Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

ĐẠI CƯƠNG VỀ GÃY XƯƠNG (Củ tiết)

TS. Lê Lương Đống
Mục tiêu
1. Nêu được định nghĩa và nguyên nhân của gãy xương.
2. Mô tả được triệu chứng lâm sàng và biến chứng của gãy xương.
3. Nắm được tiến triển của gãy xương.
1. Định nghĩa
Gãy xương là sự phá huỷ đột ngột các cấu trúc bên trong của xương do nguyên nhân cơ học, do đó gây ra sự gián đoạn về truyền lực qua xương. Hoặc nói cách khác, xương mất tính liên tục và hoàn chỉnh do ngoại lực gây nên.
2. Nguyên nhân và phân loại
 Hầu hết các gãy xương là do chấn thương, do lực uốn bẻ (hoặc xoắn vặn, hoặc cả hai), trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên. Nếu một xương có bệnh (viêm, u...) bị gãy được gọi là gãy xương bệnh lý hay còn gọi là gãy xương tự nhiên. Ngoài ra các chấn thương tuy nhẹ, nhưng lặp đi, lặp lại nhiều lần gây gãy xương được gọi là gãy xương do stress.
Ngoài các loại gãy xương điển hình thì ở trẻ em thường gặp các loại gãy cành tươi, gãy xương cong tạohình, gãy bong sụn tiếp; ở người cao tuổi và phụ nữ mãn kinh gãy lún, gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay...
Xương có thể gãy không hoàn toàn, cong tạo hình, phình vỏ xương, gãy cành tươi; gãy hoàn toàn làm hai hay nhiều đoạn, nhiều mảnh. Ngoài ra còn các loại gãy cài, gãy lún, bong sụn tiếp hợp...
Các loại di lệch điển hình: bên - bên, chồng, gián cách hai mặt gãy, gấp góc và xoay.
3. Biến chứng
− Choáng do đau.
− Mất máu (kể cả gãy kín).
− Tắc mạch máu do mỡ ở tuỷ.
− Hội chứng chèn ép khoang.
− Thương tổn mạch máu lớn, Thần kinh ngoại biên.
− Gãy hở và nhiễm trùng.
− Hội chứng rối loạn dinh dưỡng.
− Can xấu.
− Rối loạn chức năng vận động.
4. Triệu chứng lâm sàng
4.1. Ba dấu hiệu chắc chắn gãy xương − Biến dạng.
− Cử động bất thường.
− Tiếng lạo sạo (thường được nhận biết từ cảm giác ngón tay người khám).
4.2. Ba dấu hiệu không chắc chắn − Đau.
− Hạn chế hoặc mất vận động.
− Sưng, vết bầm tím.
Ngoài gãy xương, cần chú ý biến chứng và các tổn thương kèm theo (đa chấn thương).
4.3. Các dấu hiệu gãy xương bằng hình ảnh
Trên phim X quang chụp theo hai bình diện (tư thế khác nếu cần), lấy cả hai khớp của một thân xương; chụp cắt lớp cổ điển hoặc cộng hưởng từ (ít dùng) với các gãy phức tạp... đã cho thấy vị trí gãy, đường gãy, các di lệch.
Cần chú ý đến các tổn thương sụn khớp, mô mềm.
5. Tiến triển của gãy xương
Liền xương gãy là phản ứng sinh học tự nhiên của cơ thể sống. Các thành tựu về sinh học liền xương đến nay hay nêu hai yếu tố chính giúp cho xương liền vững:
− Sự phục hồi giao thông máu ở ổ gãy xương: quan trọng nhất là phục hồi tuần hoàn càng sớm, càng phong phú, giao thông tốt... thì càng đảm bảo sự nuôi dưỡng vùng xương gãy, cho đến khi hệ thống mạch máu trong ống tuỷ đảm đương trở lại chức năng nuôi dưỡng chính yếu.
− Sự bất động ổ gãy: là yếu tố cơ - sinh học đảm bảo cho xương liền vững; không được bất động gây đau đớn dữ dội, gây co mạch và làm giảm giao thông máu ở vùng gãy. Các đầu gãy di động có hại sẽ phá huỷ các mạch máu tân tạo, các mặt gãy không áp sát vào nhau (điều kiện để xương liền). Việc bất động không tốt còn gây ra di lệch thứ phát, can lệch...
Tóm lại, để xương gãy có thể liền tốt cần có các điều kiện sau:
+ Phục hồi lưu thông máu đầy đủ vùng gãy.
+ áp sát hai mặt gãy, khoảng cách không vượt quá mức cho phép tuỳ loại gãy, tuỳ lứa tuổi.
+ Bất động vững vàng ổ gãy, đồng thời cho phép vận động sớm cơ khớp.
+ Không có các yếu tố ngoại lai làm cản trở liền xương.
Có thể tóm tắt quá trình liền xương gãy gồm ba giai đoạn liên tiếp, xen kẽ nhau:
− Giai đoạn sung huyết (hyperémie): tiêu sạch mô hoại tử, làm sạch ổ gãy.
− Giai đoạn phục hồi: mô hàn gắn vùng xương bị gián đoạn.
− Giai đoạn tạo hình xương: mô tái tạo được thêm các chất vô cơ trở thành mô xương chính thức.
Tuỳ theo chất lượng bất động mà xương gãy được liền theo ba hình thức cơ bản: liền xương trực tiếp, liền xương gián tiếp và liền xương theo phương pháp căng giãn.
5.1. Liền xương trực tiếp
Liền xương trực tiếp là sự liền xương thẳng từ mô xương do máu tạo ra. Mô xương chỉ phát triển ở bên trong khe giữa các mặt xương gãy, không có can bắc cầu. Trên film X quang: ít có hình ảnh các đường can bên ngoài, đường gãy hẹp dần và biến mất.
Điều kiện quan trọng nhất để có liền xương trực tiếp là:
− Các đoạn gãy phải được bất động vững chắcđến mức gần như không còn một di động nào giữa 2 đầu gãy (nhất là những di động có hại như di động xoắn vặn, uốn bẻ, di lệch ngang), chỉ cho phép di lệch nhỏ theo trục tỳ nén (di lệch hữu ích là tăng sự tiếp xúc giữa hai mặt gãy).
− Các điều kiện khác như: đảm bảo lưu thông máu nuôi dưỡng đầy đủ ở vùng gãy, 2 mặt gãy càng áp sát nhau càng tốt.
Những khó khăn trong quá trình liền xương trực tiếp:quá trình liền xương trực tiếp phụ thuộc vào sự nắn chỉnh chính xác về mặt giải phẫu và chất lượng cố định. Giới hạn giao động cho phép là rất nhỏ. Trên thực nghiệm và trên lâm sàng người ta đã chứng minh là khe giữa các đầu gãy không nên quá 0,5-1mm nếu muốn có sự lấp đầy khe gãy bằng xương trong 4-6 tuần.
5.2. Liền xương gián tiếp
Hoàn cảnh liền gián tiếp: bất động không hoàn toàn vững chắc.
Hình thức liền xương: can xương hình thành không những ở khe giữa các mặt gãy với nhau mà còn bắc cầu cả bên ngoài thân xương tạo thành can xương to bao bọc lấy ổ gãy.
Theo Hunter (1837) quá trình liền xương theo các bước như sau:
1. Viêm tấy.
2. Can xơ mềm.
3. Can sụn cứng.
4. Tạo hình can xương.
Về diễn biến sinh học, liền xương gián tiếp cũng diễn biến tương tự như liền xương trực tiếp.
5.3. Liền xương bằng phương pháp căng giãn
Ilizarov từ thập kỷ 60 đã có công đề xuất dùng phương pháp căng giãn dần dần các đoạn gãy mà tạo ra xương mới. Điều kiện để liền xương theo phương thức này là:
− Không phá huỷ tuỷ xương:nhằm bảo toàn và không làm tổn thương các mô sinh xương cũng như các mạch máu nuôi xương.
− Căng giãn chậm, chính xác: 1mm /24h chia làm nhiều lần, ( > 4 lần). Nhịp độ căng giãn khoảng 2mm có thể làm ngừng hẳn hiện tượng sinh xương do thiếu nuôi dưỡng; ngược lại nhịp độ kéo căng giãn chậm (khoảng 0,5mm/24h) có thể dẫn đến sự liền xương sớm, cản trở mục đích kéo dài xương.
− Phải cố định vững chắc, đàn hồi:chỉ cho phép một kiểu di động xương duy nhất theo trục dọc trong suốt quá trình điều trị.
− Tỳ nén sớm trên chi căng giãn (đối với chi dưới).
5.4. Rối loạn của liền xương
Các rối loạn này bao gồm: chậm liền xương và khớp giả.
− Chậm liền xương là một khái niệm quy ước, khi một xương gãy phải bất động dài hơn thời gian bất động trung bình của loại gãy xương đó mới liền vững.
Đa số các tác giả coi thời gian phải bất động thêm bằng 1/2 thời gian bất động trung bình nói trên.
− Khớp giả: theo kinh điển là sự liền xương ngừng ở giai đoạn can sụn, xơ không đạt được vững chắc dù được bất động lâu dài.
Nguyên nhân phổ biến gây khớp giả là xương gãy không được bất động tốt hoặc bất động quá ngắn không đủ thời gian.
Một loại khớp giả lỏng lẻo do mất nhiều xương, trên phim X quang có gián cách > 1cm được gọi là mất đoạn xương.
Nguyên nhân: đa số nguyên nhân toàn thân chỉ gây chậm liền xương, còn nguyên nhân khớp giả thường do thiếu sót trong điều trị, nhất là bất động không đủ vững hoặc không đủ thời gian có thể gây nên chậm liền xương hoặc khớp giả.
Về tự điều chỉnh di chứng biến dạng: di chứng biến dạng sau gãy xương thông thường có bốn loại là ngắn chi, bậc thang (hình lưỡi lê), gấp góc và xoay ngoài hoặc xoay trong. Phần lớn các biến dạng đều được sửa chữa theo xu hướng tốt hơn theo thời gian (tuổi càng nhỏ, khả năng tự sửa chữa càng lớn). Riêng xương gãy liền ở tư thế còn di lệch xoay thì trong quá trình phát triển, cơ thể ít tự điều chỉnh được di lệch này. Do vậy trong khi nắn chỉnh cần phải sửa di lệch này, đôi khi người ta phải phẫu thuật đục xương sửa lại.
Những nghiên cứu trên thực nghiệm cũng như những kinh nghiệm đúc rút ra từ lâm sàng, cận lâm sàng đã làm rõ quy luật chung của quá trình liền xương, được hoạt hoá và điều tiết bởi các trạm phát tín hiệu khu vực và các trung tâm điều tiết nằm trong tổng thể mối liên hệ các cộng đồng tế bào, tạo ra các hoạt động ngắn hạn, phạm vi hẹp. Điều mà bốn năm chục thập kỷ qua được các nhà chuyên môn coi là “chân lý” trong điều trị gãy xương là: sau khi phục hồi hình thể giải phẫu, các đoạn gãy phải được bất động tốt, liên tục, đủ thời gian, đảm bảo cung cấp máu nuôi dưỡng cho các đầu gãy và tổ chức phần mềm, đảm bảo không làm rối loạn quá trình sinh học tự nhiên tại ổ gãy, đồng thời vận động sớm hệ cơ khớp để phục hồi cơ năng.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống
− Gãy xương là….qua xương.
− Ba dấu hiệu chắc chắn của gãy xương là…..
− Ba dấu hiệu nghi ngờ gãy xương là….
2. Hãy điền chữ Đ cho câu đúng và chữ S cho câu sai
* Điều kiện để có xương liền trực tiếp là
− Các đoạn xương gãy phải được bất động vững chắc Đ/S
− Máu nuôi dưỡng đầy đủ Đ/S
* Di chứng biến dạng sau gãy xương là
− Ngắn chi Đ/S
− Gấp góc, xoay ngoài hoặc xoay trong Đ/S
− Tuổi càng lớn khả năng sửa chữa xương càng lớn Đ/S
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

MỘT SỐ LOẠI GÃY XƯƠNG (Củ triết)

TS. Lê Lương Đống
Mục tiêu
1. Mô tả được các loại gãy xương thường gặp.
2. Trình bày được phương pháp điều trị gãy xương.
1. Gãy đầu dưới xương quay
1.1. Đặc điểm
− Gãy đầu dưới xương quay chiếm khoảng 50% các gãy xương nói chung.
− Gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất ở tuổi 50-60, nhất là phụ nữ mãn kinh.
− Là loại gãy gài, dễ chẩn đoán, dễ liền xương, nhưng việc điều trị không phải là đơn giản.
1.2. Phân loại
− Dựa vào cơ chế chia 2 loại chính:
+ Gãy duỗi: do ngã chống tay, cổ tay duỗi là thường gặp nhất. Đại diện cho nhóm này là Pouteau- Colles; đoạn gãy xa di lệch lên trên, ra sau và ra ngoài.
+ Gãy gấp: do ngã chống tay cổ tay gấp, loại này ít gặp hơn. Đại diện cho nhóm này là Goyrand- Smith; đoạn gãy xa di lệch lên trên, ra trước và ra ngoài.
− Ngoài ra còn chia theo vị trí gãy, gồm có:
+ Gãy ngoài khớp.
+ Gãy thấu khớp (trong đó có các loại như gãy bờ khớp trước, gãy mỏm trâm).
Gãy Pouteau - Colles và Goyrand - Smith là những gãy xương ngoài khớp, đường gãy đơn giản. Nếu đường gãy phức tạp nhiều mảnh và thấu khớp thì không xếp vào loại gãy này. Nếu một mảnh của bờ khớp trước bị gãy di lệch lên trên, làm trật khớp cổ tay ra trước thì được gọi là kiểu gãy Barton.
1.3. Chẩn đoán Dựa vào:
− Bệnh sử: chú ý nguyên nhân, cơ chế và tuổi.
− Triệu chứng lâm sàng.
− Phim X quang.
1.3.1. Triệu chứng lâm sàng
− Triệu chứng cơ năng: đau vùng cổ tay, vận động gấp duỗi hoặc sấp ngửa hạn chế.
− Triệu chứng thực thể:
+ Sưng vùng cổ tay, ít khi thấy bầm tím, nếu gãy thấu khớp sẽ thấy bao khớp căng phồng.
+ ấn đau nhói ở đầu dưới xương quay.
+ Biến dạng:
• Mỏm trâm quay lên cao, có thể ngang bằng mỏm trâm trụ (dấu Laugier).
• Nhìn thẳng: trục cẳng tay kéo dài không qua ngón 3 mà lệch qua ngón 4. Biến dạng này còn được gọi là dấu hiệu lưỡi lê (đúng hơn là lưỡi lê cắm trên đầu súng) hay dấu hiệu bayonet là gãy.
• Nhìn nghiêng:
Nếu là gãy duỗi: đầu dưới xương quay lệch ra sau tạo nên biến dạng hình lưng nĩa (hay mu thìa). Nếu là gãy gấp: di lệch ngược lại, cổ tay gấp về phía lòng nhiều hơn.
Ngoài ra cần tìm hiểu thêm các triệu chứng của thương tổn đi kèm:
ấn vào giữa khớp quay- trụ dưới, nếu đau tăng có thể bong khớp quay trụ dưới.
ấn mỏm trâm trụ nếu đau tăng có thể gãy mỏm trâm trụ.
ấn hố lào nếu đau tăng có thể gãy xương thuyền.
ấn phía trước cổ tay, nếu đau tăng và có dấu hiệu không duỗi thẳng được ngón 3, có thể là trật xương bán nguyệt.
1.3.2. X quang
Nên chụp đúng tư thế cẳng tay để ngửa. Phim xác định có gãy xương, đường gãy, di lệch, loại gãy và tổn thương đi kèm. Khi nghi có gãy xương thuyền nên chụp thêm phim có tư thế đặc biệt cho xương này.
− Gãy đầu dưới xương quay kiểu duỗi (Pouteau- Colles):
+ Vị trí gãy: cách bờ khớp trước khoảng 2cm.
+ Đường gãy thường gãy ngang, không thấu khớp.
+ Di lệch; chồng ngắn; sang bên ra ngoài, ra sau; gấp góc mở ra sau.

