đốc mạch, có tác dụng thanh tiết giáng nghịch.
* Hậu khê là huyệt kinh nghiệm trị động kinh.
* Yêu kỳ là huyệt ngoài kinh, vị trí ở mạch Đốc chuyên trị động kinh.
* Ban ngày lên cơn là bệnh ở Dương kiểu nên dùng huyệt Thân mạch, ban đêm bệnh ở Âm kiểu thì huyệt Chiếu hải. Cơn nhỏ phối hợp Thần môn, Nội quan, Thần đình để an thần tỉnh não; cơn cục bộ phối hợp Hợp cốc, Thái xung để khai tứ quan điều hòa khí huyết thêm Dương lăng tuyền để thư cân, Tam âm giao điều khí của 3 kinh âm. Cơn tâm thần vận động dùng Phong long để thông ngực giáng đàm, Giản sử để tỉnh thần.
b/ Lúc bệnh ổn định: Cần phân biệt hư thực. Đối với thực chứng dùng phép tức phong hóa đàm là chính, đối với hư chứng thì lấy kiện tỳ dưỡng tâm làm chủ.
1- Phép châm:
- Chọn huyệt:
* Chứng hư: Thần môn, Nội quan, Túc tam lý, Âm lăng tuyền, Tam âm giao, Thái khê, Trung quản, Cự khuyết.
* Thực chứng: Phong phủ, Đại chùy, Cưu vỹ, Phong long, Thái xung.
- Tùy chứng phối huyệt: Sau khi lên cơn, người mệt: cứu Khí hải; trí lực giảm sút, tinh thần lú lẫn: gia Thận du, Quan nguyên (cứu). Mỗi lần chọn 4 - 5 huyệt. Cưu vỹ, Cự khuyết: châm nông, kích thích nhẹ.
- Tác dụng của huyệt:
* Thần môn là nguyên huyệt của Tâm, dưỡng tâm an thần.
* Nội quan: huyệt lạc của kinh Tâm bào thông với Âm duy mạch, lý khí thông trung tiêu.
* Túc tam lý là huyệt hợp của kinh Vị, huyệt cường tráng cơ thể, có tác dụng bổ trung, cường tráng, hóa đàm lợi thấp.
* Âm lăng tuyền: huyệt của kinh Tỳ, hợp dùng với Tam âm giao có tác dụng kiện tỳ hóa đàm, thông điều can thận.
* Thái khê: huyệt nguyên của kinh Thận có tác dụng kiện thận bổ não.
* Trung quản là mộ huyệt của Vị, hòa vị khoát đàm.
* Cự khuyết: mộ huyệt của Tâm, dưỡng tâm an thần.
* Cưu vỹ thuộc mạch Nhâm, giáng khí giải uất là huyệt chủ yếu trị động kinh.
* Phong long, Thái xung: hóa đàm, bình can.
2- Phép cứu:
- Chọn huyệt: Đại chùy, Thận du, Túc tam lý, Phong long, Giản sử, Yêu kỳ.
- Cách cứu: Mỗi lần chọn dùng 1 - 2 huyệt, dùng cách cứu làm chủ, 30 ngày cứu 1 lần, chọn dùng thay đổi các huyệt trên, 1 liệu trình 4 lần cứu.
3- Điện châm:
- Chọn huyệt như thể châm.
- Mỗi lần chọn 1 - 2 nhóm huyệt, dùng xung điện kích thích 20 - 30 phút, cách nhật. Một liệu trình 10 lần điện châm, nghỉ 1 - 2 tuần, tùy tình hình bệnh mà tiếp tục liệu trình tiếp theo.
4- Thủy châm:
- Chọn huyệt: Nội quan, Túc tam lý, Phong long, Tam âm giao, Đại chùy, Thận du.
- Cách thủy châm: Thường dùng các loại thuốc như Vitamin B1, Vitamin B12, Becozyme hoặc các dịch chích thuốc Đông y như Sinh địa, Bổ cốt chỉ, Đương quy ... mỗi lần chích 0,5 - 1 ml, mỗi lần chọn dùng 2 - 3 huyệt, chích thuốc cách nhật, 1 liệu trình 10 lần chích.
5- Nhĩ châm:
- Chọn huyệt: Tâm, Can, Thận, Tỳ, Vị, Thần môn, Chẫm, Thân não, Dưới vỏ não.
- Cách châm: Mỗi lần chọn châm 2 - 3 huyệt, thỉnh thoảng vê kim hoặc dùng điện châm, chôn kim lưu 2 - 5 ngày.
6- Đầu châm:
Tùy theo tình hình lên cơn, chọn các khu động kinh, vận động, khu cảm giác ... dùng kim 2 thốn số 28, lưu kim 30 phút, trong thời gian lưu kim, vê kim hoặc thêm điện châm tăng cường kích thích.
VII- THỰC LIỆU:
1- Trong chế độ ăn chú ý thanh đạm, kiêng ăn các chất cay nóng như tiêu, ớt, chất mỡ béo, không nên ăn nhiều thịt, chú ý chế độ rau tươi trái cây, lượng vừa phải, không để no đói thất thường, kiêng các thứ uống có chất kích thích như rượu, cà phê, nước trà đậm, các loại nước ngọt …
2- Đậu nành 30g, nấu chín với giun đất, bỏ giun ăn đậu, ngày 1 lần.
3- Bào thai dê 1 bộ, nấu chín sấy khô tán bột, mỗi lần uống 10g, ngày 2 lần.
4- Óc chó 1 bộ, nấu chín ăn 2, 3 ngày 1 lần, thường dùng (3 bài thuốc này theo sách Bài thuốc Thức ăn của Diệp Quất Tuyền, NXB Khoa kỷ Giang Tô, 1980).
Điều trị động kinh cần chú ý:
Động kinh có thể do tổn thương thực thể ở não (động kinh triệu chứng) hoặc không có tổn thương não (động kinh vô căn, nguyên phát), phần lớn bệnh kéo dài rất khó trị. Tây y có nhiều loại thuốc trị triệu chứng có hiệu quả nhưng cũng chỉ là thuốc trị chứng, dùng lâu có độc cho cơ thể. Thuốc Đông y trị động kinh có trường hợp giảm hoặc khỏi (theo nhiều báo cáo trong và ngoài nước) nhưng không chắc chắn và thời gian điều trị thường là kéo dài, cho nên biết kết hợp Đông y Tây y vẫn là phép trị tốt hơn cả.


(Đông y điều trị bệnh Tâm thần-Thần kinh. GS.BS. Trần Văn Kỳ)
 

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO

Bệnh mạch máu não cấp cũng gọi là TBMMN là một chứng bệnh cấp tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của bệnh là: phát hiện đột ngột, hôn mê và bán thân bất toại.