Hình 8.1. Gãy đầu dưới xương quay và di lệch điển hình − Gãy Goyrand- Smith:
+ Vị trí và đường gãy như loại Pouteau- Colles.
+ Di lệch: chồng ngắn; sang bên ra ngoài, ra trước; gấp góc mở ra trước.
1.4. Điều trị
Có nhiều phương pháp điều trị nhưng chọn phương pháp nào thì cần dựa vào loại gãy, khả năng di lệch thứ phát, tuổi và nghề nghiệp bệnh nhân. Có 2 phương pháp chính là nắn xương và bó nẹp
1.4.1. Nắn xương
− Gây tê ổ gãy với 10ml novocain 1-2%, gây tê vùng, thuỷ châm tê hoặc gây mê.
− Nắn chỉnh: kéo sửa di lệch chồng trước và nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần. Có thể nắn bằng tay (2 người nắn) hoặc bằng khung (1 người nắn).
Chú ý: chỉ kéo 1 ngón cái để lực tác động thẳng vào đầu dưới xương quay, cẳng tay nửa sấp nửa ngửa. Kiểm tra hết di lệch chồng bằng đo chiều dài xương hoặc xem sự chênh lệch giữa 2 mỏm trâm.
Gãy duỗi: nắn đoạn xa ra
trước, cổ tay gấp về phía lòng 0- 100.
Gãy gấp: lăn đoạn xa ra sau, cổ tay duỗi 30 - 45 .

Hình 8.2. Gãy đầu dưới xương quay kiểu duỗi: kéo nắn di lệch đoạn gãy ngoại vi theo đoạn trung tâm
Nếu gãy không di lệch hoặc di lệch ít, có thể không cần nắn.
1.4.2. Bó nẹp
 
Hình 8.3. Phương pháp đặt nẹp và đệm trong gãy Poutau - Colles
Khi bảo tồn thất bại, phẫu thuật kết hợp xương có thể là: xuyên kimKirschner; xuyên kim qua khe gãy (phẫu thuật Kapandji): xuyên 2- 3 kim (có thể dùng kim Kirschner) qua khe gãy và đoạn gãy gần để chốt chặn đoạn gãy xa không cho đi lệch, đặt nẹp ốc nhỏ, đặt cố định ngoài (dùng trong gãy hở và gãy nhiều mảnh).
1.5. Biến chứng và di chứng
1.5.1. Biến chứng sớm
− Chèn ống cổ tay: thể hiện bằng sự đè ép Thần kinh giữa.
− Chèn ép Thần kinh trụ và động mạch quay: ít gặp.
− Gãy hở: do xương gãy đâm ra.
1.5.2. Biến chứng muộn
− Can lệnh: thường gặp; nếu di lệch nhiều xét thấy cần thiết sửa chữa thì chuyển điều trị phẫu thuật; nếu lệch ít: chấp nhận can lệch và tập vận động phục hồi chức năng.
− Khớp giả:rất hiếm
− Rối loạn dinh dưỡng: thường gặp nhất là hội chứng Soudeck, hội chứng vai bàn tay, gãy đau và mất chức năng vận động cổ tay bàn tay; rối loạn dinh dưỡng thường gặp do bệnh nhân thiếu tập luyện trong thời gian mang nẹp, nhất là điều trị theo phương pháp bó bột.
Sử dụng một trong các bài thuốc ngâm 15 đến 30 phút rồi tập luyện. Tránh xoa bóp thụ động càng làm rối loạn thêm dinh dưỡng tại chỗ, uống thuốc trong (bổ khí huyết,thông hoạt kinh lạc).
2. Gãy trên lồi cầu xương cánh tay
2.1. Đại cương
Gãy trên lồi cầu xương cánh tay là loại gãy phổ biến nhất ở lứa tuổi trẻ em (74% gãy xương ở trẻ < 10 tuổi; 50% các gãy vùng khuỷu). Đây là loại gãy có thể kèm theo biến chứng mạch máu Thần kinh, đặc biệt có thể bị hội chứng Volkmann để lại di chứng nặng nề. Tuy tiên lượng xa về mặt cơ năng là tốt, nhưng di chứng hạn chế gấp duỗi khuỷu kéo dài, cẳng tay vẹo trong (cubitus varus) còn rất phổ biến (35% đến 70%).
2.2. Nguyên nhân và cơ chế
− Gãy duỗi (96% đến 98%): trẻ ngã chống tay, khuỷu duỗi, đường gãy từ trước dưới đến sau trên, đầu gãy của đoạn trung tâm nhọn, di lệch ra trước đe dọa bó mạch và Thần kinh cánh tay; đoạn ngoại vi di lệch ra sau.
− Gãy gấp (ít gặp ở trẻ em): trẻ ngã chống khuỷu, khuỷu gấp, đường gãy từ sau dưới đến trước trên, đầu gãy của đoạn trung tâm nhọn di lệch ra sau, có thể chọc thủng gân cơ tam đầu gây gãy hở.
− Đường gãy:đường gãy ngoài khớp, ngang hoặc chéo trên hai lồi cầu qua các hố khuỷu, hố vẹt.
− Di lệch:
+ Gãy duỗi: đoạn ngoại vi di lệch ra sau, lên trên và vào trong (hiếm khi ra ngoài) do cơ tam đầu co kéo.
+ Gãy gấp: ngược với di lệch của gãy duỗi (đoạn ngoại di lệch ra trước do cơ nhị đầu và cánh tay trước co kéo).
− Phân loại (theo Marion et Lagrange):
+ Độ I: gãy một bên vỏ xương.
+ Độ II: gãy cả hai lớp vỏ xương, không di lệch hoặc di lệch không đáng kể.
+ Độ III: gãy di lệch nhưng các đầu gãy còn tiếp xúc với nhau.
+ Độ IV: gãy với các đầu gãy di lệch xa nhau.
2.3. Triệu chứng lâm sàng
Trong trường hợp gãy duỗi điển hình:
− Cơ năng: đau nhiều vùng khuỷu, mất vận động khớp khuỷu.
− Thực thể: sưng nề vùng khuỷu, sau vài giờ có thể sưng nề gấp hai lúc thường. Có thể bầm tím vùng trước khuỷu ( bầm tím đặc hiệu Kirmisson). Nhìn nghiêng: dấu hiệu "nhát rìu" phía sau khuỷu.
Sờ nắn thấy đau chói trên lồi cầu và có thể phát hiện tiếng lạo xạo, cử động bất thường khi làm động tác dạng, khép.
Các mốc giải phẫu bình thường, "tam giác khuỷu" bình thường.
− X quang: chụp hai tư thế thẳng và nghiêng cho phép xác định đường gãy và di lệch. Tuy nhiên muốn xác định di lệch xoay trong hay xoay ngoài cần chụp chếch.
 2.4. Điều trị
2.4.1. Bảo tồn
Người ta thường dùng phương pháp bảo tồn là chính, chỉ phẫu thuật trong một số trường hợp hãn hữu khi có gãy hở, biến chứng mạch máu làm rối loạn dinh dưỡng ngoại vi vùng gãy và liệt Thần kinh ngoại biên không hồi phục.
Trong trường hợp nắn chỉnh không thành công, sưng căng nề, phỏng dịch không cho phép nắn bó một thì… có thể kéo liên tục tại giường hoặc di động trên khung di động kiểu Pouliquen.
Phương pháp nắn chỉnh gãy trên lồi cầu xương cánh tay trẻ em:
− Vô cảm: tốt nhất là gây mê vì nó giảm đau tuyệt đối; hoặc dùng một trong những phương pháp sau:
+ Gây tê ổ gãy 8 đến 10ml xylocain 1%: giảm đau tốt. Cần phòng tránh nhiễm trùng ổ gãy.
+ Thuỷ châm tê huyệt: các huyệt gần ổ gãy như khúc trì, khúc trạch... hoặc các huyệt nằm trên các đường kinh đi qua ổ gãy như hợp cốc, cực tuyền.
− Thì 1: kéo theo trục cẳng tay, cẳng ngửa hoàn toàn. Lực kéo tăng dần và liên tục, nắn các di lệch trong - ngoài.
− Thì 2: từ từ gấp khuỷu, sấp dần cẳng tay đồng thời dùng ngón cái đẩy đoạn ngoại vi ra trước. Sấp cẳng tay và gấp khuỷu đến tối đa, sau đó duỗi dần đến 900.
− Kiểm tra động mạch quay. Trong trường hợp động mạch bị chèn ép, sau khi nắn chỉnh mạch có thể phục hồi và ngoại vi vùng gãy hồng và ấm dần lên.
2.4.2. Phương pháp kéo liên tục
Dùng kim Kirchner xuyên qua mỏm khuỷu, cách đỉnh 1,5 đến 2cm, xuyên từ trong ra ngoài để chủ động tránh làm tổn thương dây Thần kinh trụ. Kéo liên tục với lực 2,5 đến 3kg. Theo dõi sát trong tuần đầu, khi cần có thể nắn hỗ trợ bằng tay. Thời gian kéo liên tục 2 tuần, sau đó chuyển sang các phương pháp bất động thông thường.
Chụp X quang kiểm tra: 2 lần trong tuần đầu, sau đó mỗi tuần một lần.
 
Hình 8.4. Cố định khung vào thân và Hình 8.5. Cố định tay gãy vào khung,
kéo liên tục
2.4.3. Phương pháp bất động
− Đối với gãy độ I, II và sau kéo liên tục, có thể bất động bằng hai nẹp to bản (rộng 4 đến 5cm, dày 0,5cm), đầu dưới được uốn cong theo hình giải phẫu đầu dưới xương cánh tay. Cố định nẹp bằng dây dán, chọn "dây cái" mềm làm dây, mặt phủ bông mềm áp vào da cho êm và thoáng nơi tiếp xúc; cuối mỗi dây có đính một đoạn "dây đực" để dán thay cho nút buộc. Trên nẹp, tương ứng với nơi dây cái sẽ đè ngang qua cũng gắn những mảnh dây đực (bằng keo dán gỗ thông dụng...) để sau khi dán dây cái cố định, các nẹp được liên kết với nhau, không bị di lệch hoặc xộc xệch...
Độ chặt mỗi dây vừa đủ, không gây cản trở tuần hoàn, không lỏng tuột. Theo kinh nghiệm của chúng tôi: sau khi quấn đủ chu vi, xiết thêm từ 1 đến 1,5cm là vừa phải.

Hình 8.6.Cách đặt nẹp và đệm và Hình 8.7.Cách đặt nẹp và đệm cho gãy duỗi cho gãy gấp
− Theo dõi sau khi đặt nẹp: sau khi bó nẹp, bệnh nhân được hướng dẫn treo gác cao chi gãy tạo thuận lợi cho tuần hoàn trở về, giảm sưng nề. Treo cẳng tay với khuỷu gấp 900 khi đi lại; có thể dùng chăn, đệm, tường nhà, khung... để dựa cẳng tay; tốt nhất là treo tay khi nằm (hình 20).
− Quan sát theo dõi: sau nắn chỉnh và cố định, cần theo dõi chặt chẽ 1- 4 ngày, tránh thắt buộc quá chặt hoặc quá lỏng; các điểm tỳ đè trên mấu xương gây đau, loét điểm tỳ.

Hình 8.8. Phương pháp treo tay khi nằm
− Thời gian bất động ít nhất 3 tuần tính từ ngày nắn chỉnh, cố định.
− Hướng dẫn tập luyện phục hồi chức năng chi gãy (xem phần điều trị chấn thương theo YHCT).
 2.3. Biến chứng
Tổn thương động mạch cánh tay: mạch quay yếu hoặc mất. Cần nắn ngay, sau 30 phút không có dấu hiệu phục hồi mạch quay cần can thiệp ngoại khoa.
Chèn ép khoang: do sưng căng nề, máu tụ. Bệnh nhân đau nhiều, đau tự nhiên như dao đâm, các ngón bị co rút gấp lại, kéo duỗi các ngón cũng gây đau đớn. Xử trí: nếu giai đoạn sớm thì cần nắn xương, theo dõi, treo gác tay cao; nếu giai đoạn muộn cần mổ giải ép để tránh mắc hội chứng Volmann (thoái hoá xơ cân cơ, Thần kinh do thiếu máu nuôi) để lại di chứng nặng nề.
Tổn thương các dây Thần kinh ngoại biên (giữa, trụ, quay) xử trí nắn sớm để giải ép. Thông thường liệt Thần kinh tự hồi phục sau 3 đến 4 tháng. Theo dõi, nếu sự phục hồi không tiến triển, cần phẫu thuật thăm dò.
Gãy hở: điều trị phẫu thuật hoặc bảo tồn tuỳ từng trường hợp.
Biến chứng muộn: hội chứng Volkmann, can lệch, khuỷu vẹo trong, viêm cơ cốt hoá làm cứng khớp khuỷu.
3. Một số trật khớp thường gặp
Trật khớp có thể xảy ra ở các khớp: vai, khuỷu, háng.
3.1. Triệu chứng chung
3.1.1. Cơ năng
Đau vùng khớp bị trật, mất cơ năng và dấu hiệu quan trọng nhất là "dấu hiệu lò xo", nghĩa là khi đưa phần ngoại vi khớp trật sang vị trí khác, thả ra lại trở về vị trí cũ.
3.1.2. Trật khớp vai
Hầu hết các trường hợp trật khớp vai đều di lệch chỏm ra trước và xuống dưới. Có thể minh họa 3 loại sau đây:

Hình 8.9. Trật khớp vai và các kiểu di lệch của chỏm: (1) xuống dưới; (2) trước - dưới; (3) trước - trong
Phương pháp nắn chỉnh:
 
Hình 8.10. Phương pháp dùng chân nắn di lệch (Hypocrat)
 
Hình 8.11. Trật khớp vai, chỏm di lệch ra trước và 4 động tác cơ bản (kéo, nắn chỉnh) (L.Boehler)
 
Hình 8.12. Nắn trật khớp vai ứng dụng

Hình 8.13. Phương pháp cố định sau nắn chỉnh trật khớp vai: (1) Cố định bằng băng và đệm; (2) Cố định bằng kéo liên tục qua da

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền chữ Đ cho câu đúng và chữ S cho câu sai
− Gãy đầu dưới xương quay có 4 loại Đ/S − Điều trị bảo tồn bằng nắn xương và bó nẹp Đ/S − Gãy trên lồi cầu xương cánh tay chia làm 3 độ Đ/S
− Điều trị gãy trên lồi cầu xương cánh tay chủ yếu là phẫu thuật Đ/S
2. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống
− Biến chứng muộn của là…lệch….giả…dưỡng. gãy đầu dưới xương quay
− Biến chứng sớm của gãy đầu dưới xương quay là….cổ tay…trụ…quay.
− Biến chứng của gãy trên lồi cầu xương cánh tay là…..tồn…tay…..chèn…..khoang, tổn thương….ngoại biên, gãy…
3. Mô tả được một số trật khớp thường gặp.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀN DÙNG NGOÀI TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH DA LIỄU (Bệnh bì phu)

PGS.TS. Tạ Văn Bình
Mục tiêu
1. Hiểu được nguyên tắc sử dụng thuốc dùng ngoài của y học cổ truyền.
2. Nhớ được và ứng dụng được các nhóm thuốc dùng ngoài.
3. Nhớ được và ứng dụng được các bài thuốc dùng ngoài.
1. Đại cương
Thuốc y học cổ truyền dùng ngoài trong da liễu chiếm một vị trí hết sức quan trọng, trong nhiều trường hợp là quan trọng nhất. Cùng với sự phát triển của y học cổ truyền thuốc dùng ngoài trong da liễu cũng có những tiến bộ không ngừng, thể hiện bằng những nghiên cứu dược lý học và sự tích luỹ không ngừng những bài thuốc mới. Thuốc y học cổ truyền dùng ngoài trong da liễu chủ yếu dựa vào đối chứng, tuy nhiên cũng có khi còn phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Nhìn chung thuốc y học cổ truyền dùng ngoài trong da liễu có những đặc điểm sau:
− Hiệu quả tốt: hiện nay thuốc y học cổ truyền dùng ngoài trong da liễu có đủ mọi dạng mà thuốc y học hiện đại cũng có, ngoài ra nó còn có thêm những dạng như xông, hun, cao cứng.
− Độc tính thấp: đây đều là những chế phẩm có nguồn gốc thiên nhiên và nói chung rất ít độc tính.
− Dễ kết hợp: sự kết hợp này có thể là giữa các vị thuốc y học cổ truyền với nhau, cũng như giữa các vị thuốc y học cổ truyền với thuốc tây, chúng có thể hợp đồng với nhau để phát huy tác dụng, lấy trường bổ đoản. Đây là một hướng rất có triển vọng trong lĩnh vực này.
− Phát triển nhanh: theo sự phát triển của khoa học công nghệ, các dạng thuốc ngày càng phong phú, chất lượng ngày càng cao.
Có nhiều bài thuốc có giá trị điều trị nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ nhất là về cơ chế tác dụng. Đây cũng là một trong những vấn đề thu hút nhiều nhà nghiên cứu.
2. Cơ chế hấp thu
2.1. Hấp thu theo kinh lạc
Kinh lạc là một bộ phận cấu thành cơ thể con người liên lạc các phần biểu lý, trong ngoài, trái phải của cơ thể; ở ngoài liên quan đến bì phu tấu lý, phía trong nối với lục phủ ngũ tạng; hình thành nên một mạng lưới khắp cơ thể. Những loại cao thuốc dán vào huyệt có thể thông qua kinh lạc mà phát huy tác dụng. Thí dụ như: việc đắp thuốc vào rốn, có thể thông qua huyệt Thần khuyết, rồi qua hệ thống kinh lạc mà đi khắp toàn thân để phát huy hiệu quả.
2.2. Hấp thụ qua da
Thuốc y học cổ truyền dùng ngoài trong bệnh da liễu sau khi bôi, dán, xông, ngâm, … các chất thuốc sẽ được khuyếch tán vào da rồi đi vào trong thông qua những con đường sau: trực tiếp thấm qua biểu bì, thấm qua chân lông, thấm qua tuyến mỡ, được huyết quản và mạng mạch hấp thụ. ảnh hưởng đến việc hấp thu thuốc qua da là những yếu tố sau:
− Tình trạng của da: nếu như da lành, nhất là lớp biểu bì còn nguyên vẹn thì các chất thuốc khó hấp thu qua. Ngoài ra sự hấp thu của thuốc còn ảnh hưởng bởi độ dày, độ thô của da, tình trạng của lỗ chân lông. Nói chung da bình thường thì sự hấp thu thuốc qua rất kém. Khi có bệnh, nếu như lớp biểu bì và hạ bì còn toàn vẹn thì sự hấp thu của thuốc cũng chỉ tương đương như qua da bình thường mà thôi; nếu như lớp biểu bì có tổn thương như trong các trường hợp bong vẩy, loét, mọc mụn nước, nứt nẻ, thì tính thấm và hấp thu thuốc của da tăng lên rất nhiều. Hiện tượng sung huyết ở da hoặc tăng tiết mồ hôi cũng có lợi cho việc hấp thu thuốc.
− Tính chất của thuốc: các thuốc dầu được hấp thu nhanh hơn các thuốc nước, hỗn hợp dầu nước càng dễ hấp thu hơn. Thành phần của cơ chất càng gần với thành phần của tuyến mỡ thì sự hấp thu thuốc càng tốt. Nói chung trên lâm sàng có thể thấy: thuốc dầu/nước> thuốc nước/dầu>vaselin>dầu thực vật.
− Những nhân tố khác: khi nhiệt độ tăng cao thì sự hấp thu thuốc cũng thuận lợi hơn. Đây là cơ sở của việc bọc nơi bôi thuốc bằng giấy nilon hoặc dùng máy sấy tóc thổi vào nơi bôi thuốc để tăng cường sự hấp thu của thuốc.
3. Những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng thuốc ngoài
Tác dụng của thuốc ngoài không chỉ phụ thuộc vào tính chất của dược vật, liều lượng, nồng độ, cách chế thuốc, dạng bào chế… mà còn phụ thuộc vào bệnh tình. Do đó sử dụng thuốc ngoài da nên chú ý những mặt sau:
− Lựa chọn thuốc: việc lựa chọn này dựa trên việc đối chiếu giữa những đặc điểm của bệnh tật với tính năng của thuốc. Nếu như nguyên nhân gây bệnh rõ ràng thì căn cứ vào bệnh nguyên để chọn thuốc (ví dụ: bệnh do da nhiễm các vi khuẩn sinh mủ nên chọn các thuốc thanh nhiệt, sát trùng như hoàng bá, hoàng cầm, tử thảo; nếu do nấm nên chọn thổ cẩm bì, hoàng tinh; nếu bệnh do virus gây nên thì nên chọn bản lam căn, sinh ý dĩ, mộc tặc, hương phụ; bệnh ghẻ nên chọn lưu huỳnh.
− Trong đại đa số các trường hợp, việc chọn thuốc đều dựa trên đặc điểm của tổn thương da. Thí dụ những tổn thương xung huyết do viêm có kèm theo cả loét và tiết dịch nên dùng các thuốc thanh nhiệt thu liễm như long đởm thảo, cam thảo, ngũ bội tử, khổ sâm. Nếu da dày thô hoặc có niken hoá thì nên dùng các thuốc nhuận phu trừ ngứa như dầu đậu đen. Ngứa dùng các thuốc trừ ngứa như long não, bạc hà, băng phiến, thương nhĩ tử, minh phàn.
− Lựa chọn dạng thuốc: sự thành bại trong khi sử dụng thuốc ngoài được quyết định không chỉ dựa vào việc chọn thuốc cho đúng, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn đúng đắn dạng thuốc. Việc lựa chọn không xác đáng dạng thuốc không chỉ làm giảm tác dụng của thuốc mà còn có thể làm cho bệnh tình nặng hơn (ví dụ như dùng thuốc mỡ trong những trường hợp có loét và tiết dịch). Nguyên tắc lựa chọn dạng thuốc như sau:
+ Tổn thương là ban đỏ, nốt sẩn nên dùng dạng tán, thuốc nước, kem.
+ Nổi mày đay nên dùng thuốc nước, rượu thuốc, kem.
+ Mụn nước, mụn mủ nên dùng cách đắp ướt, cao mềm, thuốc nước, thuốc dầu.
+ Tổn thương loét, tiết dịch nên dùng cách đắp ướt, thuốc dầu.
+ Tổn thương đóng vẩy nên dùng thuốc mỡ, thuốc dầu.
+ Tổn thương là vẩy da nên dùng thuốc mỡ, dầu, kem…
+ Tổn thương nứt nẻ nên dùng thuốc mỡ, kem, thuốc dầu.
+ Tổn thương niken hoá nên dùng thuốc mỡ, cao cứng, cao mềm, thuốc dầu.
+ Hơn nữa trong quá trình điều trị các tổn thương da không ngừng thay đổi, việc ứng dụng dạng thuốc cũng cần phải có thay đổi cho phù hợp.
4. Một số vị thuốc thường dùng ngoài
− Chữa ngứa: địa phu tử, bạch tiễn bì, thương nhĩ tử, băng phiến, bạc hà, long não, sà sàng tử.
− Thuốc nhuận phu: sinh địa, đương quy, hồ ma nhân, tử thảo, sáp ong, hạnh nhân, mỡ lợn, dầu vừng, đào nhân.
Thuốc giải độc: hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, đại hoàng, chi tử, thanh đại, đại thanh diệp, tử hoa địa đinh, kim ngân hoa, liên kiều, mã xỉ hiện, bồ công anh, xa tiền thảo.
− Thuốc thu liễm: thục thạch cao, hoạt thạch, lò cam thạch, khô phèn, ngũ bội, hải phiêu tiêu, chè xanh, thương truật, xích thạnh chi, luyện long cốt, luyện mẫu lệ.
− Thuốc trừ hàn: can khương, ngô thù, bạch chỉ, nhục quế, ô đầu, nam tinh, xuyên tiêu, khương hoàng, trần bì, ngải diệp.
− Thuốc sinh cơ: nhũ hương, một dược, huyết kiệt, hổ phách, đại giả thạch.
− Thuốc hoạt huyết: hồng hoa, tam lăng, nga truật.
− Thuốc hữu cơ: nha đảm tử, ô mai.
− Thuốc sát trùng: khổ sâm, lưu hoàng, hùng hoàng, bách bộ, đại phong tử, khinh phấn, thuỷ ngân.
− Thuốc chỉ huyết: tam thất, địa du, trắc bách diệp sao đen, bồ hoàng, huyết dư thán, bạch cập, tử thảo.
− Thuốc tử mỡ: sinh trắc bách diệp.
5. Một số bài thuốc thường dùng ngoài
Thất lý tán:
Thành phần: huyết kiệt 30g, nhi trà 6g, chu sa 3,6g, hồng hoa, nhũ hương, một dược mỗi vị 3g, băng phiến mỗi vị 0,36g.
Cách bào chế: các vị thuốc tán nhỏ, trộn đều.
Tác dụng: hoạt huyết, hoá ứ.
Chỉ định: các trường hợp ngoại thương có chảy máu.
Cách dùng: trộn với rượu trắng cho thành hồ rồi đắp lên nơi tổn thương.
Cửu nhất đan:
Thành phần: thục thạch cao 900g, thăng đan 100g.
Cách bào chế: nghiền nhỏ, trộn đều.
Tác dụng: bài nùng, khứ hủ.
Chỉ định: dùng trong các vết lở loét, các lỗ rò.
Cách dùng: rắc lên trên tổn thương hoặc vê thành sợi rồi nhét vào các lỗ rò.
Nhị vị bá độc tán:
Thành phần: minh hùng hoàng, bạch phàn mỗi vị 100g.
Cách bào chế: nghiền nhỏ, trộn đều.
Tác dụng: bá độc tiêu thũng, thanh nhiệt chỉ thống.
Chỉ định: dùng trong các trường hợp mụn nhọt.
Cách dùng: hoà với nước chè đặc hoặc nước vắt của hành rồi đắp lên nơi tổn thương.
 