Bệnh có thể chia làm 2 loại:
- Xuất huyết não: bao gồm chảy máu não và chảy máu dưới màng cứng.
- Nhũn não: bao gồm sự hình thành huyết khối và sự tắc nghẽn mạch máu.
Trừ thể xuất huyết dưới màng cứng, sách Y học cổ truyền Đông phương gọi một tên chung là chứng “TRÚNG PHONG”.
Nhận thức của Đông y đối với bệnh tai biến mạch máu não:
Đông y đã có nhận thức sớm về bệnh này. Cách đây hơn 2000 năm, trong trước tác đông y như “Linh khu” đã ghi các chứng “Kích bộc” “Thiên khô” “Phong phì” có các triệu chứng ghi như: đột nhiên hôn bộc, một nửa người không cử động tự chủ. Và chứng “Đại quyết” trong sách Tố Vấn ghi về cơ chế bệnh là do khí huyết cùng thượng nghịch, và nói đến tiên lượng bệnh là “Khi hồi phục (phản phục) được là sống, còn không phản phục được là chết”. Sách “Kim quỹ yếu lược” của Trương Trọng Cảnh đời Hán mệnh danh là chứng “Trúng phong” và mô tả các triệu chứng của trúng phong như sau: bán thân bất toại, mồm méo, nói khó, nặng thì bất tỉnh nhân sự, sách đời Đường (701-704) và đời Tống (973-1093) nhận thức về nguyên nhân bệnh là do tích tuổi hư tổn. Y gia các thời đại sau bổ sung thêm nhiều luận thuyết về nguyên nhân như Lưu Hà Gian cho là do “hỏa”, Lý Đông Viên cho là “lý hư”, Chu Đan Khê cho là “đàm nhiệt”. Các học gia sau này như Trương Giới Tân (đời Minh) Diệp Thiên Sỹ (đời Thanh) đều cho rằng là do “nội thương” “tích tổn” mà thành chứ không phải do phong tà bên ngoài xâm nhập cơ thể.
Về tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách “Nội kinh” nói: “Đại nộ tắc hình khí tuyệt mà huyết tràn lên trên”, và “huyết khí cùng thượng nghịch”, phía trên là chỉ não là một trong những phủ kỳ hằng, là bể của tủy, khí của não, là thông với thận. Ngoài mặt nhận thức bệnh biến là ở não, đông y cũng nhận thức bệnh có liên quan đến nhiều tạng phủ khác như Can, Thận, Tâm, Tỳ, Vị …
Còn việc phân loại “trúng kinh lạc” và “trúng tạng phủ” cũng chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng nặng nhẹ mà phân loại: nhẹ là trúng kinh lạc, nặng là trúng tạng phủ.
Triệu chứng trúng kinh lạc thường là: chân tay tê dại, mồm méo, hoặc nói khó, bán thân bất toại nhưng không có hôn mê.
Triệu chứng trúng tạng phủ thì bệnh nặng mê man hoặc hôn mê bất tỉnh, các triệu chứng lâm sàng nặng hơn.
Kết hợp với nhận thức của YHHĐ, trước tiên cần xác định là chứng trúng phong do xuất huyết não hay do nhũn não, nếu do xuất huyết não thì dùng phép “thanh nhiệt thông phủ bình can” tức phong hoạt huyết chỉ huyết là chính, còn nếu là nhũn não phép chữa chủ yếu là “ích khí hóa ứ” dưỡng âm hoạt huyết là chính. Đông y còn cho rằng “trúng phong” là chứng bệnh dẫn đầu trong 4 loại bệnh lớn nội khoa và gắn triệu chứng bệnh với các tạng phủ cùng tiên lượng bệnh như sau: “mồm há, tay buông thõng là Tỳ tuyệt, mắt nhắm là Can tuyệt, hôn mê bất tỉnh, mũi phập phồng là Phế tuyệt, đái dầm là Thận tuyệt, lưỡi ngắn không nói được là Tâm tuyệt, nấc cụt không dứt là bị Khí tuyệt”.
Theo số liệu thống kê của Trung Quốc, gần đây phát hiện số bệnh nhân 30 - 40 tuổi là không ít nhưng số trên 50 tuổi vẫn nhiều, chiếm trên 60%. Báo cáo của Hoàng Bỉnh Sơn năm 1986, trong số 600 b/n TBMMN, số bệnh nhân trên 41 tuổi chiếm 96,2%. Điều này nói rõ là thể chất con người trên 40 tuổi thường chuyển từ thịnh sang suy và TBMMN thường liên quan đến các bệnh mà người trên 40 hay mắc như xơ mỡ mạch, cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, bệnh béo phì … mà các bệnh này thường là “hư chứng” hoặc trong hư kiêm thực chứng là phù hợp với nhận thức của YHCT đã ghi trong sách “Nội kinh”: “Người 40 là khí âm còn một nửa, đứng ngồi yếu”. Do đó càng thấy rõ TBMMN là một bệnh nội thương mà bản chất bệnh là hư chứng. Những tác động bên ngoài như thời tiết thay đổi đột ngột hoặc những kích động tâm thần đột ngột (stress) làm cho Can phong nội động, khí huyết nghịch loạn, hoặc uống rượu nhiều, ăn nhiều chất béo mỡ gây tích trệ tại tỳ vị, tích cũng hóa nhiệt gây phong động, nói lên bệnh bản chất hư nhưng thường kiêm phong, đàm, nhiệt, ứ là vì vậy.
A- XUẤT HUYẾT NÃO: (Hémorragie cerébrate cerebral hemorrohage).
Não xuất huyết là do thành động mạch não bị bể và máu chảy vào tổ chức não sinh bệnh. Bệnh thường gặp ở tuổi trên 50 có huyết áp cao hoặc xơ cứng động mạch. Nam nhiều hơn nữ. Bệnh khởi phát đột ngột, triệu chứng lâm sàng chủ yếu là hôn mê, liệt tay chân, méo mồm.
1- Triệu chứng lâm sàng:
Xuất huyết não thường xảy ra trong lúc bệnh nhân đang tỉnh táo, thường có liên quan đến trạng thái tinh thần bị kích động đột ngột (trạng thái quá tức giận, quá lo lắng, quá vui, quá buồn đau hoặc dùng lực quá mạnh làm cho huyết áp tăng đột ngột gây nên).
a- Giai đoạn cấp diễn:
- Bệnh nhân đau đầu đột ngột, chóng mặt, buồn nôn, nôn, một bên người yếu hoặc liệt, ý thức lú lẫn dần dần đến hôn mê, sắc mặt nóng đỏ, cổ gáy cứng, mồm méo, liệt mặt, chảy nước dãi, thở nặng sâu, cổ khò khè, bụng đầy táo bón. Phần lớn bệnh nhân sốt, huyết áp cao, mặt lưỡi nhiều ứ huyết, dưới lưỡi nổi gân xanh, chất lưỡi đỏ hoặc đỏ thẫm, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc vàng khô, mạch huyền sắc đại.