Đại hoàng thang:
Thành phần: đại hoàng 15g, quế chi 20g, đào nhân 30g.
Cách bào chế: nghiền nhỏ, bọc vào một miếng vải rồi đem sắc lấy nước trong.
Tác dụng: nhuận táo, dưỡng phu.
Chỉ định: dùng trong bệnh vẩy cá.
Cách dùng: đắp dịch thuốc lên nơi tổn thương.
Tam diệu tán:
Thành phần: binh lang 100g, thương truật 100g, hoàng bá 100g.
Cách bào chế: tán nhỏ trộn đều.
Tác dụng: thẩm thấp, chỉ dưỡng.
Chỉ định: chàm, viêm da.
Cách dùng: khi xuất tiết ít thì rắc lên nơi tổn thương, vào thời kỳ bong vẩy thì trộn với dầu vừng rồi bôi lên nơi tổn thương.
Cao mã xỉ hiện:
Thành phần: bột mã xỉ hiện 50g, sáp ong 10g, mỡ lợn 40g.
Cách bào chế: đun cho tan sáp ong và mỡ, sau đó cho bột mã xỉ hiện vào trộn đều thành cao.
Tác dụng: sát trùng.
Chỉ định: các trường hợp nấm ở lông.
Ngũ bội tử thang:
Thành phần: ngũ bội tử, phác tiêu, liên phòng, tang ký sinh, kinh giới, mỗi vị 30g.
Cách bào chế: sắc lấy nước.
Tác dụng: tiêu thũng chỉ thống, thu liễm chỉ huyết.
Chỉ định: chàm ở giang môn, trĩ, sa trực tràng.
Cách dùng: xông hơi thuốc nóng vào nơi có bệnh, sau đó ngâm, ngày 2-3 lần Đan sâm cao:
Thành phần: đan sâm, xích thược, mỗi vị 60g, bạch chỉ 30g.
Cách bào chế: 3 vị trên ngâm trong rượu một đêm, sau đó cho vào 180g mỡ lợn rán nhỏ lửa, lọc bỏ cặn, lấy mỡ dùng.
Chỉ định: viêm tuyến vú giai đoạn đầu, ban có thâm nhiễm trên da.
Ngọc cơ tán:
Thành phần: đậu xanh 250g; hoạt thạch, bạch chỉ, bạch phụ tử, mỗi vị 6g.
Cách bào chế: nghiền thành bột mịn.
Tác dụng: vinh cơ nhuận phu.
Chỉ định: tàn nhang, xạm da, da khô nứt nẻ.
Cách dùng: trộn với nước sôi thành hồ rồi bôi lên nơi tổn thương.
Tứ hoàng cao:
Thành phần: kinh giới 3g, chi tử 3g, ngưu bàng tử 3g, hoàng liên 3g, hoàng cầm 3g, liên kiều 3g, bạc hà 3g, mộc thông 3g, bồ hoàng 3g, đăng tâm 1,5g, cam thảo 1,5g.
Cách bào chế: nhiền thành bột mịn, trộn đều.
Tác dụng: thanh nhiệt tả hoả.
Chỉ định: loét miệng.
Cách dùng: bôi vào nơi tổn thương, ngày 2-3 lần.
Rượu đông trùng hạ thảo:
Thành phần: đông trùng hạ thảo 60g, rượu trắng 240ml.
Cách bào chế: ngâm vào rượu trong 7 ngày, lọc bỏ bã lấy rượu trong.
Tác dụng: bổ khí huyết, kích thích mọc và làm đen tóc.
Chỉ định: rụng tóc và tóc bạc sớm.
Rượu bách bộ:
Thành phần: bách bộ 20g, rượu cao lương 80ml.
Cách bào chế: bách bộ tán nhỏ, ngâm trong rượu 1 tháng, lọc bỏ cặn lấy rượu trong để dùng.
Tác dụng: sát trùng giải độc, khu phong chỉ dưỡng.
Chỉ định: ghẻ, viêm da Thần kinh, mề đay.
Cách dùng: bôi vào nơi có bệnh ngày 2-3 lần.
Kim hoàng tán:
Thành phần: đại hoàng, khương hoàng, hoàng bá, bạch chỉ mỗi loại 25g; nam tinh, trần bì, thương truật, hậu phác, cam thảo mỗi vị 10g; thiên hoa phấn 50g.
Cách bào chế: những vị thuốc trên tán nhỏ, trộn đều.
Tác dụng: thanh nhiệt, trừ thấp, tiêu thũng, chỉ thống.
Chỉ định: mụn nhọt thuộc dương chứng.
Cách dùng: trộn bột thuốc với nước vắt của hành, mật ong hoặc dầu thực vật rồi bôi lên chỗ bị bệnh ngày từ 1-2 lần.
Cao hoàng liên:
Thành phần: hoàng liên 9g, đương quy 15g, hoàng bá 9g, sinh địa 30g, khương hoàng 9g, dầu vừng 360g, sáp ong 120g.
Cách bào chế: những vị thuốc trên trừ sáp ong, cho vào dầu vừng rán nhỏ lửa cho đến khi vàng khô, chắt bỏ bã, thêm sáp ong vào, đun tan.
Tác dụng: thanh nhiệt giải độc, nhuận táo chỉ dưỡng.
Chỉ định: bỏng, mụn mủ trên da, nứt nẻ chân tay.
Cách dùng: bôi hoặc đắp lên nơi có bệnh ngày 1-2 lần.
Cao chữa chàm:
Thành phần: thanh đại 60g, bột hoàng bá 60g, oxyd kẽm luyện với thạch cao 620g, dầu vừng 620ml, vaselin 930g.
Cách bào chế: những vị thuốc trên nghiền thành bột mịn, sau đó luyện với dầu vừng và vaselin, trộn đều.
Tác dụng: chàm, viêm da.
Cách dùng: bôi vào nơi có bệnh ngày 2-3 lần.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Trình bày nguyên tắc sử dụng thuốc dùng ngoài của y học cổ truyền?
2. Nêu các tên thuốc dùng ngoài theo nhóm tác dụng?
3. Kể tên, thành phần cách bào chế và tác dụng của 15 bài thuốc dùng ngoài chữa bệnh da liễu?
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
 

BIỆN CHỨNG TRONG NGOẠI KHOA Y HỌC CỔ TRUYỀN

PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
Mục tiêu
1. Hiểu và giải thích được các nguyên nhân gây bệnh của ngoại khoa y học cổ truyền.
2. Thuộc và trình bày được về biện chứng bệnh lý của ngoại khoa y học cổ truyền.
1. Quan niệm và phân loại
Bệnh ngoại khoa thực ra có rất sớm và có trước các bệnh của các khoa khác kể cả nội khoa, vì con người sinh ra phải lao động để sinh tồn cho nên trước tiên phải xuất hiện các kinh nghiệm điều trị: tai nạn lao động, côn trùng, thú cắn… Nhưng từ xưa các y văn để lại, ở nước ta chưa xếp riêng ngoại khoa, ở Trung Quốc thời nhà Chu xếp đó là dương khoa, thầy thuốc điều trị bệnh dương khoa gọi là dương y.
Thời xưa cho rằng các bệnh sinh ra ở bên ngoài cơ thể mắt nhìn thấy, tay sờ thấy có chứng trạng cục bộ đều thuộc phạm vi của ngoại khoa. Ví dụ: đinh, ung, thư, hậu bối, tiền bối, đơn độc, loa lịch, dò, nham, bướu cổ… Sau này do khoa học phát triển có sự kết hợp giữa y học cổ truyền (YHCT) với y học hiện đại (YHHĐ) cho nên phạm vi ngoại khoa rộng hơn, phong phú hơn (ví dụ: sa lâm, chấn thương, côn trùng, thú cắn, các bệnh da liễu, viêm tắc động mạch, trĩ).
Trong ngoại khoa y học cổ truyền, dựa vào các bệnh tình và nguyên nhân có thể chia các loại:
− Loại nhiệt (thuộc loại viêm nhiễm theo y học hiện đại): đinh, ung, thư, dương, đơn độc, loa lịch, dò…
− Chấn thương: triết thương, nỉu thương, toa thương, huyết ứ, khí trệ ở tạng phủ do chấn thương, trật đả.
− Các loại khác: nham, bỏng (hoả sang), lạnh cóng (đông sang); trùng, thú cắn.
− Ngoài ra còn chia ra các bệnh theo vị trí tổn thương, kết hợp với tính chất của bệnh.
+ Các bệnh viêm nhiễm da, cơ, xương, khớp, hạch và tuyến vú.
+ Các bệnh cấp tính.
+ Các bệnh hậu môn trực tràng.
+ Các bệnh da liễu.
+ Các bệnh thuộc chấn thương.
+ Các bệnh u.
+ Các bệnh bang.
+ Các bệnh bị trùng - thú cắn.
+ Các bệnh ngoại khoa khác: sỏi gan - mật - tiết niệu, viêm tắc động mạch, tĩnh mạch.
2. Khái quát về biện chứng bệnh ngoại khoa
2.1. Biện chứng nguyên nhân sinh bệnh
Nguyên nhân gây bệnh ngoại khoa là do các nguyên nhân bên ngoài (lục dâm), các nguyên nhân bên trong (nội nhân) và các nguyên nhân khác (bất, ngoại nội nhân) gây nên; nhưng có đặc tính gây bệnh khác với nội khoa.
2.1.1. Nguyên nhân bên ngoài
Lục dâm tà độc còn gọi là ngoại cảm lục dâm, tức là ngoại tà gây nên, bao gồm: phong, hàn, thử, thấp, táo và hoả xâm nhập vào cơ thể làm tổn thương cơ thể mà phát bệnh. Bệnh có thể phát tại chỗ (cục bộ), cũng có thể phát ra toàn thân là tuỳ thuộc vào chính khí (sức đề kháng) của cơ thể. Chính khí toàn thân hư gây bệnh toàn thân (mụn, nhọt toàn thân); chính khí tại chỗ hư gây bệnh tại chỗ (nhọt, ung… tại chỗ). Bệnh cục bộ chiếm tỷ lệ 70 - 80%.
Nguyên nhân gây bệnh trong ngoại khoa thường do hoả, 5 loại tà khí khác kết hợp với hoả để gây bệnh, nhưng bản thân chúng cũng biến thành hoả để gây bệnh còn gọi là hoả độc hoặc nhiệt độc. Vì vậy Nội kinh có nói: “Chính khí còn bên trong, tà khí không làm gì được”.
− Phong tà: phong tà là dương tà, tính của phong là táo nhẹ và tán lên trên ra ngoài, cho nên bệnh ở da thường rải rác nhiều nơi, có khi phát toàn thân hoặc tập trung ở đầu, mặt, cổ, bệnh ngứa và khô (hoặc có vẩy mỏng hoặc tê bì).
Ví dụ: phong xâm nhập làm cho huyết táo, bì phu kém nuôi dưỡng mà sinh bệnh như viêm da Thần kinh, vẩy nến…
Phong thích hành (di động) mà lại biến hóa nên phát bệnh nhanh và thay đổi, phần nhiều thuộc dương chứng (hoặc xuất hiện sưng, đỏ, đau không có vị trí nhất định; hoặc lên kinh giật co rút).
Ví dụ: bị vết thương cảm phải phong tà gây bệnh nội phong có thể gặp phá thương phong (giống như uốn ván, nếu là uốn ván cần phải phòng và điều trị y học hiện đại trước tiên).
− Hàn tà: hàn tà là âm tà, tính chất bệnh ở sâu, thâm, tê bì, cân xương... bệnh phần nhiều thuộc âm chứng. Đặc điểm bệnh ngoại khoa của hàn là sưng mà không cứng, màu sắc da thâm tía hoặc màu da trước khi bị bệnh không đỏ, không nóng, đau nhiều ở vị trí nhất định, bệnh âm thầm nặng.
Ví dụ: nguyên nhân do hàn làm cho khí huyết ứ trệ gây nên nhức đầu; chi lạnh buốt tái nhợt, thậm chí thiếu huyết nuôi dưỡng, teo nhỏ, rụng đốt tay đốt chân... gặp trong thoát thư (động mạch); hoặc nếu do hàn tà xâm nhập nhiều, lâu, ngưng trệ khí huyết toàn thân gây toàn thân cứng đờ, lạnh buốt, đó là bệnh đông thương (bệnh lạnh cóng).
− Hỏa tà: hỏa tà thuộc dương tà, các triệu chứng chung là: ngứa, đau, lở loét… đều do hỏa hoặc phong, hàn, thử, thấp tà hoá hỏa gây nên.
Đặc điểm: phát bệnh nhanh, cấp tính (sưng, đỏ, nóng và đau). Ví dụ: nhiệt vào huyết có thể gây đơn độc hỏa nhiệt độc như bệnh: đinh, thư, ung nhọt…; tuỳ theo vị trí mà gây chứng bệnh khác nhau như: da là đơn độc, có biểu định như ung nhọt ở kinh mạch như viêm hạch, ở trước ngực là tiền bối ở sau lưng là hậu bối.
Từ vị trí của bệnh có thể biết các nguyên nhân kết hợp với hỏa, cụ thể: nếu phát bệnh ở phần trên cơ thể như: đầu, mặt, cổ, chi trên... là thường kết hợp với phong; nếu bệnh phát ở ngực, sườn, bụng... là thường hỏa ứ lâu gọi là hỏa uất vì khí hoả thường uất ở giữa cơ thể; nếu phát bệnh ở phần dưới cơ thể như hậu môn, chi dưới, sinh dục, tiết niệu thường kết hợp với thấp vì tính chất của thấp là hạ giáng. Tuy vậy khi chẩn đoán nguyên nhân cần phải kết hợp với triệu chứng toàn thân tại chỗ và vị trí bệnh trên cơ thể để điều trị mới để lại kết quả tốt.
− Thấp tà: thấp tà là âm tà, có tính chất nhớt, dính, bẩn đục... Tuỳ theo sự thiên lệch của hàn nhiệt trong cơ thể và của quý tiết khí trời mà hóa hàn, hóa nhiệt; mà kết hợp thành thấp hàn, thấp nhiệt.
Đặc điểm: nếu ở cơ nhục thì da loét nát, chảy nước hoặc chảy mủ; ở sâu thì rò, da ẩm ướt.
Ví dụ: thấp nhiệt gặp ở trĩ loét nát, ung thũng; thấp hàn gặp ở chi dưới thì gặp các loét mụn, loét…
− Táo tà: táo là dương tà, đặc điểm của táo là làm tổn hại tân dịch, huyết táo sinh phong, phần nhiều bệnh phát ở tay - chân và da (bì phu)…
Tính chất của táo là: bì phu khô, nẻ, ngứa, mẩn, bong vẩy, nứt kẽ… Ví dụ: nếu nhiệt táo xâm nhập vào huyết sinh huyết táo, huyết nhiệt... có thể gặp ở bệnh vẩy nến; nếu huyết táo có thể gặp bệnh thấp mạn tính, da mẩn ngứa.
− Thử tà: thử là dương tà, thường hiệp (bức), thử thấp bị trùng đốt lâu hóa nhiệt phần nhiều phát ra ở cơ - da - đầu - mặt.
Đặc điểm là: sưng đỏ, nung mủ, đau, gặp lạnh đau giảm. Ví dụ: thử thấp nung đốt bì phu thành rôm sẩy hoặc cảm phải thử độc thành vết thương lở loét, mụn nước.
2.1.2. Nguyên nhân bên trong
Nguyên nhân bên trong gọi là nội thương thất tình, đó là nhân tố tinh Thần, cụ thể là: hỷ (vui), nộ (giận), bi (buồn), ai (lo), kinh (hãi), khủng (sợ), u (suy nghĩ)... bị rối loạn làm cho âm dương không điều hòa, khí huyết không hòa hợp, công năng của các tạng phủ và kinh lạc bị hỗn loạn mà gây bệnh. Trong bệnh ngoại khoa hay gặp lo nghĩ, tức giận quá độ. Ví dụ: tình chí không thông, tức giận quá độ làm cho can khí uất kết, khí trệ đàm ngưng... hay gặp trên lâm sàng là bệnh viêm hạch (loa lịch), viêm tuyến vú, tắc tia sữa, u giáp trạng, các khối u… Ngoài ra còn gặp các bệnh ngoài da như: viêm da Thần kinh, bệnh sẩn ngứa… cũng do yếu tố tinh Thần gây nên.
2.1.3. Các nguyên nhân khác
− ăn uống không điều độ: theo Hải Thượng Lãn Ông đã nói: “Ăn uống là bồi đắp những chất cho chỗ thiếu, ăn uống quá mức thì thương tổn tới tỳ vị đạo trường”, cho nên ăn uống không điều độ cũng là nguyên nhân gây bệnh ngoại khoa. Ví dụ: ăn nhiều thứ cay, nóng, béo, ngọt gây vị trường tích nhiệt, hỏa độc nội sinh gây nên bệnh lở loét, đinh, nhọt, rôm sẩy…; hoặc ăn uống quá nhiều gây nên thực tích, sinh bệnh cấp tính ở bụng, ăn thức ăn lạnh hoặc quá đói gây nên các bệnh giun: tắc ruột do giun, giun chui ống mật…
− Phòng dục: trong tập Nội kinh yếu chỉ Hải Thượng Lãn Ông đã nói rõ: “Sinh hoạt là kỷ cương của hành động… say đắm về sắc gọi là phòng dục, tửu sắc bừa bãi gọi là hao, say đắm sắc dục quá mức thì gọi là tinh cạn, bừa bãi thì tinh khí tản mạn”. Như vậy nếu phòng dục quá độ gây thận khí tổn thương, phong tà, hàn thấp dễ xâm nhập mà sinh bệnh (ví dụ: viêm tuỷ xương, xương gãy lâu liền…).
− Nơi ở: đây cũng là nhân tố gây bệnh vì nó có liên quan chặt chẽ tới lục dâm và cũng là yếu tố sinh ra lục dâm. Vì vậy bệnh ngoại khoa do nơi ở gây nên chính là do lục dâm gây nên.
− Các nguyên nhân khác:
+ Chấn thương.
+ Trùng thú cắn.
+ Hỏa thương và đông thương.
Các tổn thương trên nếu bệnh nhẹ thì cơ da, gân, xương bị tổn thương; nếu bệnh nặng thì các tạng phủ bị tổn thương; nếu bệnh nghiêm trọng hơn thì biến bệnh toàn thân.
2.2. Biện chứng và bệnh lý
Bệnh lý là một tri thức hiểu biết về bệnh, giải thích được nguyên nhân gây bệnh trong cơ thể và phân tích được sự biến hóa của bệnh, đánh giá tiên lượng của bệnh... cho nên nó hết sức quan trọng trên thực tế lâm sàng, nó có ý nghĩa chỉ đạo trọng yếu trong chẩn đoán, điều trị, phòng và tiên lượng bệnh.
2.2.1. Biện chứng về khí huyết
Khí huyết trong cơ thể giúp đỡ lẫn nhau mà lưu hành, tuần hoàn trong kinh mạch... ở trong thì nuôi dưỡng tạng phủ, ở ngoài thì nuôi dưỡng cơ da để duy trì sự sống và có tác dụng chống ngoại tà. Vì vậy khí huyết vượng thịnh, bảo vệ bên ngoài sẽ mạnh thì ngoại tà không dễ xâm nhập; khí huyết hư yếu, bảo vệ bên ngoài sẽ kém thì các nguyên nhân gây bệnh rất dễ xâm nhập cơ thể mà gây nên bệnh. Trong sách Nội kinh nói: “Khí thương thì đau, hình (huyết) thương thì sưng. Sưng và đau là phản ứng bệnh lý không giống nhau của 2 loại khí huyết bị ngưng trệ. Vì vậy phát sinh ra tổn thương bệnh lý ngoại khoa nhất thiết phải do khí huyết ngưng trệ gây nên”. Ví dụ như trong ngoại khoa, chấn thương… khí huyết ngưng trệ là bệnh lý chủ yếu phát sinh và hình thành bệnh (như bệnh lở loét, đinh, nhọt… nếu khí huyết xung thịnh (đủ) ở thời kỳ đầu dễ dàng khỏi, ở thời kỳ có mủ dễ thu nhỏ và vỡ mủ, ở thời kỳ vỡ mủ dễ thu nhỏ miệng vết thương và sinh cơ (liền sẹo).
Vì vậy khi biện chứng trong lâm sàng nhất thiết phải làm rõ quan hệ khí huyết với bệnh nơi tổn thương mới hiểu được bản chất của bệnh mà tiến hành định ra phương hướng điều trị. Các biểu hiện của tổn thương khí huyết như sau:
− Khí trệ: khí tụ thì có hình, khí tán thì không có vết tích, khí gây bệnh thì đau, khí đau thì bất thường. Bệnh thường gặp như: ngực sườn đầy tức, khó thở do chấn thương vùng ngực sườn (không có triệu chứng gãy xương, tràn khí, tràn dịch màng phổi, không vỡ gan lách) hoặc lôi kéo gây đau; hoặc đánh nhau vùng bụng gây tức bụng, trướng hơi; hoặc lún gãy cột sống gây chướng bụng, bí đại tiểu tiện; hoặc cũng có thể do nội tạng bị rối loạn gây khí trệ như bệnh khí hư hạ hãm (sa các phủ tạng)…
− Khí uất: khí uất trong ngoại khoa có thể sinh ra tích tụ hoặc uất hoá hoả, đốt cháy thành dịch mà thành đờm, đờm tích lại thành khối. Nếu khí uất mà tích tụ thì thành sưng, thành khối màu sắc da không thay đổi, có thể thay đổi theo tình chí (ví dụ: viêm tuyến vú, tắc tia sữa, u giáp trạng); nếu khí uất thành đàm thì thành khối, sưng nhưng mềm (ví dụ: viêm hạch mạn).
− Khí hư: khí hư tức là dương khí không thể không đạt cơ biểu vào bên trong cơ thể được. Nếu khí hư toàn thân gây cử động khó khăn, hay gặp trong di chứng của các chấn thương Thần kinh, cơ, xương, khớp… Nếu khí hư tại chỗ thì sức chống đỡ tại chỗ yếu, độc tà dễ xâm nhập gây ra lở loét, đinh, nhọt…gây cho các nơi bị tổn thương khó hồi phục (ví dụ: bệnh khí hư của tạng phủ, tỳ khí hư gây nên sa các phủ tạng). Nếu khí hư tại chỗ và toàn thân thì bệnh sưng mủ khó phá mủ, khó thu miệng, thở yếu, ăn kém, chất lưỡi nhợt, mạch tế.
− Huyết ứ: theo y học cổ truyền, trong ngoại khoa “thương khí tắc khí trệ, thương huyết tắc huyết ngưng”. Khí trệ khiến huyết ngưng, huyết ngưng có thể cản trở khí hành, vì vậy huyết ứ là gây ra bệnh. Nếu huyết ứ ngưng ở cơ nhục, bì phu… thì sưng, đau, đỏ (ví dụ: tổn thương cơ, da, dây chằng (tổn thương phần mềm)); nếu cản trở ở dinh vệ thì uất mà sinh nhiệt, có triệu chứng bệnh sưng, nóng, đỏ, đau ở da, cơ (ví dụ: bệnh đinh, nhọt, loét…); nếu huyết tích ở ngực sườn thì có triệu chứng đầy chướng đau tức, (ví dụ: bệnh viêm đường mật, tổn thương vùng ngực do chấn thương).
Huyết ứ lâu uất sinh nhiệt (nói ở phần dưới) huyết ứ cũng gây ra chảy máu (ví dụ: trĩ chảy máu).
− Huyết nhiệt: huyết nhiệt do huyết ứ lâu, uất ở trong mà sinh nhiệt; hoặc nhiệt độc xâm phạm vào huyết phận. Nếu ở da, cơ, khớp… thì có triệu chứng cấp tính như: sưng, nóng, đỏ, đau mà gặp đinh, đơn độc, nhọt… đó là do huyết ứ lâu uất thành nhiệt gây nên. Nếu có triệu chứng chảy máu thì do nhiệt bức huyết loạn hành gây ra như thổ huyết, nục huyết do sang chấn…
− Huyết hư: huyết hư thường xuất hiện thời kỳ sau của bệnh. Trong y học cổ truyền cho rằng khí hư bất dụng, huyết hư bất nhân. Cho nên các nơi tổn thương mà huyết hư thì không nuôi dưỡng được và nơi tổn thương không thể hồi phục được (ví dụ: các vết thương mà huyết hư thì rất khó thu miệng và liền được hoặc trong các trường hợp gãy xương nếu huyết hư không bao giờ liền xương được…).
2.2.2. Biện chứng về cân xương
Cân liên quan tới can, xương liên quan tới thận, cân xương là ngọn của can thận, được khí huyết ôn ấm, can thận nhu dưỡng. Vì vậy cân xương mà bị tổn thương thì nhất thiết tổn thương tới khí huyết và ảnh hưởng tới can thận.
Thanh niên có can thận khí thịnh, cân xương phát triển chắc cho nên cân xương bị tổn thương thì rất dễ hồi phục. Người già thì can thận khí suy, cân xương hư yếu; cho nên cân xương bị tổn thương thì hồi phục rất chậm, thậm chí không hồi phục. Vì vậy điều trị bệnh cân xương là điều trị bệnh bên trong nên cần chú ý đến điều lý của khí huyết, can thận làm chủ. Ví dụ: gãy xương giai đoạn đầu còn sưng, nóng, đỏ, đau… cần hoạt huyết hành khí tiêu ứ làm chủ;
đến giai đoạn hết sưng, nóng, đỏ thì phải tiếp liền xương, bổ can thận làm chủ…
2.2.3. Biện chứng về tạng phủ
Trong ngoại khoa bệnh có quan hệ chặt chẽ với tạng phủ. Bệnh cơ thể từ biểu truyền vào tạng phủ (ví dụ: các bệnh ngoài da, cơ, cân, xương tuy do ngoại tà gây bệnh nhưng nếu không điều trị tốt sẽ gây bệnh ở tạng phủ như đinh, nhọt; nếu người bệnh chính khí kém sẽ gây sốt cao, hoá mủ toàn thân và co giật dẫn đến tử vong …). Ngược lại bệnh thuộc tạng phủ cũng có thể gây bệnh ở cục bộ (ví dụ: khí hư chủ yếu trung khí hư gây ra như trĩ).
Các biểu hiện bệnh tạng phủ thường gặp là:
− Hoả độc công tâm:
+ Triệu chứng: sốt rét ít, sốt nóng cao, vật vã, hôn mê, nói nhảm, lưỡi đỏ tía, mạch hồng sác; có thể lên cơn giật do chính khí hư, tà khí thịnh gây hoả độc mạnh xâm phạm tâm bào gọi là hoả độc công tâm.
Các bệnh trong ngoại khoa hay gặp do hoả độc công tâm là: lở loét, mụn nhọt toàn thân…
− Can phong nội động: bệnh hay gặp sau khi bị vết thương cảm phải phong tà gây động can khí, xuất hiện triệu chứng miệng khó há, hàm răng nghiến chặt, người uốn cong, có thể gây phá thương phong (liên hệ y học hiện đại gọi là uốn ván, nếu là uốn ván phải điều trị y học hiện đại là chủ yếu).
− Khí của lục phủ rối loạn: khí của lục phủ phải lưu thông mà không dừng, thường lấy thông giáng làm chủ, nếu phát sinh ra bệnh thì khí sẽ ngưng trệ. Tuỳ theo vị trí tổn thương mà gây bệnh ở vị trí khác nhau (ví dụ: ở vùng bụng gây đau bụng, nôn hoặc buồn nôn, bụng trướng, đại tiện táo gặp trong chấn thương vùng bụng hoặc cột sống thắt lưng và lưng…). Như vậy khí không thông thì đau phủ, khí không giáng thì nôn hoặc buồn nôn, khí trệ quá nhiều thì gây bụng trướng, phủ khí kết gây bí đại tiện… cũng thường gặp chứng bệnh cấp tính ở ổ bụng: giun chui ống mật, sỏi gan, mật, sỏi tiết niệu.
− Hạ tiêu thấp nhiệt: trong ngoại khoa hay gặp thận hư không khí hoá được bàng quang gây nên thấp nhiệt và ngưng kết ở hạ tiêu và sinh chứng tiểu tiện đỏ, ít đái, đái rắt, đái buốt, thậm chí đái ra máu (do nhiệt tà xâm phạm huyết phận), đái đục hoặc bí đái, có thể gây đau thắt lưng, bụng dưới tức, rêu lưỡi vàng, nhớt, mạch huyền sác… thường gặp sỏi tiết niệu, u tiền liệt tuyến.
− Phế khí bất cố: bệnh ở da có liên hệ với phế, tỳ và tâm. Phế chủ khí, liên quan tới bì mao; nếu khí phế bất cố thì tấu lý không đóng mở được, phong hàn thừa cơ mà xâm nhập và gây bệnh ma chẩn, mẩn ngứa, mẩn mề đay mạn tính do lạnh.
− Nội tạng tổn thương: thường do ngoại lực tác động làm tổn thương nội tạng, tuỳ theo các vị trí bị ngoại lực tác động khác nhau mà gây các tổn thương khác nhau (ví dụ: tổn thương ở đầu có triệu chứng đau đầu, chóng mặt, buồn nôn hoặc lúc tỉnh, lúc mê, hôn mê (y học hiện đại gọi là chấn động não, chấn thương sọ não gây xuất huyết não); tổn thương ở mũi gây sưng đau và chảy máu ở mũi; tổn thương ngực thì đau ngực, khó thở, ho ra máu; tổn thương ở bụng có chứng đau bụng, trướng bụng, bí trung đại tiện, nôn ra máu, đại tiện ra máu).
− Can thận hư: can chủ cân, nếu can huyết hư thì không thể nuôi dưỡng được cân gây nên khớp đau, cử động khó, tê mỏi và yếu ở khớp. Hay gặp các tổn thương khớp và các tổ chức phần mềm như: sai khớp, tổn thương bao khớp, dây chằng ở khớp sau chấn thương, ngã hoặc các cử động bất thường.
Nếu bệnh lâu ngày thì âm dịch hao tổn, ảnh hưởng tới thận âm gây chứng sốt về chiều, đạo hãn, lưỡi đỏ, mạch tế sác, khớp cứng khó cử động (thoái hoá khớp).
Bảng biểu hiện các triệu chứng có tổn thương tạng phủ
 