- Bệnh nhẹ thì lúc tỉnh lúc mê, thân lưỡi cứng nói không rõ tiếng, bán thân bất toại, tay chân run giật.
- Bệnh nặng thì hôn mê sâu, sắc mặt tái nhợt, chân tay liệt mềm, mình mẩy lạnh ướt, hơi thở ngắn nhanh hoặc ngắt quãng, huyết áp hạ, đồng tử giãn, phản xạ ánh sáng chậm hoặc mất hẳn, tiêu tiểu không tự chủ, mạch hư đại vô căn.
- Đối với những người có bệnh huyết áp cao, tiểu đường, bệnh tim, xơ cứng động mạch não, béo phì thường có những triệu chứng báo trước như đau cổ đầu, chóng mặt, tay chân tê dại, chảy máu cam, xuất huyết võng mạc mắt.
b- Giai đoạn hồi phục:
Sau một thời gian hôn mê từ mấy ngày đến mấy tuần thì bệnh nhân trở lại tỉnh táo, có thể nuốt và uống nước được, hơi thở ổn định, sức khỏe chung tốt dần, chân tay liệt có cử động hồi phục dần.
c- Giai đoạn di chứng:
Thường sau trên 6 tháng mắc bệnh, tình hình hồi phục chậm lại và để lại những di chứng mức độ khác nhau như liệt chi, chân tay cơ bắp teo gầy, run giật và đau nhức, trí lực giảm sút hoặc đần độn.
2- Chẩn đoán bệnh: Dựa vào các tiêu chuẩn sau:
a- Tuổi trên 40, bệnh phát đột ngột.
b- Có những triệu chứng: hôn mê, liệt nửa người, méo mồm.
c- Có tiền sử huyết áp cao.
d- Áp lực nước não tủy tăng, xét nghiệm nước não tủy có máu đỏ (nếu lâm sàng đủ để xác định chẩn đoán, không cần chọc nước não tủy).
e- Nếu có điều kiện làm siêu âm sọ não, làm điện não đồ, chụp mạch não, chụp cắt lớp não (CT) để xác định chẩn đoán.
3- Phân tích về nguyên nhân và cơ thể bệnh theo YHCT:
Bệnh xuất huyết não phát bệnh đột ngột nhưng hình thành bệnh là một quá trình. Theo YHCT, sự hình thành bệnh có liên quan đến các yếu tố bệnh lý sau:
a- Phong: tức “Can phong”, lâm sàng có triệu chứng hoa mắt váng đầu, chân tay run giật do can thận âm hư, thủy không dưỡng mộc, can dương thịnh hóa phong => sinh bệnh. Ngoài ra, tình chí u uất hóa hỏa, đặc biệt lao tâm suy nghĩ nhiều, tâm hỏa thịnh, hoặc giận dữ kích động can hỏa, hoặc ăn uống nhiều chất béo, mỡ tích trệ hóa đều dẫn đến Can phong nội động.
b- Hỏa: Can dương thịnh, trường vị nhiệt kết thường biểu hiện mặt đỏ, bứt rứt dễ cáu gắt, đại tiện táo kết.
c- Đàm: Thường do thích ăn nhiều chất béo mỡ hoặc nghiện rượu, tỳ vị tích trệ, tân dịch tích tụ sinh đàm, hoặc uất giận ưu tư nhiều quá khí trệ sinh đờm cũng là nguyên nhân thường gặp. Trên lâm sàng biểu hiện ngực tức buồn nôn, khạc ra đờm dãi, thân mình hoặc tay chân tê dại hoặc có những cơn hoa mắt váng đầu.
d- Ứ huyết: Nguyên nhân huyết ứ thường là do khí trệ, ngoài ra âm hư huyết ít, khí hư vận hóa suy giảm cũng gây nên huyết ứ.
Thực ra 4 yếu tố gây nguy cơ tai biến xuất huyết não trên đây đều có liên quan ảnh hưởng lẫn nhau và là nguyên nhân của nhau.
Bệnh xuất huyết não là một bệnh mang tính chất khí hư tà khí thực mà trong giai đoạn cấp biểu hiện chủ yếu là tà thực, nhưng do chính khí vốn hư nên tà khí dễ làm hao tổn nguyên khí → dễ dẫn đến tử vong trong trạng thái hư thoát (dương hư, âm hư hoặc khí âm hư, âm dương đều hư). Đến thời kỳ hồi phục và giai đoạn di chứng thì tà khí đã bị đẩy lùi (nhờ các biện pháp cấp cứu và chính khí thắng tà khí) nhưng chính khí hư tổn là chính chủ yếu là khí âm hư mà huyết ứ vẫn còn tồn đọng tại kinh mạch, cho nên trong điều trị biện chứng cần lưu ý:
4- Biện chứng luận trị:
Biện chứng luận trị chủ yếu theo 3 giai đoạn lâm sàng:
a- Giai đoạn cấp tính:
Thường trong thời gian 1-2 tuần đầu của bệnh mà triệu chứng chủ yếu là hôn mê. Thời gian hôn mê càng dài, càng sâu thì tiên lượng bệnh càng kém. Do thể chất người bệnh, tình hình bệnh lý khác nhau mà biểu hiện lâm sàng khác nhau, có thể chia làm 2 thể bệnh: chứng bế và chứng thoát.
@ Chứng bế:
- Triệu chứng chủ yếu: hôn mê, liệt nửa người, méo mồm, mắt trợn ngược, mặt đỏ, người nóng sốt, hàm răng nghiến chặt, đờm nước rãi nhiều, họng khò khè, thở thô, mũi ngáy, tay chân co cứng, tiêu tiểu không thông, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền hoạt sác, gọi là chứng “dương bế” thường gặp trong giai đoạn cấp.
- Phép chữa: Khai bế tỉnh não, hoạt huyết chỉ huyết.
- Huyệt châm: Chích nặn máu các huyệt: Trung xung, Bách hội, Tứ thần thông (hoặc dùng 12 huyệt tĩnh) kết hợp chích Nhân trung, Thừa tương, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Lao cung, Thái xung, Dũng tuyền. Hoặc dùng Nội quan, Nhân trung, Tam âm giao, Hợp cốc, Ủy trung. Chủ yếu dùng phép tả, ngày 1 đến 2 lần, không lưu kim cho đến khi tỉnh và tùy tình hình bệnh thay đổi chọn huyệt.
- Thuốc thường dùng “An cung ngưu hoàng hoàn” “Chí bảo đơn” hoặc “Tứ tuyết đơn” (1-2 g x 2-4 lần/ngày). “An cung ngưu hoàng hoàn” và “Chí bảo đơn” mỗi lần uống 2 - 4 g, ngày 2 - 4 lần, tán nhỏ, hòa nước sôi, uống hoặc bơm bằng sonde.