Tạng phủ Triệu chứng
Tâm Hôn mê, nói nhảm, vật vã, lưỡi khô, hoặc nói không rõ
Can Toàn thân co cứng, mắt mở trừng trừng, thường hay tức giận, hồi hộp
Tỳ Không muốn ăn, uống thuốc thường nôn ra, người gầy đét
Phế Đờm nhiều, ho suyễn - ngực đau, ho có thể đờm lẫn máu, thở nhanh, ngạt mũi hoặc mũi phập phồng
Thận Miệng khát, họng khô, âm nang co rút, lưng gối mềm yếu
Tạng phủ đều hư Toàn thân phù, nôn nấc, ỉa chảy, miệng đầy đờm dãi
Khí huyết đều hư Thở và nói yếu, da xanh, lưỡi bệu nhạt, chân tay lạnh, ra mồ hôi
2.2.4. Biện chứng về hệ kinh lạc
Kinh lạc phân bố khắp cơ thể, bắt nguồn từ các tạng phủ thông ra ngoài bì phu, mạch, cơ, cân cốt… làm cho khí huyết lưu thông và nuôi dưỡng các tạng phủ, bì phu, mạch, cơ cân, xương hoạt động. Cho nên bất luận nguyên nhân gây bệnh nào, dù ở trong (tức là tạng phủ), dù ở ngoài (là bì phu), mạch, cơ xương… đều ảnh hưởng tới kinh lạc, đều làm cho khí huyết tắc trở mà phát sinh ra bệnh. Ví dụ: bệnh lở loét ở da, cơ (biểu) độc tà có thể theo kinh lạc vào cơ quan nội tạng (lý) gây bệnh lở loét ở tạng phủ; ngược lại trong tạng phủ bị bệnh có thể độc tà từ tạng phủ theo đường kinh lạc ra ngoài da, cơ, xương, khớp mà gây bệnh.
Các bệnh ở da, cơ, xương, khớp dù chấn thương hay các độc tà gây ra đều làm khí huyết tắc trở gây nên kinh lạc ngưng trệ, cho nên trên lâm sàng phải dựa vào bộ vị của đường kinh lạc mà biện chứng. Ví dụ: bệnh gáy cổ (loét, lở, nhọt…) là thuộc bộ vị của đường kinh bàng quang; bệnh viêm tuyến vú, tắc tia sữa là thuộc bộ vị của đường kinh vị…
Nhờ các huyệt nằm trên đường kinh lạc có liên quan chặt chẽ với các tạng phủ cho nên tạng phủ nào bị bệnh sẽ phản ứng trên đường kinh lạc đó (nhất là phản ứng lên các huyệt của đường kinh). Ví dụ: bệnh can đởm ấn huyệt dương lăng tuyền đau, bệnh của hệ thống đại tiểu trường ấn túc tam lý đau… cho nên dựa vào đó để chẩn đoán tạng phủ bị bệnh (ví dụ: chẩn đoán viêm ruột thừa ấn huyệt lan vĩ đau…).
Dựa vào liên quan đường kinh lạc với ngũ quan, vị trí và ngũ phủ (nơi cư trú của tạng phủ) để chẩn đoán và điều trị, ví dụ: − Bệnh ở đỉnh đầu thuộc kinh đốc − Bệnh ở tai thuộc kinh thận.
− Bệnh ở mũi thuộc kinh phế.
− Bệnh ở lòng bàn tay thuộc tâm bào lạc.
− Bệnh ở lòng bàn chân thuộc kinh thận.
− Bệnh ở vùng lưng thuộc đường kinh dương.
− Bệnh ở trong cánh tay thuộc thủ tam âm kinh.
− Bệnh phía trong đùi thuộc túc tam âm kinh.
− Bệnh phía ngoài đùi thuộc túc tam dương kinh.
Các kinh lạc liên quan chặt chẽ với khí huyết và các cơ quan cho nên bệnh ở kinh lạc hoặc cơ quan nào cũng có thể giúp đỡ cho chẩn đoán và điều trị theo khí huyết.
+ Nhiều khí, ít huyết:
 Cụ thể: bệnh ở tam tiêu kinh, tâm kinh, đởm kinh, thận kinh.
+ ít khí, nhiều huyết:
 Cụ thể: bệnh ở tâm bào lạc, tiểu trường, can kinh, bàng quang.
+ ít huyết, nhiều khí:
 Cụ thể: bệnh ở phế kinh, tỳ kinh.
+ Nhiều huyết, nhiều khí:
 Cụ thể: bệnh ở đại trường kinh, vị kinh
Bệnh ở nơi nhiều huyết, nhiều khí hoặc nhiều huyết, ít khí dễ khỏi hơn nhiều khí, ít huyết hoặc ít khí, ít huyết (vì huyết là nuôi dưỡng khí là thúc đẩy khí hoạt động).
2.2.5. Biện chứng về sưng, đau, mủ, ngứa
Trong quá trình tiến triển của bệnh ngoại khoa thường có dấu hiệu sưng, đau, mủ và ngứa.
− Sưng: trong cơ thể người ta khí huyết tuần hành không ngừng, không nơi nào không đến, không nơi nào không qua. Nếu do nguyên nhân nào đó làm khí huyết đọng lại hoặc ngưng trệ thì tại nơi đó có sưng đau. Hình thái cũng như màu sắc chỗ sưng đều khác nhau. Chỗ sưng tản mạn thuộc hư; chỗ sưng cao, tập trung thuộc thực; sưng thuộc phong thì chỗ sưng nổi phồng mà hay chạy; sưng thuộc đàm thì mềm nhũn như bông hoặc ngoài cứng trong mềm không đỏ, không nóng, màu da như thường; vì ứ huyết mà sưng thì sắc hơi hồng hoặc bầm tím; nếu thành mủ thì màu sắc biến đổi, có thể tím bầm lẫn vàng hoặc màu xanh; sưng do huyết không chạy, sưng do khí thì chạy.
− Đau: đau chính là do khí không lưu thông nhưng khí là thống soái của huyết, huyết là mẹ của khí nên khí không lưu thông thì huyết cũng không lưu thông. Cho nên đau là do khí huyết không lưu thông, tuỳ theo nguyên nhân mà có tính chất đau khác nhau; nếu đau thuộc hư thì ưa xoa bóp, nếu đau thuộc thực thì xoa bóp lại đau tăng; đau thuộc hàn thì tụ lại một chỗ, màu da không thay đổi, gặp nóng thì bớt đau; đau thuộc nhiệt thì màu hồng đỏ, gặp lạnh thì đau giảm; vì làm mủ mà đau thì vừa đau vừa sưng to; vì phong mà đau thì đau chạy khắp người rất nhanh, kèm theo ngứa, tê bì hoặc kiến cắn; vì khí mà đau thì đau chạy quanh không nhất định chỗ nào.
− Làm mủ: mủ là do khí huyết hoá sinh ra. Nếu khí huyết suy kém thì không thể đẩy độc ra ngoài được, vì thế sự bài nùng của các chứng ung nhọt, sang ung…là do chính khí đẩy độc ra ngoài làm cho độc theo mủ ra ngoài cho nên bệnh làm mủ như ung, nhọt, thũng, độc đã đến giai đoạn thành hình thì phải khám xét kỹ xem đã làm mủ chưa, mủ ở sâu hay nông để xử lý cho đúng; đồng thời khi có mủ thì đã vỡ chưa và xem xét tính chất mùi màu của mủ:
+ Phương pháp xem có mủ: lấy hai ngón tay ấn nhẹ nơi sưng, nếu thấy bập bềnh là có mủ, có nước. Nơi ung nhọt ấn vào thấy nóng là có mủ, không nóng là không có mủ; ấn vào thấy cứng rắn là chưa có mủ, mềm nhũn ở trong là có mủ đã chín; ấn nhẹ thấy đau ngay là có mủ ở nông, ấn nặng mới thấy đau là mủ trong sâu; da phồng mỏng là mủ ở nông, màu da không thay đổi lại không co lên là mủ ở sâu.
+ Tính chất của mủ: do nguyên nhân khác nhau nên tính chất mủ cũng khác nhau. Người khí huyết thịnh vượng thì mủ ra đặc và vàng, người khí huyết hư yếu thì mủ ra loãng và trắng, nếu mủ ra như nước đục hoặc nước bột mà thối thì đó là chứng chữa được. Nếu lúc đầu ra mủ vàng đặc, sau ra mủ như màu hoa đào, rồi ra nước đỏ nhợt, đó là hiện tượng bình thường dễ thu miệng lên da non. Nếu sắc mủ như dầu trẩu hoặc chảy nước vàng hoặc nước trong thường nằm trong chứng chữa lâu và khó.
− Ngứa: nếu mụn nhọt trước khi vỡ mà phát ngứa là phong kết hợp nhiệt. Sau khi vỡ mủ mà phát ngứa là bình thường, là hiện tượng khí huyết dần dần đầy đủ, dễ lên da non nhưng ngứa phải như kiến bò mới là tốt.
Nếu bệnh biến mà phát ngứa, cơ thể hư, có mủ chảy, cảm phải phong mà sinh ra, đó là bệnh nặng khó khỏi. Mụn nhọt lồi phình như bột gạo mà ngứa, khi gãi chảy nước là thuộc tỳ kinh có thấp, chảy ra máu tươi là tỳ kinh táo quá.
2.2.6. Phân biệt bệnh lành - dữ và chứng thuận - nghịch
− Năm điểm lành và bảy điểm dữ:
Người xưa đã tổng kết kinh nghiệm lâm sàng lâu dài đã đưa ra:
+ Năm điểm lành:
• Tinh Thần tỉnh táo khoan khoái, tiếng nói hoà nhã thông suốt, lưỡi nhuận không khô, ăn ngủ bình thường.
• Cơ thể nhẹ nhàng, yên vui không buồn bực, móng tay tươi nhuận, khi nằm khi dậy yên tĩnh.
• Môi tươi nhuận; mủ đặc vàng mà không hôi thối.
• Tiếng nói rắn rỏi, da dẻ tươi nhuận, không ho suyễn, đại tiểu tiện bình thường.
• Không phát nóng, miệng răng không khô.
+ Bảy điểm dữ:
• Thần trí buồn bực không yên, miệng lưỡi khô ráo, nói năng líu khó, nơi tổn thương miệng rộng thâm đen.
• Thân thể cứng thẳng, mắt nhìn nghiêng, miệng vết thương chảy máu.
• Hình dáng gầy còm, không muốn ăn, chỗ vết thương có mủ mềm lõm sâu, không biết đau nhức, mủ trong ít mà hôi thối.
• Da khô rộp, nhiều đờm, thanh âm ngọng, líu lưỡi, ho suyễn, mũi phập phồng.
• Da đen xám, cổ họng khô ráo, buồn bực, khát, bìu dái co lên.
• Tay chân mình mẩy phù thũng, nôn mửa, nấc, ỉa chảy, đầy bụng.
• Nơi tổn thương loét nát nham nhở như tổ con lươn, máu tự nhiên chảy ra, tay chân quyết lạnh.
− Chứng thuận, chứng nghịch:
+ Chứng thuận là nơi tổn thương và các chứng trạng của bệnh phát triển bình thường và tiên lượng tốt.
+ Chứng nghịch là nơi tổn thương và các chứng trạng thể hiện biến chứng, tiên lượng bệnh xấu.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Anh (chị) hãy trình bày và cho thí dụ về các nguyên nhân bên ngoài của ngoại khoa y học cổ truyền.
2. Anh (chị) hãy giải thích và cho thí dụ về biện chứng bệnh lý của khí và huyết trong ngoại khoa y học cổ truyền.
3. Anh (chị) hãy giải thích và cho thí dụ về biện chứng sưng, đau, mủ và ngứa theo y học cổ truyền.
4. Anh (chị) hãy phân biệt bệnh lành - dữ và chứng thuận - nghịch của bệnh theo y học cổ truyền.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

TS. Lê Lương Đống
Mục tiêu
1. Hiểu được quá trình hình thành phát triển điều trị chấn thương theo y học cổ truyền.
2. Hiểu biết về tình hình kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại về điều trị gãy xương
1. Sơ lược lịch sử Điều trị chấn thương theo YHCT đơn thuần
Từ khai thiên lập địa, y học phương Đông đã đối đầu với điều trị chấn thương nói chung và điều trị gãy xương nói riêng. Trải qua hàng nghìn năm kinh nghiệm, điều trị gãy xương ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
Người nguyên thuỷ còn trong đời sống hoang dã, khi đi kiếm ăn thường dùng những vũ khí thô sơ như gậy, rìu đá để chống cự với thú dữ; hoặc leo trèo lên cây cao, chạy nhảy hái lượm dễ bị tai nạn. Lúc bấy giờ người ta đã biết dùng lá cây hoặc rêu đá để bôi hoặc xoa vào vết thương, đó là cơ sở nguyên thuỷ về ngoại khoa chấn thương.
1.1. Y học cổ truyền Trung Quốc
Từ đời nhà Chu (1066-255 TCN) đến nhà Tần(306-207 TCN) có chia ra bốn loại thầy thuốc là thực y, tật y, dương y (chữa nhọt) và thú y. Dương y còn chữa cả đâm chém, ngã gãy xương...
Đến đời nhà Hán(206-25 TCN) và đời nhà Tấn(265-420) có một số sách nói về chấn thương.
Từ đời nhà Đường(608-917), người ta đưa khoa xương gộp vào khoa xoa bóp.
Đến đời nhà Thanh(1616-1911), vì luôn luôn có chiến tranh nên khoa xương được chú ý đặc biệt. Năm Càn longthứ nhất (1737) triệu tập các danh y biên soạn cuốn Chính cốt pháp trong đó có nói về nguyên nhân, triệu chứng, cách khám, cách điều trị gãy xương, sai khớp.
Về thuốc có chia ra thuốc uống trong để giao thông huyết mạch và chống sưng đau; thuốc dùng ngoài để bó và cố định.
Các loại dụng cụ để bó xương như: trúc liêm (cái mành mành) để cố định xương dài; lam ly (cái giát thưa) để cố định xương cẳng tay, cẳng chân; mộc thông (miếng gỗ đệm vào lưng) để cố định xương sống; yêu trụ (cái đệm lưng); bào tất (đệm bao) để cố định đầu gối...
1.2. Y học cổ truyền Việt Nam
Xưa kia, vì chưa có sách vở ghi chép nên y học dân tộc chỉ được truyền miệng từ người này qua người khác. Riêng nắn bó gãy xương có tính chất gia truyền và chuyên nghiệp.
Đến thế kỷ XIV Tuệ Tĩnhtrong bộ Nam dược Thần hiệu đã ghi chép phương pháp điều trị thương khoa và dược vật ứng dụng như: bẹ móc đốt ra tro để rắc, rịt; lá cây thanh hao giã ra để đắp; nhựa cây giao hương (cây thau) để bôi hàn vết thương; cây tổ rồng (cốt toái bổ) có tác dụng làm lành vết thương và liền xương; rễ cây móng nước (phượng hoa tiên), vỏ cây gạo (mộc miên) đắp chữa gãy xương....
Đầu thế kỷ thứ XVIII,Lãn Ônggóp thêm trong quyển Bách gia trân tàng có phương thuốc chữa gãy xương, sai khớp của nước Lào truyền sang (công thức xin xem mục: thuốc dùng ngoài).
Trong các phương pháp cổ truyền cũng có nhiều môn thuốc đơn giản: như vấp ngã sưng đau thì đắp bã chè tươi giã với muối, đắp lá cúc tần giã với muối, đắp nước gỗ vang sắc với bã chè...; chảy máu thì đắp lông culi, mạng nhện, bồ hóng, lông tơ ở ngực con cò...; bong gân thì chườm, bó lá náng hơ nóng, lá ngải tướng Quân, mo cau, bẹ chuối...
2. sơ lược lịch sử Điều trị gãy xương bằng phương pháp kết hợp YHCT và YHHĐ
2.1. Trung Quốc
Tất cả các bệnh viện đều có kết hợp Trung - Tây y trong điều trị gãy xương ngoại trú và nội trú. Để nhằm khoa học hoá Trung y, các bác sĩ Tây y đã học phương pháp nắn bó cổ truyền rồi cải tiến, trực tiếp nắn bó, theo dõi và kiểm tra bằng X quang. Rất nhiều bệnh nhân được nằm viện để theo dõi một thời gian.
Trước khi nắn bao giờ cũng phải tiêm tê, ở trẻ em thì phải gây mê.
Đặt chi ở tư thế trung bình sinh lý (cơ ở trạng thái chùng giãn nhất), dùng lực kéo và lực kéo ngược lại để giải quyết di lệch chồng, di lệch gấp góc, di lệch bên, di lệch xoay....
Dụng cụ bó có khác nhau về chất liệu ở mỗi bệnh viện: nẹp tre nhỏ cho ngón tay, ngón chân, nẹp bột ngắn (Bắc Kinh); nẹp gỗ liễu được dán một lớp dạ mỏng cho êm (Thiên Tân), nhưng đều dài giữ toàn bộ xương hoặc chờm khớp, cho phép khớp có thể cử động được một phần. Ngoài việc đặt nẹp, đệm cũng giữ một vai trò quan trọng nhằm chống di lệch thứ phát. Đệm được làm bằng giấy bản tốt, có nhiều hình dáng khác nhau phù hợp với nơi đệm. Vị trí đặt đệm tuỳ thuộc cơ chế di lệch và nhiệm vụ cố định.
ở tất cả các bệnh viện đã kết hợp điều trị, các thầy thuốc đều nhận định: xương liền nhanh hơn 1/3 thời gian so với điều trị bó bột, ấy là chưa kể đến cơ năng chi gãy phục hồi nhanh hơn, không mất nhiều thời gian tập luyện vận động như sau tháo bột.
Ưu điểm của phương pháp là nhờ không bất động hoàn toàn khớp trên và dưới ổ gãy, các khớp khác đều có thể cử động nhẹ nhàng ngay, rồi các động tác tăng dần. Vì tập cử động được rất sớm cho nên máu lưu chuyển tốt, xương không bị mất chất vôi (nhất là ở người già), cơ không teo, do đó xương gãy chóng liền.
2.2. Việt Nam
Bắt đầu từ 1960, Khoa Chấn thương Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức và Bệnh viện Xanh - Pôn (Saint-Paul) phối hợp với Viện Nghiên cứu Đông y (nay là Bệnh viện YHCT Trung ương) đã áp dụng phương pháp YHCT để điều trị những chấn thương gãy kín. Trong những năm đầu áp dụng cho một số gãy xương đơn giản ở người lớn rồi trẻ em. Từ tháng 5 năm 1960 đến cuối 1963 đã điều trị 1841 trường hợp chấn thương kín, trong đó có 658 ca gãy xương, 1183 ca chạm thương bong gân và trật khớp.
Năm 1966; Khoa ngoại - Viện nghiên cứu Đông y bước đầu cải tiến nẹp đã điều trị các trường hợp gãy thân xương dài như cẳng chân, cẳng tay, xương đùi người lớn.
Từ 1977 Viện Y học dân tộc Hà Nội (Viện Nghiên cứu Đông y trước đây) đã thừa kế, phát huy ưu điểm của cả hai phương pháp YHCT và YHHĐ, khắc phục nhược điểm của chúng, xây dựng phương pháp điều trị gãy xương kết hợp YHCT với YHHĐ như chỉnh hình bằng dụng cụ hoặc bàn chỉnh hình, kiểm tra X quang: sau khi vô cảm bằng gây tê, châm tê hoặc thuỷ châm tê thì tiến hành chỉnh hình theo phương pháp YHHĐ, cố định xương gãy bằng nẹp tre. Nẹp không ngừng được cải tiến, từ nẹp gỗ thô sơ đến nẹp có vít điều chỉnh ở ngoài, có đệm bọc lót, uốn cho ăn khuôn chi kết hợp với đệm làm bằng giấy bản giúp cho việc chỉnh phục thêm hoàn thiện, chống di lệch thứ phát để cố định xương gãy ngày một tốt hơn. Các bài sau đây là nội dung của phương pháp điều trị kết hợp YHCT với YHHĐ.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy trình bày quá trình phát triển YHCT ở Việt Nam
2. Hãy trình bày tình hình điều trị kết hợp YHCT và YHHĐ trong gãy xương.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
 

BONG GÂN (Nỉu thương)

PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
Mục tiêu
1. Hiểu và trình bày được quan niệm nguyên nhân, triệu chứng chẩn đoán nỉu thương, trúng thương khoa của ngoại khoa y học cổ truyền.
2. Biết và vận dụng được phương pháp điều trị nỉu thương bằng y học cổ truyền.
1. Quan niệm và nguyên nhân
Nỉu là xoay vặn, thương là bệnh, vì xoay vặn cơ khớp làm tổn thương kinh lạc cân cơ, khí cơ tắc trở gây đau yếu nặng, huyết trệ gây sưng nóng đỏ. Theo y học hiện đại là hiện tượng bong gân, giãn dây chằng hoặc co thắt cơ dây chằng gây ra gọi tắt là bong gân, có thể sinh ra cấp tính hoặc mạn tính.
Nguyên nhân: do động tác trái tư thế, đột ngột quá mạnh hoặc động tác gò bó kéo dài gây nên. Ví dụ: quay lưng đột ngột hoặc mạnh, hoặc xách nặng, quay cổ mạnh, nằm gối đầu cao, đi guốc cao gót hoặc trẹo chân do đá bóng… Theo y học cổ truyềndo xoay vặn quá mức, khí cơ tắc trở gây đau yếu nặng, huyết trệ gây sưng nóng đỏ.
2. Triệu chứng, chẩn đoán
Nỉu thương hay gặp ở thắt lưng, cổ chân, cổ gáy, cổ tay hoặc khuỷu tay.
Tại chỗ: sau các nguyên nhân rõ ràng có thể xuất hiện ngay các triệu chứng: có thể sau vài tiếng đồng hồ hoặc vài ngày.
Triệu chứng đau tại nơi tổn thương: đau tăng dần ảnh hưởng tới vận động, tuỳ theo có tổn thương phần mềm hay không mà dần dần sưng nóng đỏ, cũng có khi đau đơn thuần (không rách dây chằng hoặc bao khớp), không có dấu hiệu gãy xương sai khớp. Nếu không điều trị ngay sẽ gây sưng nề, không đỏ tím (nếu không tổn thương mạch máu); nặng hơn có thể gây cứng khớp, loãng xương.
Theo y học cổ truyền: do tác động gián tiếp của các động tác hoặc ngoại lực gây nên khí trệ tại chỗ nên đau; sau đó huyết ứ gây sưng nóng đỏ, thấp trệ gây nề.
3. Điều trị
3.1. Nguyên tắc điều trị chung
Pháp điều trị: hoạt huyết, hành khí, thư cân, thông kinh, chỉ thống.
3.2. Thuốc dùng ngoài
3.2.1. Thuốc đắp
Bài 1: đắp cao thống nhất.
Bài 2:
Bột cúc tần 8 phần Bột đại hồi 0,8 phần
Bột ngải cứu 4 phần Sáp ong 2 phần
Bột quế chi 1,6 phần Dầu ve 20 phần
Trộn đều, đựng vào lọ dùng dần. Khi dùng tuỳ theo vị trí tổn thương rộng hay không mà đắp trực tiếp vào nơi tổn thương.
Bài 3:
+ Vỏ cây gạo vừa đủ giã nát sao với rượu, ngày đắp 1 lần.
+ Lá náng hơ nóng đắp vào nơi tổn thương.
3.2.2. Thuốc xoa
Bài 1: Mật gấu hòa với rượu bôi.
Bài 2: Trật đả tán
Nhũ hương 1 phần Tô mộc 4 phần
Một dược 1 phần Huyết giác 4 phần
Băng phiến 1 phần Quế chi 1 phần
Đại hồi 2 phần Nga truật 2 phần
Dây kim ngân 1 phần

Tán bột, mỗi lần dùng hòa với rượu vừa đủ xoa lên nơi tổn thương, ngày 2 lần.
3.2. Thuốc uống trong
Cao tiêu viêm
Ngải cứu 12g Tô mộc 10g
Huyết giác 12g Lá móng tay 10g
Nghệ vàng 10g

Ngày uống 1 thang, hoặc nấu thành cao uống, ngày uống 3 lần (sáng, trưa và tối).
3.4. Xoa nắn, bấm huyệt
Phương pháp này nhiều khi mang lại kết quả rất tốt.
− Kéo giãn: kéo từ từ theo hướng sinh lý, lực vừa phải, bệnh nhân cảm giác dễ chịu, giữ 1-2 phút, sau đó làm động tác trả lại (ngược lại) hướng động tác gây tổn thương.
− Bật gân: dùng ngón cái bật như kiểu bật dây đàn, làm 2-3 lần vào nơi có co thắt cơ hoặc dây chằng vùng đau.
− Bấm, điểm huyệt: dùng các huyệt ở xa nơi tổn thương.
3.5. Châm cứu
− Châm tả các huyệt tại chỗ.
− Châm toàn thân các huyệt:
Đau vùng cổ gáy: lạc chẩm, hợp cốc, đốc du, kiên tỉnh, phong trì.
Đau vùng cổ chân: huyền chung, thái xung, tam âm giao.
Đau vùng thắt lưng: thận du, uỷ trung, đại trường du, á thị huyệt.
Đau ở cổ tay: thủ tam lý, hợp cốc, ngoại quan, dương trì.
Đau ở khuỷu tay: hợp cốc, trung phủ, thủ tam lý, á thị huyệt, khúc trì.
− Thuỷ châm: dùng các thuốc giảm đau hoặc giảm đau chống viêm của y học hiện đại tiêm vào các huyệt
ở vùng cổ gáy : đốc du, kiên tỉnh.
ở vùng cổ chân : huyền chung, tam âm giao.
ở vùng thắt lưng : thận du, đại trường du, á thị huyệt.
ở vùng cẳng tay : thủ tam lý.
Không nên dùng các thuốc dầu tiêm nơi ít cơ.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Anh (chị) hãy trình bày quan niệm, nguyên nhân, triệu chứng và điều trị nỉu thương theo y học cổ truyền.
2. Anh (chị) hãy trình bày phương pháp điều trị nỉu thương bằng y học cổ truyền.
 
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
 

CÁCH KÊ ĐƠN THUỐC

PGS.TS Phan Quan Chí Hiếu
ThS. Ngô Anh Dũng
Mục tiêu
Sau khi học xong bài này, sinh viên phải
1. Định nghĩa được vai trò của Quân - Thần - Tá - Sứ trong một bài thuốc Đông Y
2. Định nghĩa và liệt kê được các thuốc tương tu, tương sử, tương úy, tương sát, tương ố, tương phản.
3. Nêu được các dược vật cấm kỵ và thận trọng khi dùng lúc có thai.
4. Nêu được các cấm kỵ trong khi uống thuốc.
5. Thuộc lòng được các vị thuốc (cùng với liều lượng) trong danh mục thuốc độc và giảm độc của đông y.
1. Những phương cách Kê đơn thuốc
Sau khi chẩn đoán, người thầy thuốc sẽ căn cứu vào tình trạng bệnh cụ thể mà thiết lập một đơn thuốc điều trị. Đông y thường gọi là biện chứng luận trị (dựa vào bệnh - chứng của người bệnh mà biện luận cách trị liệu). Có nhiều phương pháp kê đơn thuốc trong Đông y.
1.1. Cổ phương gia giảm – theo lý luận Đông y
Theo phương pháp này, nội dung bài thuốc là những bài thuốc đã được xác lập, ghi nhận kết quả từ lâu đời qua nhiều thế hệ, được ghi lại trong các sách kinh điển. Khi điều trị người thầy thuốc thường tăng thêm (gia) hoặc giảm bớt (giảm) vị thuốc hay liều dùng sao cho phù hợp nhất với tình hình thực tế của bệnh nhân.
Một ví dụ như để chữa chứng Ngoại cảm phong hàn, biểu thực (có sợ lạnh, phát sốt, không mồ hôi, ngạt mũi, thở suyễn, hoặc ho đờm, đau đầu, đau nhức các khớp, cứng gáy, mạch phù khẩn) thì bài thuốc kinh điển Đông y sử dụng là bài Ma hoàng thang.
−ưu điểm: thể hiện đầy đủ tính chất lý pháp của Đông y.
Nhược điểm: khó nhớ, lệ thuộc vào thuốc ngoại nhập, khó vận dụng vì bệnh cảnh có thể thay đổi.
1.2. Theo đối chứng trị liệu
Theo phương pháp này, người thầy thuốc cổ truyền chọn thuốc điều trị dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân.