+ Hoạt huyết chỉ huyết dùng bài “Tê giác địa hoàng thang” (bột sừng trâu 20g, Sinh địa 16-20 g, Xích thược 12-16 g, Đơn bì 12-16 g).
+ Đối với chứng dương bế (nhiệt bế) có thể dùng bài thuốc sau có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bình can tức phong, an thần hoạt huyết:
Sinh địa 10-15g, Chi tử 10g, Hoàng cầm 10g, Toàn qua lâu 15-20g, Mang tiêu 10g, Bột sừng trâu 15-25g, Thạch quyết minh 15g, Câu đằng 15g, Xích thược 15g, Đơn sâm 15g, Tam thất bột 6g, Chích thảo 3g, Trúc lịch (nước) 30ml. Ngày sắc uống thang, tùy chứng gia giảm.
+ Đối với chứng âm bế (thường gặp ở bệnh nhân vốn dương hư đàm thịnh hàn đàm làm bế tắc thanh khiếu) dùng phép chữa: Ôn thông khai khiếu.
Bài thuốc: “Tô hợp hương hoàn” mỗi lần uống 2-4 g, 1-2 lần uống với nước Tế tân 3g, Gừng tươi 3-5 lát.
+ Trường hợp triệu chứng dương hư nặng (sắc mặt tái nhợt, tự ra mồ hôi, chân tay lạnh, mạch vị hoặc phù tế mà huyền) gia Phụ tử, Hoàng kỳ, gia thêm Xuyên khung, Tô mộc, Đương quy, Bạch cương tàm, Ngưu tất, Tế tân để hoạt huyết thông lạc. Trường hợp hôn mê cấm khẩu, đờm thịnh, chính khí dục thoát cần dùng bài “Tam sinh ẩm” (Sinh nam tinh, Sinh bán hạ, Sinh phụ tử mỗi thứ 10g) gia Nhân âm 15-30g, sắc uống cấp, chống hư thoát. Lúc này châm thêm Nhân trung, Hợp cốc, Túc tam lý, Dũng tuyền để hồi dương cứu nghịch.
@ Chứng thoát:
- Triệu chứng chủ yếu: Đột nhiên ngã quỵ hoặc do chứng bế chuyển thành, có triệu chứng hôn mê bất tỉnh, sắc mặt tái nhợt, mắt nhắm, mồm há, hơi thở ngắn gấp hoặc có lúc ngưng thở, tay buông thõng, tứ chi lạnh, toàn thân ướt lạnh, tiêu tiểu không tự chủ, chân tay liệt mềm, lưỡi rút ngắn, mạch vi dục tuyệt hoặc hư đại vô căn, huyết áp hạ. Thường chứng thoát là âm dương, khí huyết đều hư hoặc do bệnh nhân nguyên khí vốn rất hư đột quỵ là xuất hiện chứng thoát, hoặc là diễn tiến xấu đi của chứng bế, cho nên trong quá trình cấp cứu chứng bế nếu phát hiện 1, 2 triệu chứng của chứng thoát, cần chuyển hướng chữa cấp cứu kịp thời mới hy vọng cứu sống bệnh nhân.
- Phép chữa chủ yếu: Hồi dương cứu thoát.
- Bài thuốc cơ bản: “Sâm phụ thang” (Nhân sâm, Phụ tử mỗi thứ 15-30 g)
Trường hợp ra mồ hôi không dứt gia Long cốt, Mẫu lệ mỗi thứ 30-60 g.
Âm dương đều thoát, dùng “Sinh mạch âm hợp sâm phụ thang” gia Sơn thù, Bạch thược, Long cốt, Mẫu lệ. Đây là trường hợp cấp cứu trụy tim mạch, không thể dùng thuốc uống được mà phải tiêm truyền bằng đường tĩnh mạch. Ở Trung quốc dùng thuốc chích Sâm mạch (Nhân sâm, Mạch môn) mỗi lần 4-10 ml gia vào dung dịch Glucose 5% 20 ml chích tĩnh mạch 2-3 lần, sau đó tiếp tục dùng dịch Sâm mạch 10-20 ml cho vào dung dịch Glucose 10% 250-500 ml nhỏ giọt tĩnh mạch cho đến khi trạng thái choáng được cải thiện, huyết áp ổn định. Và sau đó tiếp tục dung dịch Sâm phụ mỗi lần 40-100 ml gia vào 10% Glucose 250-500 ml nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2 lần tùy tình hình bệnh mà duy trì dùng trong 7-10 ngày. Ta chưa có thuốc tiêm Sâm mạch nên phải cấp cứu chứng thoát theo phương pháp y học hiện đại.
- Kết hợp châm cứu: Chủ yếu cứu các huyệt Khí hải, Quan nguyên, Thần khuyết, Dũng tuyền.
b- Giai đoạn hồi phục:
Sau thời gian cấp tính khoảng 1-2 tuần và kinh qua điều trị tích cực chứng bế hoặc chứng thoát, bệnh nhân qua cơn nguy kịch chuyển sang giai đoạn hồi phục. Bệnh lý chủ yếu ở giai đoạn này là chứng hư kiêm huyết ứ đàm trệ ở kinh lạc mà phần lớn là thể khí hư huyết ứ.
- Triệu chứng chủ yếu: Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt vàng xạm, liệt nửa người, chất lưỡi xám nhợt hoặc có điểm ứ huyết, mạch tế nhược hoặc tế sáp hoặc hư đại, huyết áp thường không cao hoặc không cao.
- Phép chữa: Bổ khí hóa ứ, thông lạc.
- Bài thuốc: “Bổ dương hoàn ngũ thang”
Sinh Hoàng kỳ 30-60g, Xích thược 8-12g, Đương quy 12g, Xuyên khung 8g, Đào nhân 8g, Hồng hoa 8g, Địa long 6-8g. Sắc uống.
- Gia giảm:
+ Thận hư gia Can địa hoàng, Sơn thù, Nhục thung dung, Ngưu tất, Tang ký sinh, Đỗ trọng.
+ Huyết áp cao gia Thanh mộc hương, Thảo quyết minh, Phòng kỷ.
+ Chân tay hồi phục chậm gia Đơn sâm, Xuyên giáp hoạt huyết, Quất hồng, Thanh bì hóa đàm thông lạc.
- Một số bài thuốc khác như:
1/ Dịch thông mạch sơ lạc gồm: Hoàng kỳ, Xích thược, Xuyên khung, Đơn sâm dùng truyền tĩnh mạch.
2/ Cố bản phục nguyên thang gồm: Hoàng kỳ, Đơn sâm, Kê huyết đằng, Hoàng tinh, Hải tảo, Huyền sâm, thích hợp với thể âm hư. Ngoài ra bệnh viện Bắc kinh có chế bài thuốc uống gồm có độc vị Thủy điệt (con đỉa) dùng có kết quả.
* Đối với thể âm hư dương thịnh (liệt nửa người, sắc mặt đỏ, đau đầu chóng mặt, bứt rứt, chất lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch huyền sác …) có thể dùng bài “Kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia Thạch quyết minh, Câu đằng, Đơn sâm, Xích thược để tư âm tiềm dương, hoạt huyết thông lạc.
c- Giai đoạn di chứng:
Thường sau 6 tháng, sự hồi phục chức năng cơ thể người bệnh tuy vẫn tiếp tục nhưng chậm lại và thường để lại ít nhiều di chứng, có di chứng khó hồi phục trở lại bình thường.
Bệnh lý ở giai đoạn này cơ bản là giống giai đoạn hồi phục chủ yếu là hư chứng (tùy từng bệnh nhân mà biểu hiện thiên về khí hư, huyết hư, âm hư hoặc dương hư) kiêm khí huyết ứ trệ hoặc đàm thấp trở lại, nên phép chữa vẫn cần chú ý bổ ích khí huyết, tư âm tiềm dương, hành khí hóa ứ, sơ thông kinh lạc.
Đối với giai đoạn này cũng như giai đoạn hồi phục, ngoài việc dùng thuốc ra, kết hợp các phương pháp luyện tập dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu là rất quan trọng có vai trò quyết định sự hồi phục các chức năng vận động, lao động trí óc và chân tay. Ba mặt điều trị tối quan trọng đối với người bệnh trong giai đoạn hồi phục và di chứng là: tự tạo cho mình một tinh thần, tự xây dựng cho mình một chế độ sinh hoạt điều độ, ăn uống thanh đạm, làm việc vừa sức, không ham dục vọng kết hợp với sự luyện tập nhẹ nhàng thường xuyên đều đặn là những vấn đề thiết yếu (có thể gọi là “tam pháp bảo”) để bảo vệ sức khỏe, làm tăng sức khỏe và chống tái phát đối với bệnh nhân.
B- NHŨN NÃO:
Nhũn não là một trạng thái bệnh lý do sự hình thành huyết khối ở não làm tắc động mạch não → tổ chức não thiếu máu nuôi dưỡng mà sinh ra nhũn não. Sự hình thành huyết khối trong động mạch não là do động mạch não vốn bị xơ cứng, lòng mạch hẹp, máu chảy chậm lại, huyết khối hình thành và làm tắc nghẽn động mạch nuôi dưỡng não. Triệu chứng chủ yếu là liệt nửa người.
1- Triệu chứng lâm sàng:
Người bệnh phần lớn trên 50 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Phát bệnh bất kỳ lúc nào, có khi đang nghỉ ngơi, đang lao động, có nhiều người ngủ dậy phát hiện liệt nửa người. Thường lúc phát bệnh, tinh thần tỉnh táo, huyết áp bình thường hoặc hơi cao, đối với một số người bệnh khởi phát từ từ, trước đó có triệu chứng đau đầu chóng mặt, trí nhớ giảm sút, chân tay tê hoặc yếu, nói hơi khó … sau 1-2 ngày mới thấy liệt nửa người. Do bệnh lý ở bộ phận mạch máu não khác nhau mà triệu chứng lâm sảng cũng khác nhau. Bệnh nặng và thường đến từ từ, có thể ý thức vẫn tỉnh táo. Chứng nhũn não cũng thường có tiền sử xơ cứng động mạch hoặc huyết áp cao.
2- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
a/ Người trên 50 tuổi có tiền sử bệnh xơ cứng động mạch hoặc huyết áp cao, liệt nửa người, nói khó hoặc không nói được xuất hiện từ từ.
b/ Nước não tủy bình thường.
c/ Nếu có điều kiện chụp mạch máu não, làm điện não đồ và kiểm tra CT não giúp xác định chẩn đoán.
3- Phân tích cơ chế bệnh theo y học cổ truyền:
Người lớn tuổi thường nguyên khí suy giảm, huyết hành là nhờ có lực của khí cho nên khí hư → lực đẩy kém → huyết dễ ứ trệ → huyết ứ → tắc mạch. Mặt khác, do can thận âm hư, can dương thịnh sẽ sinh đàm sinh phong, can phong động gây co mạch, thuận lợi cho huyết khối làm tắc nghẽn khiến huyết mạch không lưu thông. Hoặc người bệnh vốn béo mập đàm thịnh dẫn đến ứ kết cũng làm mạch lạc không thông. Bệnh cơ chính là do khí hư, huyết khối hình thành làm tắc nghẽn mạch, huyết mạch không thông sinh bệnh.
4- Biện chứng luận trị:
Trên lâm sàng thường gặp 2 thể bệnh:
a/ Khí hư huyết ứ: là thể bệnh thường hay gặp.
- Triệu chứng chủ yếu: phần lớn bệnh nhân thể chất khí hư, sắc mặt tái nhợt, hơi ngắn, dễ mệt, ra nhiều mồ hôi, tiêu phân lỏng, chất lưỡi nhợt, rìa lưỡi có dấu răng, trên mặt hoặc dưới lưỡi có điểm hoặc nốt ứ huyết, một bộ phận chân tay tê dại, liệt nửa người hoàn toàn hoặc yếu, mồm méo, nói khó hoặc không nói được, mạch vi tế hoặc hư đại, tinh thần tỉnh táo.
- Phép chữa: Bổ khí, hóa ứ, thông lạc.
- Bài thuốc:
(1) “Bổ dương hoàn ngũ thang”
(2) Có thể dùng bài “Thông lạc hóa ứ” gồm bột Sâm Tam thất, Thủy điệt, Ngô công trộn đều theo tỷ lệ 2:2:1, mỗi lần uống 3g, ngày 3 lần để tăng cường hóa ứ thông lạc.
- Gia giảm:
+ Trong trường hợp bệnh nhân béo mập gia thuốc hóa đàm như Bào Nam tinh, sao Bạch giới tử, Trúc lịch, nước gừng tươi.
+ Trường hợp có nhiệt chứng như váng đầu, hoa mắt, mặt đỏ, bứt rứt khó chịu, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch huyền sác gia Hoàng cầm, Hạ khô thảo, Câu đằng, Thạch quyết minh, Thảo quyết minh, Bạch thược, Cúc hoa, Hắc Chi tử để thanh nhiệt bình can.
b/ Can thận âm hư:
- Triệu chứng chủ yếu: Bệnh nhân da khô nóng, thường hay hoa mắt váng đầu, tim hồi hộp, mất ngủ, bứt rứt, lưng đau gối mỏi, tiêu bón, bàn chân tay tê dại, thân lưỡi thon, rìa lưỡi đỏ, rêu dày nhớt, liệt nửa người, mồm méo, tiếng nói không rõ, mạch huyền tế sác hoặc huyền hoạt. Huyết áp cao hoặc bình thường.
- Phép trị: Tư âm tức phong, hóa đờm tán ứ, thông kinh hoạt lạc.
- Bài thuốc: “Mạch vị địa hoàng hoàn hợp Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm”
Mạch môn 12g, Ngũ vị 4-6g, Thiên ma 8-12g, Câu đằng 12g, Ngưu tất 12g, Ích mẫu thảo 12g, Tang ký sinh 12-16g, Đơn sâm 12g, Hồng hoa 8-12g, Thạch xương bồ 12g, Viễn chí 6g. Sắc uống.
Nói chung TBMMN thường có 2 thể bệnh: xuất huyết não và nhũn não có nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau, triệu chứng lâm sàng có những đặc điểm riêng. Xuất huyết não thường khởi phát đột ngột, phần lớn hôn mê, bệnh cảnh lâm sàng nặng dễ dẫn đến tử vong (hôn mê càng sâu, càng kéo dài thì tử vong càng cao). Nhũn não thường phát bệnh từ từ hơn, có những tiền triệu chứng, ít có hôn mê, tinh thần phần lớn là tỉnh táo, chỉ có liệt nửa người, rối loạn ngôn ngữ, bệnh cảnh lâm sàng nhẹ hơn, dễ hồi phục hơn, nhưng cũng có những trường hợp nhất là những trường hợp huyết khối từ các nơi khác di chuyển đến não làm tắc nghẽn mạch não thì phát bệnh cũng đột ngột và cũng có những trường hợp hôn mê nặng, cần lưu ý lúc chẩn đoán.
c/ Kết hợp điều trị bằng phương pháp YHHĐ:
Chủ yếu ở giai đoạn bệnh nhân hôn mê, bệnh nhân cần được:
- Bảo đảm thông khí đường hô hấp: hút đờm giải, thở oxy.
- Bảo đảm đủ chất dinh dưỡng: mỗi ngày ít nhất 1.500 calo. Truyền dung dịch ngọt ưu trương xen kẽ với dung dịch ngọt và dung dịch mặn đẳng trương.
- Theo dõi và xử trí kịp thời các biến chứng tim mạch như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim …
- Chống loét (cần thay đổi tư thế) và chống nhiễm khuẩn (dùng kháng sinh)
- Chống phù não: Lasix (Furosemide) 20 mg x 1 ống TM, dun dịch ngọt ưu trương 30% 40-100 ml, Glycérol MgSO4.
- Cân bằng nước, điện giải … ổn định huyết áp. Đối với bệnh nhân không hôn mê, huyết áp ổn định, thực hiện điều trị phục hồi càng sớm càng tốt.
5- Giới thiệu một số bài thuốc kinh nghiệm điều trị TBMMN:
(1) Địa long đơn sâm thang
- Công thức: Địa long 20g, Đơn sâm 30g, Xích thược 15g, Hồng hoa 15g, Một dược 10g. Sắc nước uống.
- Tác dụng: Hoạt huyết tức phong thông lạc. Chủ trị chứng trúng phong.
- Gia giảm:
+ Âm hư dương thịnh gia Quy bản 20g, Đơn bì, Mạch môn, Huyền sâm đều 15g.
+ Đàm thấp thịnh gia Bán hạ 15g, Trần bì, Phục linh đều 20g.
(2) Trúng phong tinh thần hợp tế
- Công thức:
1- Uất kim, Xương bồ đều 5g theo tỷ lệ 1:1 chưng lấy nước cất, đóng ống 10 ml.
2- Câu đằng, Tang ký sinh đều 20g, Hoàng cầm, Địa long đều 10g, tán bột mịn đóng gói 15g.
3- Bột sừng trâu 1,5g, Ngưu hoàng nhân tạo 1,3g tán bột thật mịn.
- Cách chế và dùng: Trước hết sắc (2) 15 phút sau cho (1) và (3) vào trộn đều uống, nếu nuốt khó cho vào đường mũi, mỗi ngày 3 lần: sáng, trưa và tối.
- Tác dụng: Bình can tức phong, thanh tâm khai khiếu. Chủ trị TBMMN cấp.
- Gia giảm:
+ Trường hợp sốt cao: uống Cam lộ thối nhiệt tán (Kim ngân hoa, sinh Thạch cao, Hạ khô thảo đều 20g, Chi tử 5g, tán bột mịn, đóng gói 15g/gói) bỏ vào sắc cùng với (2).
+ Đàm nhiều gia bài thuốc trừ đàm (Đờm tinh 6g, Viễn chí 10g, Quất hồng 10g, tán bột thô) sắc cùng (2).
(3) Tư thọ giải ngũ thang
- Công thức: Phòng phong 9g, Phụ phiến 6g, Thiên ma 6g, Toan táo nhân 9g, Linh dương giác 4,5g, Quế tâm 3g, Cam thảo 3g, Xuyên khung 9g, Huyền sâm 9g, Xương bồ 6g. Cho 400 ml nước sắc còn 200 ml.
Gia thêm Trúc lịch 1ml, nước gừng 1 ml trộn đều chia 2 lần, mỗi cách 1 giờ uống 1 lần.
(4) Linh liên thang
- Công thức: Hoàng cầm, Bán hạ, Chế nam tinh, Trúc nhự, Địa long đều 10g. Hoàng liên, Xuyên bối mẫu, Quất bì đều 9g. Phục linh, Chỉ thực, Ngưu tất đều 12g. Sắc uống.
- Tác dụng: Táo thấp hóa đờm, thanh nhiệt trừ phiền, điều hòa can đởm. Chủ trị chứng trúng phong.
- Gia giảm:
+ Chân tay đau tê dại, chất lưỡi đỏ thẫm hoặc có ban ứ huyết, bỏ Xuyên bối, Ngưu tất, Quất bì, gia Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa.
+ Âm hư rõ gia Bạch thược, Sinh địa, Thạch hộc, Ngọc trúc, Huyền sâm.
+ Táo bón gia Qua lâu, Ma nhân
+ Ngủ kém gia Táo nhân, Viễn chí, Dạ giao đằng.
(5) Thông mạch sơ lạc phương
- Công thức:
1- Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thược chế thành dịch tiêm, truyền tĩnh mạch mỗi ngày 250 ml, 1 liệu trình 10 ngày, nghỉ 4 ngày, tiếp tục liệu trình 2.
2- Hoàng kỳ 30g, Xuyên khung 10g, Địa long 15g, Ngưu tất 15g, Đơn sâm 30g, Quế chi 6g, Sơn tra 30g sắc nước uống.
- Tác dụng: Ích khí hoạt huyết thông lạc. Chủ trị nhũn não do huyết khối.
- Gia giảm:
+ Có rối loạn ngôn ngữ và ý thức thuộc khí uất đàm thấp: bài (1) gia Uất kim, Xương bồ, Đơn sâm chế thuốc chích, mỗi lần chích 4ml, ngày 2 lần.
+ Nói và nuốt khó: bỏ Quế chi gia Đởm nam tinh 10g, Uất kim 10g.
+ Đau đầu nhiều: bỏ Quế chi gia Cương tàm, Cúc hoa 15g
+ Chóng mặt mà cơ thể mập, bỏ Quế chi giảm lượng 10g Hoàng kỳ, gia Bạch truật, Trạch tả đều 10g, Phục linh 15g.
+ Can dương thịnh: bỏ Quế chi, Xuyên khung, Hoàng kỳ gia Trân châu mẫu 30g, Sung úy tử 10g.
+ Ăn kém, rêu lưỡi trắng dày, bỏ Quế chi gia Bạch truật, Phục linh đều 10g, Ý dĩ 20g hoặc Hoắc hương 10g, Bội lan 10g.
+ Nôn: gia Trúc nhự 10g, Khương bán hạ 10g.
+ Co giật: bỏ Quế chi gia Bạch cương tàm 10g, Câu đằng 10g.
+ Táo bón, mồm hôi gia Đại hoàng 12g (cho sau).
(6) Đào hồng thông mạch phương
- Công thức: Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Xuyên sơn giáp, Quế chi, Địa long, Bạch thược đều 10g, Sinh hoàng kỳ, Đơn sâm đều 15g, chế thành thuốc bột, hòa uống, lượng trên thành 1 gói, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần ¼ gói.
Trường hợp nặng và bệnh lâu ngày, mỗi ngày 1 gói, chia 2-3 lần, uống.
- Tác dụng: Hoạt huyết thông mạch.
- Chủ trị: nhũn não giai đoạn hồi phục và di chứng.


(Đông y điều trị bệnh tim mạch. GS.BS. Trần Văn Kỳ)
 

HUYẾT ÁP THẤP

I- ĐẠI CƯƠNG
Huyết áp thấp là biểu hiện của sự rối loạn chức năng vỏ não của trung khu thần kinh vận mạch. Bệnh huyết áp thấp có thể bao gồm huyết áp thấp triệu chứng và huyết áp thấp tư thế.
Huyết áp thấp là khi trị số huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg và huyết áp tâm trương dưới 60 mmHg, mạch áp có hiệu số thường dưới 20 mmHg.
Triệu chứng chủ yếu là hoa mắt, chóng mặt. Huyết áp thấp theo YHCT thuộc thể hư của chứng “huyễn vựng”.
II- TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
Huyết áp thấp trên lâm sàng thường chia ra “huyết áp thấp triệu chứng” và “huyết áp thấp tư thế”.
Huyết áp thấp triệu chứng là loại huyết áp thấp thứ nhất thường gặp trong các bệnh xuất huyết cấp, bệnh suy tim, nhồi máu cơ tim, nhịp tim không đều (tim đập quá nhanh hoặc quá chậm), thiếu máu mạn tính, trạng thái dinh dưỡng kém kéo dài … Ngoài những triệu chứng của bệnh gây nên huyết áp thấp, đo huyết áp tối đa dưới 90 mmHg và huyết áp tối thiểu dưới 60 mmHg, mạch áp dưới 20 mmHg. Người bệnh mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, tinh thần buồn ngủ, khó thở, lười nói, hồi hộp. Người lớn và cao tuổi có hiện tượng đau tức ngực, đau đầu, trí nhớ giảm, tinh thần khó tập trung, nặng có thể hôn mê, đột quỵ (trúng phong, tai biến mạch não do tắc mạch não) hoặc nhồi máu cơ tim.
Huyết áp thấp do tư thế có đặc điểm là bệnh nhân đang tư thế nằm lúc đứng dậy huyết áp tụt nhanh, thường gặp ở người cao tuổi và có trạng thái suy nhược kéo dài, cũng có thể thứ phát của các bệnh Addison, thiểu năng tuyến giáp, bệnh thần kinh do tiểu đường, chứng rỗng tủy. Ngoài ra thuốc hạ áp cũng có thể gây huyết áp thấp như Reserpin …
Trên lâm sàng dù huyết áp thấp do nguyên nhân nào thì biểu hiện chủ yếu là lúc đứng dậy đột ngột đều sinh hoa mắt, chóng mặt, nặng đầu, mắt mờ, người mệt mỏi, chân tay lạnh, thậm chí hôn mê, đột quỵ, huyết áp tụt rõ rệt. Người bệnh có lúc đứng lâu tụt huyết áp, ra mồ hôi, buồn nôn, tim đập chậm. Những người huyết áp thấp nguyên phát tư thế đứng thẳng (phần nhiều người lớn tuổi) có thể kèm theo liệt dương, tiểu tiện không tự chủ, sau một thời gian có thể phát sinh nói khó, sụp mi mắt, đi không vững, chân tay run, tê dại ... Hội chứng huyết áp thấp nặng phát sinh tụt huyết áp đột ngột, sắc mặt trắng bệch, ra mồ hôi lạnh, buồn nôn, không ngồi đứng dậy được dẫn tới hôn mê, tay chân lạnh, mạch tế huyền sác. Đối với những người cao tuổi huyết áp thấp cần cảnh giác với hội chứng bệnh lý này.
III- CHẨN ĐOÁN: Chủ yếu dựa vào:
- Có triệu chứng váng đầu, mệt mỏi, huyết áp dưới 90/60 mmHg.
- Có triệu chứng thiếu máu não kèm theo huyết áp thấp tư thế. Có 1 trong 2 điểm có thể xác định chẩn đoán, trường hợp thứ 2 xác định là huyết áp thấp tư thế.
IV- BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ:
Chứng huyết áp thấp do bất kỳ nguyên nhân nào, theo YHCT đều thuộc "chứng Hư". Nhẹ thì do Tâm dương bất túc, Tỳ khí suy nhược, nặng thì thuộc thể Tâm Thận dương suy, vong dương hư thoát.
1/ Tâm dương bất túc: Thường gặp ở tuổi thanh nữ và người cao tuổi.
- Triệu chứng lâm sàng: Váng đầu, hoa mắt, tinh thần mệt mỏi, buồn ngủ, ngón tay lạnh, chất lưỡi nhạt, thân lưỡi bệu, rêu trắng nhuận, mạch hoãn vô lực hoặc trầm tế.
- Phép trị: Ôn bổ Tâm dương.
- Bài thuốc: "Quế chi cam thảo thang gia vị"
Nhục quế, Quế chi, Chích cam thảo đều 10g, mỗi ngày 1 thang sắc uống liên tục 9 - 12 thang, hoặc hãm nước sôi uống như nước trà.
- Gia giảm:
Trong trường hợp chất lưỡi đỏ, rêu vàng khô, là chứng khí âm bất túc, gia Mạch môn, Ngũ vị để ích khí dưỡng âm.
Trường hợp khí hư, ít nói, ra mồ hôi thì bổ khí, dùng gia Hồng sâm để bổ khí trợ dương.
Trường hợp HA tâm thu dưới 60 mmHg, chân tay lạnh, có triệu chứng vong dương, đơn trên bỏ Quế chi gia Hồng nhân sâm, Phụ tử chế để hồi dương cứu thoát.
2/ Trung khí bất túc, Tỳ Vị hư nhược:
- Triệu chứng lâm sàng: Váng đầu, tim hồi hộp, hơi thở ngắn, tinh thần mệt mỏi, chân tay mềm yếu, sợ lạnh, dễ ra mồ hôi, ăn kém, ăn xong đầy bụng, chất lưỡi nhợt, rêu trắng hoạt, mạch hoãn vô lực.
- Phép trị: Bổ trung ích khí, kiện tỳ vị.
- Bài thuốc: "Hương sa lục quân gia giảm".
Hồng sâm 8g, Bạch truật 10g, Bạch linh 10g, Đương quy 12g, Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 12g, Chỉ thực 8g, Trần bì 8g, Mộc hương 6g, Sa nhân 6g, Quế chi 6g, Chích thảo 4g, Đại táo 12g, Gừng tươi 3 lát.
Sắc uống ngày 1 thang.
3/ Tỳ Thận dương hư:
- Triệu chứng lâm sàng: Váng đầu, ù tai, mất ngủ, mệt mỏi, hơi thở ngắn, ăn kém, đau lưng mỏi gối, chân tay lạnh, sợ lạnh hoặc di tinh, liệt dương, tiểu đêm, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm nhược.
- Phép trị: Ôn bổ Tỳ Thận dương.
- Bài thuốc: "Chân vũ thang gia vị".
Đảng sâm 12g, Chế phụ tử 6 - 8g (sắc trước), Bạch truật 12g, Bạch thược 12g, Bạch linh 12g, Nhục quế 6g, Câu kỷ tử 12g, Liên nhục 12g, Bá tử nhân 12g, Ích trí nhân 10g, Toan táo nhân (sao) 20g, Dạ giao đằng 12g, Gừng tươi 3 lát, sắc uống.
4/ Khí âm lưỡng hư:
- Triệu chứng lâm sàng: Đau đầu, chóng mặt, mồm khát, họng khô, lưỡi thon đỏ, ít rêu, khô, mạch tế sác.
- Phép trị: Ích khí dưỡng âm.
- Bài thuốc: "Sinh mạch tán gia vị"
Tây dương sâm 20g, Mạch môn 16g, Ngũ vị tử 4g, Hoàng tinh 12g sắc uống.
V- GIỚI THIỆU NHỮNG BÀI THUỐC KINH NGHIỆM:
(1) Trà Quế cam (Vương Hưng Quốc, tỉnh Sơn Đông, Sở nghiên cứu trung y tế Ninh).
- Công thức: Quế chi, Cam thảo đều 8g, Quế tâm 3g, ngày 1 gói hãm nước sôi uống.
- Liệu trình: 50 ngày.
(2) Quế chi cam phụ thang (Dương Vạn Lâm, tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc)
- Công thức: Quế chi, Cam thảo, Xuyên phụ tử đều 15g, ngày 1 thang hãm nước sôi uống thay trà.
- Ghi chú: Lúc dùng thuốc bệnh nhân ngủ kém gia Dạ giao đằng 50 - 70g. Trường hợp nặng có thể gia thêm Hồng sâm 15 - 25g, Phụ tử gia đến 30g sắc trước 1 giờ. Trước khi dùng bài này, tác giả đã dùng các bài "Bổ trung ích khí, Quy tỳ thang", kết quả không rõ rệt.
(3) Thục địa hoàng kỳ thang (Vương Triệu Khuê, Hà Bắc)
- Công thức: Thục địa 24g, Sơn dược 24g, Đơn bì, Trạch tả, Phục linh, Mạch môn, Ngũ vị tử đều 10g, Sơn thù 15g, Hoàng kỳ 15g, Nhân sâm 6g (Đảng sâm 12g) sắc uống.
- Biện chứng gia giảm: Khí hư rõ dùng Hoàng kỳ 20 - 30g, Khí âm lưỡng hư: thay Nhân sâm bằng Thái tử sâm 20g, huyết hư gia Đương quy, váng đầu nặng gia Cúc hoa, Tang diệp, âm hư hỏa vượng gia Hoàng bá, Tri mẫu, kiêm thấp: trọng dụng Phục linh, lưng gối nhức mỏi, chân sợ lạnh: gia Phụ tử, Nhục quế.
(4) Trương thị thăng áp thang (Trương Liên Ba, tỉnh Giang Tô).
- Công thức: Đảng sâm 12g, Hoàng tinh 12g, Nhục quế 10g, Đại táo 10 quả, Cam thảo 6g. Sắc uống.
- Liệu trình: 15 ngày.
VI- ĐIỀU TRỊ BẰNG CHÂM CỨU:
Cứu các huyệt sau: Bách hội, Túc tam lý, Quan nguyên, Khí hải, Dũng tuyền, có thể chọn 3 hoặc 4 huyệt mỗi lần theo kinh nghiệm của chúng tôi có kết quả tốt.
VII- ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC TÂY:
Tốt nhất là tìm nguyên nhân gây tụt huyết áp để loại trừ (do bệnh hay do dùng thuốc). Những người có tiền sử hạ huyết áp tư thế (thế đứng) cần chú ý thận trọng lúc dùng thuốc hạ áp, và tránh dùng những loại thuốc dễ gây tụt huyết áp.
Có thể dùng các loại thuốc:
- Heptamyl viên 0,2 mỗi lần uống 12 viên x 3 lần/ngày.
- Heptamyl giọt, mỗi lần uống 30 - 50 giọt x 3 lần/ngày. Trẻ em 10 - 20 giọt x 2 lần/ngày.
- Heptamin tiêm 2 ml (125 mg) tiêm bắp hay tĩnh mạch chậm, người lớn 2 - 10 ml/lần, mỗi ngày có thể tiêm một hay nhiều lần.
- Praxinor (Théodrénaline + Cafédrine) uống 2 viên vào sáng và 1 viên vào đầu giờ trưa.
Đối với huyết áp tụt thể đứng có thể dùng các biện pháp buộc băng chân hoặc nịt ép bụng.

(Đông y điều trị bệnh Tim mạch. GS.BS. Trần Văn Kỳ)