Triệu chứng Thuốc
Sợ lạnh, phát sốt, không đổ mồ hôi, đau nhức tứ chi. Quế chi
Ho, hen đờm suyễn. Tía tô
Đau đầu, cứng gáy, ngạt mũi. Bạch chỉ
−ưu điểm
+ Đơn giản, linh hoạt trong việc vận dụng các vị thuốc.
+ Không phải nhớ nhiều bài thuốc.
−Nhược điểm: do hoàn toàn chạy theo triệu chứng nên dễ sa đà, làm mất tính cân đối trong lý pháp phương dược.
1.3. Theo kinh nghiệm dân gian
Phương pháp này sử dụng những kinh nghiệm gia truyền (có khi chỉ là truyền khẩu). Thường gặp trong dân tộc ít người.
Dùng nồi xông với các loại lá có chứa tinh dầu thơm.
−ưu điểm: dễ sử dụng, vận dụng được nam dược.
−Khuyết điểm: không bảo đảm tính lý pháp của Đông y.
1.4. Theo toa căn bản
Nội dung bài thuốc theo toa căn bản được dựa theo kinh nghiệm của Quân dân y trong thời gian kháng chiến. Ngoài 10 -11 vị thuốc dùng để nhuận tiểu, nhuận gan, nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc cơ thể, kích thích tiêu hóa, khai khiếu, việc sử dụng toa căn bản còn gia thêm Quế chi, Tía tô, Hành, Kinh giới, Bạch chỉ.
−ưu điểm: dễ sử dụng không cần học nhiều, vận dụng được Nam dược.
−Nhược điểm
+ Không thể hiện tính lý pháp của Đông y.
+ Đôi khi còn dùng quá nhiều thuốc.
1.5. Kê đơn theo dược lý tân y
Trong giai đoạn hiện nay, không chỉ người lương y, thầy thuốc cổ truyền sử dụng thuốc có nguồn gốc tự nhiên để trị bệnh, mà cả những thầy thuốc Tây y cũng quan tâm ngày càng nhiều. Vì thế, việc thiết lập các toa thuốc điều trị có sử dụng thêm cơ sở dược lý Tây y. Tiêu biểu cho phương pháp này là cách thiết lập bài thuốc do Bùi Chí Hiếu xây dựng (Giáo sư dược lý học).
Bài thuốc chung có gia giảm
Tía tô Bạc hà Cúc hoa
Cam thảo đất Kinh giới Cúc tần Gừng tươi.
−Trong thể phong hàn
+ Bỏ Bạc hà, Cúc hoa (tân lương giải biểu) + Bỏ Cam thảo đất (Thanh nhiệt giải độc).
−Trong thể phong nhiệt
+ Bỏ Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi.
ưu điểm: thỏa mãn được yêu cầu điều tri của Đông y cũng như Tây y từ lý pháp đến biện chứng của Đông y cũng như phương pháp điều trị của Tây y.
−Bài thuốc trên vừa đáp ứng được nhu cầu lý pháp của Đông y.
+ Phát tán phong hàn: Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi.
+ Chỉ khái trừ đờm: Tía tô, Gừng tươi.
+ Tiêu ứ hóa thấp chỉ thống Kinh giới, Cúc tần.
−Lại đáp ứng được yêu cầu điều trị triệu chứng theo Tây y nhờ các hoạt chất thiên nhiên có tác dụng sinh học
+ Tinh dầu có trong Tía tô, Kinh giới, Gừng tươi đều có tác dụng giãn mạch, làm ra mồ hôi, hạ sốt, giãn phế quản và long đờm để giảm ho, hen; lại có tác dụng sát trùng đường hô hấp để trừ nguyên nhân gây bệnh hoặc để chống bội nhiễm.
Nhược điểm: khó vận dụng, đòi hỏi phải có một trình độ tinh thông về y lý, dược lý của cả Đông và Tây y.
2. Những nội dung quan trọng trong cách kê đơn thuốc theo lý luận đông Y
2.1. Vai trò của các vị thuốc trong một đơn thuốc (quân, thần, tá, sứ)
Việc cấu tạo các vị thuốc trong một bài thuốc nhằm để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong điều trị như sau
Giải quyết những triệu chứng chính, những triệu chứng thuộc về nguyên nhân gây bệnh, những triệu chứng do tạng bệnh chính thể hiện.
−Giải quyết những triệu chứng phụ, những triệu chứng do tạng phủ có quan hệ (biểu lý hoặc ngũ hành) với tạng phủ bị bệnh thể hiện.
−Tăng hoạt tính của vị thuốc chính.
−Đưa các vị thuốc chính đến tạng phủ, kinh lạc bị bệnh.
−Điều hòa tính năng của các vị thuốc.
Do đó các vị thuốc thường đóng những vai trò sau đây
Quân (Chủ dược): là đầu vị trong bài thuốc dùng để chữa triệu chứng chính, do nguyên nhân bệnh gây ra, do tạng bệnh chính thể hiện.
Thần (Phó dược): là những vị thuốc có tác dụng hợp đồng và hỗ trợ cho chủ dược.
Tá (Tá dược): là những vị thuốc để chữa các triệu chứng phụ hoặc ức chế độc tính hoặc tính mạnh bạo của chủ dược.
Sứ (Dẫn dược): là những vị thuốc để đưa các vị thuốc khác đến thẳng tạng phủ bệnh hoặc điều hòa các vị thuốc khác tính năng.
Quân, Thần, Tá, Sứ đó cũng là cách nói của người xưa dưới chế độ phong kiến. Coi triều đình có vua, có quan thì đơn thuốc cũng phải có vị chính, vị phụ, vị nào chủ yếu, vị nào hỗ trợ.
Lấy Ma hoàng thang làm ví dụ. Đây là bài thuốc dùng chữa chứng cảm mạo phong hàn với các triệu chứng phát sốt, sợ lạnh, không có mồ hôi, ngạt mũi, thở khò khè, đau đầu, cứng gáy, đau nhức các khớp, mạch phù khẩn.
Ma hoàng: cay ấm vào Phế, có tác dụng phát hãn, bình suyễn. Do phong hàn phạm Phế làm cho Phế khí bất tuyên thông, bất túc giáng nên có triệu chứng phát sốt, không có mồ hôi, thở suyễn, ngạt mũi. Vì vậy, Ma hoàng phải làm chủ dược, làm Quân.
Quế chi: cay ấm vào Phế, Bàng quang, có tác dụng ôn kinh chỉ thống và lại phát tán phong hàn. Do phong hàn tà làm bế tắc kinh lạc mà gây thành chứng đau đầu, cứng gáy, đau nhức các khớp xương. Quế chi phối hợp với Ma hoàng để phát tán phong hàn lại vừa ôn kinh chỉ thống giải quyết triệu chứng phụ. Vì vậy Quế chi là phó dược, làm Thần.
Hạnh nhân: đắng ấm vào Phế, Đại trường, vừa có tác dụng chữa ho, hen do phong hàn ngăn trở Phế khí, vừa phối hợp với Ma hoàng chữa thở suyễn nên làm phó dược, làm Thần.
Cam thảo bắc: ngọt bình vào 12 kinh, để giảm bớt tính công phạt của Ma hoàng nên là dẫn dược, làm Sứ.
Chú ý: các vị thuốc dẫn kinh làm sứ là thuốc đưa thuốc khác đến với bộ vị bị bệnh như
+ Phòng phong Khương hoạt dẫn vào Thái dương kinh.
+ Thăng ma, Cát căn Bạch chỉ dẫn vào Dương minh kinh.
+ Sài hồ dẫn vào Thiếu dương kinh.
+ Thương truật dẫn vào Thái âm kinh.
+ Độc hoạt dẫn vào Thiếu âm kinh.
+ Tế tân, Xuyên khung và Thanh bì dẫn vào Quyết âm kinh.
+ Cát cánh dẫn lên Yết hầu.
+ Tang chi dẫn ra hai tay.
+ Ngưu tất dẫn xuống hai chân.
Nói tóm lại, sự cấu tạo bài thuốc theo Quân Thần Sứ được phân thành hai nhóm
−Nhóm chữa triệu chứng bệnh.
−Nhóm điều hòa tính năng hoặc/và dẫn kinh cho nhóm trên.
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến vị trí của vị thuốc trong bài thuốc
Trong thực tế điều trị, người thầy thuốc Đông y còn phải chú ý đến những nguyên tắc sau đây để quyết định vị trí của thuốc trong từng bài thuốc.
2.2.1. Tiêu bản hoãn cấp
Cấp thì trị Tiêu: ví dụ: tiêu chảy ra máu cấp tính do Thấp nhiệt làm bức huyết ở Đại trường thì thuốc nào cầm máu sẽ làm Quân, thuốc nào quy kinh Đại trường mà thanh nhiệt trừ thấp sẽ làm Thần.
Hoãn thì trị Bản: ví dụ: thường xuyên đi cầu ra máu do Tỳ dương hư không thống nhiếp huyết, bệnh không cấp tính thì thuốc kiện Tỳ làm Quân, thuốc cầm máu thì làm Thần.
2.2.2. Chú ý đến trạng thái Hư, Thực của bệnh nhân
Nếu người có bẩm tố dương hư mà cảm mạo thương hàn thì thuốc bổ dương khí làm Quân, mà thuốc phát tán phong hàn sẽ làm Thần.
2.2.3. Chú ý đến phương pháp Đóng Mở trong điều trị
−Nếu người có chứng âm hư sinh nội nhiệt thì thuốc bổ âm làm Quân và thuốc tiết nhiệt sẽ làm Thần.
Hoặc ở bệnh nhân tiêu chảy và tiểu ít thì thuốc cầm tiêu chảy sẽ là Quân và thuốc lợi thủy sẽ làm Thần (lợi thủy để chỉ tả).
2.2.4. Chú ý đến giai đoạn bệnh (dành cho các bệnh truyền nhiễm)
−ở giai đoạn khởi phát thì tà khí ở phần Vệ, nên các thuốc có tác dụng phát hãn sẽ làm Quân.
−ở giai đoạn toàn phát tà khí và chính khí đấu tranh quyết liệt, lúc đó phải giữ vững chính khí trừ tà khí, thì thuốc bổ chính khí sẽ là Quân, thuốc trừ tà khí sẽ là Thần.
−ở giai đoạn hồi phục thì chính khí bị hao tổn, do đó thuốc bổ chính khí sẽ làm Quân.
2.2.5. Chú ý đến nguyên nhân gây bệnh
2.2.5.1. Trong điều trị các bệnh lý do ngoại nhân gây nên (Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa)
−Vai trò của các vị thuốc trong trường hợp này được chú ý đến luật âm dương. Việc phối hợp thuốc tập trung giải quyết chủ chứng (chứng trạng chủ yếu của bệnh lý ấy). Nguyên do bệnh ngoại cảm là bệnh mới mắc, bệnh chưa diễn tiến lâu dài nên chưa có điều kiện làm rối loạn các công năng tạng phủ khác theo qui luật ngũ hành.
Những ví dụ về cách tập họp vị thuốc trong bệnh lý do ngoại nhân gây nên
Điều trị chứng Quyết âm nhiệt quyết: Pháp trị: tư âm thanh nhiệt. Bài thuốc kinh điển: Hoàng liên A giao thang

Vai trò các vị thuốc Tên vị thuốc Tác dụng
Quân A giao Bạch thược Tư âm
Thần
Hoàng liên Hoàng cầm Thanh nhiệt
 
Điều trị chứng Quyết âm hàn quyết. Pháp trị: hồi dương ôn lý. Bài thuốc kinh điển: Tứ nghịch thang

Vai trò các vị thuốc Tên vị thuốc Tác dụng
Quân Phụ tử Hồi dương ôn lý
Thần Can khương Hồi dương - ôn lý
Tá Sứ Cam thảo  
2.5.5.2. Trong điều trị các bệnh lý do nội nhân, các bệnh nội thương gây nên
−Trong nhóm này, vai trò của các vị thuốc được xác lập theo luật ngũ hành sinh khắc rất chặt chẽ như thuốc chữa bệnh chứng Thận âm hư phải có vị thuốc bổ Can âm và vị thuốc tả Can, Tâm hỏa; thuốc chữa chứng Tâm dương hư luôn có vị thuốc bổ Thận dương và Tỳ dương.
Những ví dụ về cách tập hợp vị thuốc trong điều trị những bệnh lý do nội nhân, các bệnh nội thương gây nên.
−Bài thuốc Lục vị chữa chứng Thận âm hư
Vai trò các vị thuốc Tên vị thuốc Tác dụng
Quân Thục địa
Sơn thù
Bổ Thận âm
Bổ Can Thận âm
Thần Hoài sơn Phục linh Bổ âm
(kiện Tỳ sinh tinh hậu thiên)
Đơn bì
Trạch tả
Phục linh
Tả Can hỏa
Thanh tiết Bàng quang
−Bài thuốc Chân vũ thang chữa chứng Tỳ Thận dương hư
Vai trò của các vị thuốc Vị thuốc Tác dụng
Quân Phụ tử Hồi dương cứu nghịch, bổ hỏa trợ dương
Quân Bạch thược Dưỡng huyết Liễm âm. Lợi tiểu, nhuận gan
Thần Can khương Ôn dương tán hàn. Hồi dương thông mạch
Thần Bạch truật Kiện Vị, hòa trung, táo thấp
Phục linh Bổ Tỳ định Tâm
3. Sự phối ngũ các vị thuốc trong một đơn thuốc
Mục đích của sự phối ngũ các vị thuốc là để tăng tác dụng, tăng hiệu quả các vị chủ dược, để giảm tác dụng phụ, giảm độc tính các vị thuốc nhất là chủ dược và sau cùng là để tránh làm mất hiệu quả thuốc hoặc làm tăng độc tính hơn. Có những loại phối ngũ sau.
Tương tu: hai vị thuốc có cùng tác dụng hổ trợ kết quả cho nhau. Ví dụ: Ma hoàng và Quế chi cùng tính vị cay ấm, cùng tính năng phát tán phong hàn (Ma hoàng thang) làm ra mồ hôi.
Tương sử: hai vị thuốc trở lên, tác dụng có khi khác nhau, một thứ chính, một thứ phụ, dùng để nâng cao hiệu quả chữa bệnh. Ví dụ: trong bài Ma hoàng thang có Ma hoàng và Hạnh nhân, Ma hoàng là phát tán phong hàn để tuyên thông Phế khí; Hạnh nhân chữa ho, trừ đờm cũng để tuyên thông Phế khí. Cả hai cùng phối hợp nhau để chữa hen suyễn.
Tương tu và Tương sử được xem như là cách phối hợp để làm hiệu quả điều trị cao hơn (synergique). Thường dùng cho các thuốc làm Quân, làm Thần.
Tương úy: là sử dụng một loại thuốc để làm giảm tác dụng phụ của một vị thuốc khác.
+ Lưu hoàng úy Phác tiên
+ Thủy ngân úy Phê sương
+ Lang độc úy Mật đà tăng
+ Ba đậu úy Khiên ngưu
+ Đinh hương úy Uất kim
+ Nha tiêu úy Tam lăng
+ Ô đầu úy Tê giác
+ Nhâm sâm úy Ngũ linh chi
+ Nhục quế úy Xích thạch chi
Tương sát: là sử dụng một loại thuốc để làm giảm độc tính của một số vị thuốc khác. Ví dụ Đậu xanh với Ba đậu.
Tương úy và Tương sát thường dùng cho các thuốc làm Tá dược hoặc Sứ dược. Ví dụ Cam thảo bắc trong bài Ma hoàng thang.
Tương ố: việc sử dụng một loại thuốc này sẽ làm mất tác dụng của một số thuốc khác. Ví dụ Hoàng cầm dùng chung với Sinh khương.
Tương phản: sử dụng một số thuốc sẽ làm tăng độc tính một vị thuốc khác. Ví dụ ô đầu dùng chung với Bán hạ.
Tương ố và Tương phản thường để nói lên sự cấm kỵ trong khi kê đơn, trong đó Tương ố là chất đối kháng (antagonist).
4. Sự cấm kỵ trong khi dùng thuốc
4.1. Trong khi có thai cấm dùng
−Ba đậu (tả hạ).
−Khiên ngưu, Đại kích, Thương lục (trục thủy).
−Tam thất (hoạt huyết).
−Sa hương (phá khí).
−Nga truật, Thủy điệt, Manh trùng (phá huyết).
4.2. Trong khi có thai, thận trọng khi dùng −Đào nhân, Hồng hoa (hoạt huyết).
−Bán hạ, Đại hoàng (tả hạ).
−Chỉ thực (phá khí).
−Phụ tử, Can khương, Nhục quế (đại nhiệt).
4.3. Các vị thuốc tương phản với nhau
−Cam thảo bắc phản Cam toại, Nguyên hoa, Hải tảo.
−Ô đầu phản Bối mẫu, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm.
−Lê lô phản Sâm, Tế tân, Bạch thược.
4.4. Cấm kỵ trong khi uống thuốc
−Cam thảo bắc, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai kiêng thịt lợn.
−Bạc hà kiêng Ba ba.
−Phục linh kiêng dấm.
−Dùng các thuốc ôn trung trừ hàn kiêng đồ ăn sống lạnh.
−Dùng các thuốc kiện Tỳ tiêu đạo kiêng chất béo, tanh, nhờn.
−Dùng các thuốc an Thần định chí kiêng chất kích thích.

 Nguồn: Bệnh học và Điều trị Đông y
NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu