Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Hội chứng tiêu chảy

Tiêu chảy là hội chứng gặp ở nhiều bệnh khác nhau. Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng, số lần đi ngoài nhiều hơn so với bình thường hoặc có kèm theo chứng đau bụng, nôn mửa hoặc có sốt. Nguyên nhân thường là nhiễm phải khí lạ hoặc thấp nhiệt (tiêu chảy nhiễm khuẩn), ăn uống bị tích trệ (nhiễm độc) hoặc do tỳ vị hư, không tiêu hoá được thức ăn.



CÁC LOẠI TIÊU CHẢY THƯỜNG GẶP
Tiêu chảy do phong hàn (do lạnh)
Triệu chứng: Nóng, rét, nhức đầu, đau khắp người, bụng sôi, tiêu chảy, phân nhiều nước, lổn nhổn trắng hoặc xanh, rêu lưỡi trắng, mạch phù.
Điều trị: Phân tán, biểu cảm, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Hương phụ 20g, Búp ổi 20g, Búp sim 20g, Vỏ quýt 10g, Củ sả 10g, Gừng tươi 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chú ý: Theo dõi bệnh nhân thường xuyên, nếu mất nước nhiều phải kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do thấp nhiệt ( Tiêu chảy, nhiễm khuẩn: Thường xảy ra mùa hè, mùa thu
Triệu chứng: Đau bụng phải đi ỉa ngay, phân vàng, mùi khắp, hậu môn đỏ nóng, tiểu tiện ít, đỏ, khát nước, rêu lưỡi vàng.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Cát căn 20g, Rau má sao 10g, Mã đề sao 20g, Cam thảo dây 10g, sắc uống ngày 1 thang. Nếu bệnh nhân mất nhiều nước, cần kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do ăn uống
Triệu chứng: Đau bụng, đi ngoài xong đỡ đau, phân nặng mùi, không muốn ăn, rêu lưỡi nhợt.
Điều trị: Tiêu hoá thức ăn, chống ứ trệ.
Bài thuốc: Hương phụ 10g, Vỏ quýt 6g, Gừng khô 3 lát, Củ sả 6g, Khổ sâm 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Tiêu chảy do tỳ vị hư hàn (tiêu chảy mạn tính, kéo dài)
Triệu chứng: Sắc mặt nhợt nhạt, kém ăn, tinh thần mệt mỏi, có cảm giác đầy bụng, chướng bụng sau khi ăn, đại tiện phân lỏng, sống, chân tay lạnh, sợ lạnh, chất lưỡi bệu nhợt, rêu trắng mỏng, mạch trầm.
Điều trị: Ôn bổ tỳ vị, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Bố chính sâm 12g, Củ mài 12g, Trần bì 6g, Hương phụ 8g, Cam thảo dây 6g, Ý dĩ 12g, Gừng 6 lát. Sắc uống mỗi ngày một thang.

Đông y với các chứng đau ở tai, mũi

Theo Đông y, tai là khiếu (lỗ thông) của thận; kinh Túc thiếu dương Đởm và Thủ thiếu dương Tam tiêu đều gặp nhau ở tai trong, vì vậy các chứng đau ở tai có quan hệ mật thiết với các tạng kinh Thận, Đởm và Tam tiêu.



CÁC CHỨNG ĐAU Ở TAI
Sách Phùng Thị Cẩm Nang cho rằng “bệnh ở tai do 7 nhân tố gây nên là thực nhiệt, âm hư, đàm, hoả, thấp, khí bế và can phong; từ đó dẫn tới 5 chứng tai ù, tai đau, tai sưng, tai điếc, tai chảy mủ”. Nhìn chung, bệnh mới phần lớn thuộc thực chứng, bệnh lâu ngày thuộc hư chứng. Tuy nhiên, trên lâm sàng cần linh hoạt xử lý, không nên câu nệ.
Tai mọc mụn đau (Nhĩ trĩ, Nhĩ đĩnh)
Trong tai mọc ra một mụn nhỏ, hình như hạt anh đào, hư đầu vú dê, hoặc như mụn nấm, hạt táo, sờ vào đau, thậm chí đau buốt lên tận óc, hoặc thêm chảy máu, nên gọi là trĩ tai (nhĩ trĩ) hay nhĩ đỉnh. Theo Đông y, chứng này do nộ hoả kinh can, tướng hoả kinh thận, tích hoả kinh vị bốc lên, che lấp các khiếu bên trên, uất kết không tan và khí huyết ngưng tụ gây nên.
Trị liệu: Uống thang Sài hồ thanh can gia giảm: Sài hồ 5g, Hạ khô thảo 9g, Hoàng cầm 9g, Son chi tử 9g, Cúc hoa 9g, Sinh địa 12g, Xích thược 9g, Đơn bì 5g, Liên kiều 9g, Hà diệp (lá sen) 3g. Sắc uống.
Ngoài dùng Não sa tán: Não sa 3g, Khinh phấn 9g, Hùng hoàng 9g, Băng phiến 1,5g, tất cả tán bột, hoà nước, bôi lên chỗ đau.
Tai chảy mủ đau
Trong tai lở loét, chảy máu mủ, đau nhức, phần lớn do cảm thọ phong hoả thấp nhiệt, hoặc do móc ráy tai làm tổn thương ống tai gây viêm nhiễm.
Trị liệu: Trong uống Long đởm tả can thang gia giảm: Sài hồ 5g, Long đởm 5g, Ngân hoa 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 9g, Trạch tả 9g, Sơn chi tử 12g, Hoàng cầm 9g, Mộc thông 3g, Khổ đinh trà 5g, Lá sen 3g. Sắc uống.
Trị ngoài, dùng một trong các phương sau:
- Trần bì 3g, Băng phiến 0,5g, Đăng tâm thảo 3g (đốt lấy tro), tất cả tán bột thổi vào tai.
- Xà thoát (xác Rắn) thiêu lấy tro, thổi một ít vào tai trong.
- Hẹ tươi, giã vắt nước cốt nhỏ vào tai.
Các phương trên đều rất hiệu nghiệm.
Tai sưng bít đau
Do phong nhiệt ủng tắc bên trong; tai trong; sưng, làm bít kín không thông, đau từng cơn.
Trị liệu: Lấy 1 con ốc bươu lớn cho vào cối giã, sau cho vào 0,1g Xạ hương, chờ một lúc thành nước, lấy vài giọt nhỏ vào tai, hoặc lấy1 nhân hạt gấc (Mộc miết) mài nhỏ vào tai cũng hết đau.
Tai đau do móc ráy tai
Khi tai bít tắc do đầy ráy tai, hoặc khi cắt tóc lấy ráy tai có thể làm tổn thương bên trong, nhẹ không cần điều trị, nếu đau nhiều thì dùng thuốc trị ngoài như sau:
Mật Cá trắm (Thanh ngư) 1 cái, Hồng hoa 3g, Huyền sâm 6g, Sinh địa 6g, tất cả chưng lấy nước cốt nhỏ vào
Tai đau do côn trùng chui vào
Trị liệu: Dùng Hoa tiêu, tán bột, hoà giấm, hoặc Dầu mè hoà Đồng lục (sunfat Đồng), hoặc dầu Hạnh nhân nhỏ, côn trùng chui ra sẽ hết đau.

CÁC CHỨNG ĐAU Ở MŨI
Mũi là khiếu hô hấp hậu thiên, còn gọi là phế khiếu. Các kinh dương minh vị gặp nhau ở sống mũi, chạy hai bên mũi. Vì vậy, các bệnh đau mũi lấy 2 kinh phế vị làm chủ. Các chứng đau ở mũi do ngoại nhân chủ yếu là phong hàn, phong nhiệt xâm nhập, do nội nhân, thường gặp là thấp nhiệt tích hoả, bốc lên gây đau.
Mũi đau do mọc nhọt trên sống mũi (tỵ thư)
Trên sống mũi, nhọt mọc chìm sâu, bọc cứng, màu tím tía, luôn có cảm giác đau tê dại. Chứng này do uất hoả ngưng kết ở kinh phế mà thành.
Trị liệu: Bệnh mới phát nên dùng bài Thiên kim lậu lô thang để tuyên giải tà độc. Tiếp theo dùng bài Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia Chi tử, Mộc thông, Bạc hà, Kiết cánh để tiêu nhọt độc. Nếu sưng đau không giảm hoặc nhọt đã hoá mủ, dùng bài Thác lý thấu nùng thang điều trị.
- Thiên kim lậu lô thang: Lậu lô 10g, Chỉ xác (sao cám) 10g, Đại hoàng 12g, Sinh cam thảo 10g, Ma hoàng 6g, Hoàng cầm 10g, Bạch liễm 10g, Liên kiều 10g, Thăng ma 10g, Bạc hà 3g, Sinh khương 3g. Sắc, uống khi thuốc còn ấm.
- Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia vị: Xuyên sơn giáp (sao phồng) 6g, Tạo giác thích 1,5g, Đương quy vĩ 5g, Cam thảo tiết 3g, Kim ngân hoa 6g, Xích thược (sao) 1,5g, Nhũ hương 1,5g, Một dược 1,5g, Thiên hoa phấn 3g, Phòng phong 2g, Bối mẫu 3g, Bạch chỉ 3g, Trần bì 5g, Chi tử 3g, Mộc thông 3g, Bạc hà 3g, Kiết cánh 3g. Sắc thang thuốc này với rượu uống.
- Thác lý thấu nùng thang: Nhân sâm 3g, Bạch truật (sao đất) 3g, Xuyên sơn giáp (sao, tán bột) 3g, Bạch chỉ 3g, Thăng ma 1,5g, Cam thảo tiết 1,5g, Đương quy 6g, Tạo giác thích 5g, Sinh hoàng kỳ 9g, Thanh bì (sao) 1,5g. Sắc 3 chén lấy 1 chén, uống trước 1 ly rượu nhỏ rồi uống thuốc đang nóng vào.
Mũi đau do nhọt mọc trong lỗ mũi (tỵ đinh)
Nhọt đinh mọc trong lỗ mũi do phế kinh hoả độc ngưng kết mà thành. Biểu hiện lỗ mũi sưng tắc, đau nhức thấu vào trong óc, nghiêm trọng hơn thì môi má đều sưng, mạch đập thực đại (mạch sức đập mạnh, sóng mạch lớn).
Trị liệu: Gấp, dùng Thiềm tô hoàn, (thuốc thành phẩm có bán ở hiệu thuốc, thành phần gồm có : Thiềm tô, Khinh phấn, Đồng lục, Khô phàn, Đởm phàn, Hàn thuỷ thạch, Nhũ hương, Một dược, Xạ hương, Châu sa, Hùng hoàng, Oa ngưu, vừa uống trong, vừa dùng ngoài, nghiền bột thổi vào lỗ mũi. Bề ngoài mũi sưng cứng thì dùng Ly cung đĩnh tử xoa bôi lên (Ly cung đĩnh tử công thức gồm Huyết kiệt, Châu sa, Đởm phàn, Kinh mặc, Thiềm tô, Xạ hương, thành phần có bán sẵn ở hiệu thuốc).
Lưu ý: Chứng này sơ phát nên trị thật nhanh, để lâu, độc khí công vào trong dẫn đến thần thái hôn mê, nôn oẹ, hậu quả khó lường.
Mũi đau do mụt lở (tỵ sang)
Do nhiệt tà ở kinh Phế công lên lỗ mũi, tụ lại, không tán mà sinh nên. Biểu hiện ban đầu: Cảm giác mũi khô táo, đau rát, kế đo sinh mụn như hạt gạo, nặng thì ngoài mũi sưng đỏ lên.
Trị liệu: Hoàng cầm thang: Hoàng cầm (sao rượu) 6g, Sinh cam thảo 1,5g, Mạch môn (bỏ lõi) 3g, Tang bạch bì 3g, Chi tử (sao rượu) 5g, Liên kiều 3g, Xích thược 3g, Kiết cánh 3g, Bạc hà 3g, Kinh giới tuệ 3g. Sắc uống sau khi ăn.
4. Mũi sưng đau nhức
Mũi từ từ sưng lên, do hoả tà ở phế thịnh gây nên. Trị liệu dùng phương Giải uất thang: Kiết cánh 10g, Mạch môn 15g, Hoàng cầm 12g, Thiên môn 12g, Cam thảo 6g, Thiên hoa phấn 12g, Tử uyển 10g, Tử tô 6g, Bách bộ 12g. Sắc uống.
(Trích dịch từ Phương đáo thống trừ NXB Cổ tịch Trung y – Bắc kinh, 1997).

áp-xe tuyến vú

Sưng tuyến vú là bệnh thường gặp ở các sản phụ thời kỳ đang cho con bú, nhất là khi nhũ nhi mới chừng 1-2 tháng tuổi.

Tuyến vú bị tắc nghẽn, sữa ứ đọng cộng thêm điều kiện vệ sinh thiếu sạch sẽ hoặc do trẻ bú làm tổn thương đầu vú dẫn đến viêm tuyến vú. Bệnh tiến triển nhanh kèm theo phát nóng, phát sốt, bầu vú sưng to, sờ nắn thấy có cục kết rắn, sưng, nóng, đỏ, đau và sau có thể mưng mủ. Y học hiện đại gọi là bệnh áp-xe (abcèse) tuyến vú. Đông y gọi là chứng “nhũ ung” hay “nhũ nham” nguyên nhân do can khí uất kết, vị khí ủng trệ, nhiệt độc tích đọng lại hoặc do cảm nhiễm ngoại tà mà sinh ra.

Trường hợp bị chứng tắc sữa gây nên nhọt vú dùng một trong các bài thuốc sau kết hợp với xoa bóp nhẹ nhàng nơi bầu vú, nặn sữa ra cho chóng thông.

- Bối mẫu sao vàng tán thành bột, uống mỗi lần 4g, ngày 3 lần hòa với nước sôi.

- Dùng bồ hoàng cả cây, cả lá giã nát đắp lên vú kết hợp sắc lấy nước mà uống sẽ khỏi.

Trường hợp nhọt vú mới phát:

- Trích cam thảo 12g sắc đặc uống, kết hợp với hút sữa nơi núm vú bị đau vài lần sẽ khỏi.

- Bồ công anh 40g, dây kim ngân 80g, bỏ vào ấm đất đun lấy một bát nước thật đặc, rồi uống.

- Bồ công anh, thiên hoa phấn, liên kiều, bối mẫu, bốn vị đồng lượng 4g, thanh bì 6g, sắc uống.

Khi nhọt mọc ở vú sưng đau, có thể dùng thuốc bôi trực tiếp vào đầu vú:

- Đan sâm 80g, thược dược 80g, tán thành bột rồi ngâm dấm một đêm, dùng 200g mỡ lợn đổ thuốc vào nấu thành cao, lọc bỏ bã. Dùng cao thuốc này bôi vào vú ngày 2-3 lần.

- Chi ma (hạt vừng) sao đen, nghiền nhỏ trộn với dầu hoả thành bột nhão, bôi vào vú.

- Xạ can, huyền thảo bằng lượng tán thành bột hoà thêm một ít mật, bôi vào chỗ đau.

- Hoàng liên 10g, binh lang (hạt cau) 10g, hai thứ đem tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, bôi vào nơi vú sưng đau, ngày 2-3 lần, liên tục vài ngày.

Trường hợp mưng mủ lâu không khỏi:

Toàn qua lâu (vỏ và hạt quả) 30g, thiên hoa phấn, hoàng cầm, liên kiều, thanh bì, tạo giác thích, ngưu bàng tử, sài hồ, chi tử, trần bì mỗi thứ 9g, kim ngân hoa 30g, bồ công anh 25g, xích thược 10g, sinh cam thảo 5g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần.

Để phòng bệnh, sản phụ phải luôn chú ý giữ gìn bầu vú sạch sẽ, cần lau, rửa vệ sinh trước và sau khi cho con bú, loại bỏ phần sữa thừa khi trẻ bú không hết, tránh ứ đọng lại. Bên cạnh việc quan tâm tới ăn uống, chế độ dinh dưỡng hằng ngày phải luôn tạo sự thoải mái trong sinh hoạt, cuộc sống. Nơi ăn ở phải thoáng mát, tránh ẩm ướt, nóng bức về mùa hè hoặc thiếu ấm áp về mùa đông.
Theo SKDS

Ứng dụng thuyết âm dương ngũ hành trong chẩn đoán và điều trị bệnh

Âm dương ngũ hành là học thuyết vừa để lý giải vừa để ứng dụng các hiện tượng trong thiên nhiên và đời sống con người. Bài viết này xin được giới thiệu việc ứng dụng thuyết Âm dương ngũ hành của Danh y Hải Thượng Lãn Ông trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh.



Thiên thiên và hậu thiên
Căn cứ vị trí bát quái trong Hậu thiên đồ (hình H1), Danh y Hải Thượng Lãn Ông xây dựng nên thuyết “Tâm thận” (ứng với hai quái Ly – Khảm) và phương pháp dùng hai bài Lục vị và Bát vị để bổ Thuỷ, Hoả làm gốc.
Trong Y học cổ thì danh từ “Tiên thiên” là khí huyết của cha mẹ khi con người mới được thụ thai chưa hình thành, còn danh từ “Hậu thiên” là khi con người đã hình thành được nuôi dưỡng. Vì vậy khi nói đứa trẻ “Tiên thiên bất túc” là nói đứa bé khi sinh ra ốm yếu do khí huyết của cha mẹ không đủ. Còn nói “Hậu thiên bất túc” nghĩa là đứa trẻ ốm yếu do nuôi dưỡng không tốt.
Bát quái và ngũ tạng
Hải Thượng Lãn Ông viết: “Người bắt đầu thụ thai ở mạch nhâm, ở đốt sống thứ 7. Thai ở giữa rỗng có một mầm như nhị sen thẳng, mầm ấy là cuống rốn. Nhị sen là hai thận, ở giữa hai thận là mệnh môn. Mệnh môn là cửa của sinh mệnh, là một hào dương thuộc về Hoả, đóng ở giữa hai hào âm thuộc về Thuỷ.
Mệnh môn Hoả (Một hào Dương đóng giữa hai hào Âm).

Thuỷ sinh ra Mộc mới thành Can. Mộc sinh Hoả mới thành Tâm, Hoả sinh Thổ mới thành Tỳ, Thổ sinh Kim mới thành Phế. Năm tạng Thận, Can, Tâm, Tỳ, Phế hình thành rồi tiếp theo là Lục phủ. Thận là gốc của Phủ tạng, là căn bản của 12 kinh lạc, chủ chốt của sự thu nạp khí, nguồn của Tam tiên, thân người từ đó mà hình thành.
Dựa vào sự sinh, khắc, hợp, hình của Ngũ hành, Hải Thượng Lãn Ông đã xây dựng lý thuyết điều trị chủ về Thuỷ, Hoả nổi tiếng theo Dịch lý “Hậu Thiên đồ” trong đó hai quái Ly – Khảm ở trục Nam - Bắc. Ly ứng với tạng Tâm chủ Hoả, Khảm ứng với tạng Thận chủ về Thuỷ. Hải Thượng viết: “Tạng Tâm thuộc về Ly, có một hào âm ở giữa hai hào dương.
Trong Tâm có máu đỏ tức là chân Âm, còn tạng Thận thuộc quẻ Khảm có hào dương ở giữa hai hào âm. Trong tạng Thận chứa màng trắng tức là chân Dương vậy. Theo Kinh dịch thì Thuỷ phải bốc hơi lên, Hoả phải chiếu xuống thì mới trôi chảy (Đây là quẻ Ký tế (có hình), Khảm trên, Ly dưới). Theo Hải Thượng Lãn Ông thì hai quả thận cũng là một “Đồ thái cực”. Giữa “Đồ thái cực” có một điểm gọi là Mệnh môn (giữa hai quả thận). Mệnh môn này là Hoả nhưng Hoả vô hình khác Hoả ở tâm (quẻ Ly) là Hoả hữu hình.
Tiên thiên đồ và Hậu thiên đồ
Trong “Tiên thiên đồ” của Kinh dịch, vị trí phương Nam chủ Hoả vốn là vị trí Hoả của quẻ Kiều là quẻ thuần Dương vì vậy trong “Hậu thiên đồ” quẻ Ly thay thế vị trí quẻ Kiều, Hoả Hậu thiên bắt nguồn từ Hoả Tiên thiên.
Hải Thượng phân biệt “Hoả Hậu thiên” với “Hoả tiên thiên” như sau: “Người sinh ra ở Hộ Dần mà Dần là mẹ đẻ của Hoả (Mộc sinh Hoả), Hỏa là gốc để sinh ra mệnh”. Từ đó ông đi đến áp dụng vào điều trị bằng hai bài thuốc “Bổ Thuỷ Hoả” tức là Lục vị và Bát vị rồi gia giảm để chữa nhiều căn bệnh khác nhau.
Chú giải
Vòng trong là Tiên thiên bát quái
Vòng ngoài là Hậu thiên bát quái
Như vậy cùng trục Nam – Bắc, nếu sử dụng Tiên thiên bát quái thì nó là Càn – Khôn còn dùng Hậu thiên bát quái nó là Ly Khảm. Bản chất của Nam là Hoả và Bắc là Thuỷ do vậy nói Hoả Hậu thiên bắt nguồn từ Hoả tiên thiên là chính xác.

Thống kinh

Thống kinh hay đau bụng kinh là bệnh lý phụ khoa rất thường gặp. Có thể đau trước, trong và sau hành kinh. Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y trị chứng bệnh này theo từng thể lâm sàng trước và trong khi có kinh.

Thống kinh hay đau bụng kinh là bệnh lý phụ khoa rất thường gặp. Có thể đau trước, trong và sau hành kinh. Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y trị chứng bệnh này theo từng thể lâm sàng trước và trong khi có kinh.

Đau trước khi hành kinh:
Có 2 thể: thể huyết nhiệt và thể huyết ứ.
Thể huyết nhiệt: Trước lúc hành kinh, người bệnh đau bụng, đau lan ra hai bên bụng dưới, kinh nguyệt trước kỳ, lượng kinh nhiều, sắc kinh đỏ tím, đặc không có mùi hôi, môi đỏ, miệng đỏ, khô, tâm phiền, ít ngủ, táo bón, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ rêu vàng. Mạch hoạt sác, huyền sác. Dùng bài thuốc: Sinh địa 16g, huyền sâm 16g, địa cốt bì 12g, đào nhân 8g, ích mẫu 20g, uất kim 12g, hương phụ 8g, thanh bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể huyết ứ: Đau trước hoặc mới hành kinh, bụng dưới đau, kinh ít, máu tím đen, ra huyết cục, khi kinh ra thì đỡ đau. Nếu có ứ huyết nhiều thì sắc mặt tím, da khô, miệng khô không muốn uống nước, lưỡi đỏ có điểm tím, rêu lưỡi bình thường. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Cao ích mẫu mỗi ngày uống 20-30g.

Bài 2: Ích mẫu 16g, đào nhân 8g, uất kim 8g, xuyên khung 8g, ngưu tất 8g, hương phụ 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Đau khi hành kinh:

Có 2 thể: thể khí trệ và thể hàn thực.

Thể khí trệ: Bụng dưới trướng đau, kinh nguyệt ít, lúc trướng căng thì ngực sườn đầy tức lợm giọng, rêu lưỡi mỏng.Mạch huyền. Dùng một trong các bài:

Bài 1:
 Hương phụ 8g, ô dược 8g, sa nhân 8g, thanh bì 6g, ích mẫu 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2:
 Ô dược 8g, sa nhân 8g, hương phụ 8g, huyền hồ 8g, mộc hương 6g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể hàn thực:
 Đang hành kinh bị lạnh, cảm mạo phong hàn gây đau bụng kinh. Biểu hiện: nhức đầu, sợ lạnh, mỏi lưng, đau hạ vị, lạnh, chườm nóng thì đỡ đau, lượng kinh  ít, màu đỏ sẫm có cục. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Quế chi, bạch chỉ càn cương, bán hạ chế, uất kim đều 8g, đan sâm 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: Đương quy, đan bì, bán hạ chế mạch môn, ngô thù đều 8g, phục linh, tế tân, phòng phong, cao bản, càn cương mộc hương, cam thảo đều 4g, ô dược 8g, thương truật 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Theo SKDS

viêm khớp dạng thấp

Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nắng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, khí hậu luôn thay đổi nên số người mắc các bệnh về khớp rất nhiều. Triệu chứng chung là sưng nóng đỏ đau các khớp, mưa lạnh, ẩm thấp thì đau tăng hoặc tái phát, trở thành bệnh mạn tính.



Nguyên nhân bên ngoài theo Đông y là do phong hàn thử thấp xâm nhập cơ thể làm kinh lạc trở trệ, khí huyết mất thông sướng, cân cơ co cứng… Nguyên nhân bên trong là do can thận và khí huyết hư suy, khả năng phòng vệ của cơ thể yếu, từ đó gây ra bệnh.

Theo Đông y, viêm khớp dạng thấp có 2 thể cấp tính và mạn tính. Sau đây là một số bài thuốc Nam điều trị theo từng thể bệnh.

Viêm khớp cấp tính:

Các khớp sưng đau, người sốt, toàn thân mệt mỏi, nhiều khi kèm theo viêm họng, đau họng. Khớp sưng đau tăng lên khi bị lạnh và ẩm ướt. Phép trị: khu phong tán hàn, chống viêm, chỉ thống. Dùng một trong các bài:

Bài 1: rễ bưởi bung 16g, thổ phục linh 20g, cà gai leo 12g, nam tục đoạn 20g, hà thủ ô 16g, xương bồ 16g, quế 8g, thiên niên kiện 10g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Bài 2: xuyên khung 10g, cỏ xước 10g, tất bát 12g, kê huyết đằng 20g, ngải diệp 16g, tang ký sinh 16g, quế 8g, thiên niên kiện 10g, ngũ gia bì 16g, cẩu tích 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Bài 3: nam tục đoạn, ngũ gia bì, ngải diệp, trinh nữ, cối xay, đơn hoa, kê huyết đằng, xa tiền thảo mỗi vị 24g. Ngày dùng 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Viêm khớp mạn tính:

Đau nhức các khớp, ổ khớp không sưng, người không sốt, hạn chế vận động, đau tăng lên khi thời tiết thay đổi, có biểu hiện cứng khớp, thường gặp ở người cao tuổi. Phép trị: trừ phong, lợi thấp kết hợp với bổ can thận và dưỡng huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1: đương quy 12g, bạch thược 12g, kê huyết đằng 20g, trinh nữ 20g, bưởi bung 20g, hy thiêm 20g, đinh lăng 20g, nam tục đoạn 20g, quế 8g, thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. 15 - 17 ngày là một liệu trình.

Bài 2: thổ phục linh 20g, trinh nữ 20g, xương bồ 16g, ngải diệp 16g, kinh giới 16g, hà thủ ô chế 16g, kê huyết đằng 20g, tất bát 12g, đương quy 12g, chích thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

- Nếu đau nhiều không ngủ được, gia: hắc táo nhân 16g, viễn chí 12g, lạc tiên 20g.

- Thường bị lạnh bụng, rối loạn tiêu hóa, gia: bạch truật 16g, sơn thù 10g, lương khương 12g.

- Ăn uống kém, cơ thể suy nhược, gia: đại táo 5 quả, hoàng kỳ 16g, sinh khương 6g, nhân sâm 10g.

- Ho hen, khó thở, mắc đờm, gia: tía tô 12g, cát cánh 12g, bán hạ 10g, hậu phác 10g.

Kết hợp uống thuốc sắc với các thuốc xoa bóp ngoài như: quế 20g, thiên niên kiện 20g, hoa hồi 20g, bạch chỉ 24g, xuyên khung 20g, xương bồ 30g, cao lương khương 20g, gừng khô 20g, trần bì 20g, tô mộc 20g. Các vị thái nhỏ, bỏ vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm. Sau 10 ngày là dùng được. Dùng  bông tẩm thuốc xoa vào những nơi bị sưng đau.
Theo SKDS

Điều trị các chứng đâu ở đầu mặt bằng thuốc đông y

Đầu ở vị trí cao nhất trong thân người. Khí thanh dương của tạng phủ dâng lên đầu, ba kinh dương ở tay và ba kinh dương ở chân đều gặp nhau trên đầu, mạch Đốc – tổng quản phần dương thân thể cũng đi đến đỉnh đầu. Vì vậy mà Đông y cho rằng đầu là nơi hội tụ của các phần dương.

Đầu ở vị trí cao nhất trong thân người. Khí thanh dương của tạng phủ dâng lên đầu, ba kinh dương ở tay và ba kinh dương ở chân đều gặp nhau trên đầu, mạch Đốc – tổng quản phần dương thân thể cũng đi đến đỉnh đầu. Vì vậy mà Đông y cho rằng đầu là nơi hội tụ của các phần dương.

Do đầu ở vị trí cao và thuộc dương , trong các nguyên nhân gây bệnh trong–ngoài (nội nhân, ngoại nhân) có phong tà và hoả khí  rất dễ gây ra các bệnh ở bộ phận đầu, bởi vì tính của hoả bốc lên và trên đỉnh đầu chỉ có phong tà  mới có thể đến được. Lại do nội tạng suy yếu, thanh khí không thăng, hoặc gió lạnh xâm nhập, dương khí uất trệ đều làm xuất hiện chứng đau đầu do hư hàn.  Ngoài ra, não là bể tuỷ (não vi tuỷ hải), nếu không đầy đủ thì ảnh hưởng đến tinh lực toàn thân. Sắc diện bộ mặt cũng phản ánh được tình hình biến hoá của bệnh tật trong cơ thể.  Vì vậy, Chương này bao quát các chứng đau đầu do các nguyên nhân phong hàn, phong nhiệt, phong thấp, can dương, thận hư, huyết hư, đàm trọc, huyết ứ dẫn đến, ngoài ra còn có các chứng đau sưng đầu mặt, đau nửa đầu, đau gờ chân mày, sưng quai bị, đau đỉnh đầu (cả thẩy 13 chứng).  Trên lâm sàng cần nắm rõ các chủ chứng , phân biệt rõ nguyên nhân trong–ngoài mới tiến hành trị liệu.
Theo Tây y, chứng đau đầu có thể xuất hiện trong các bệnh chủ như cao huyết áp, viêm xoang mũi, thần kinh chức năng, di chứng chấn động não…đều có thể tham khảo điều trị.

1.ĐAU ĐẦU DO PHONG HÀN.
Phong hàn thâm nhập thể biểu (bề ngoài) khiến dương khí bảo vệ mặt ngoài bị ngăn cách, kinh mạch trở ngại, khí thanh dương không thăng lên, khí huyết ngưng trệ mà phát sinh đau đầu. Điều trị dùng phép sơ phong tán hàn.
Chủ chứng: Đau đầu phát tác liên tục, đau lan ra cổ gáy, sợ gió, sợ lạnh. Gặp gió đau tăng, thích trùm kín đầu, miệng không khát, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù hoặc Phù– Khẩn.
Trị liệu: Xuyên khung trà điều tán gia giảm: Xuyên khung 10g, Khương hoạt 5g, Kinh giới 6 g, Phòng phong 6g, Bạch chỉ 6g, Tế tân 3g, Mạn kinh tử 10g, Cam thảo 6g.  Sắc lấy nước uống.

2. ĐAU ĐẦU DO PHONG NHIỆT.
Phong nhiệt bên ngoài xâm nhập vào, da thịt không được thư thái thoải mái, tính của hoả ưa bốc lên, khuấy động các khiếu ở trên, khí huyết nghịch loạn mà dẫn đến đau đầu.  Điều trị dùng phép sơ phong thanh nhiệt.
Chủ chứng: Đầu đau trướng căng, thậm chí như búa bổ, phát sốt, sợ gió, mặt hồng, mắt đỏ, miệng khát muốn uống nước, táo bón, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Phù -Sác.
Trị liệu: Khung chỉ thạch cao thang gia giảm: Sinh thạch cao 30g, Cúc hoa 9g, Xuyên khung 9g, Bạc hà 6g, Mạnh kinh tử 10g.  Sắc uống.
Nếu đại tiện bí kết, miệng mũi sinh lở loét do khí các tạng phủ không thông, cần thông phủ tiết nhiệt bằng các thuốc đắng lạnh giáng hoả, nên gia thêm Đại hoàng 10g, Hoàng liên 10g và bài thuốc trên.

3. ĐAU ĐẦU DO PHONG THẤP.
Phong thấp từ ngoài xâm nhập vào làm dương khí bị ngăn trở, che phủ các khiếu ở trên, khí thanh dương không thăng lên được gây nên chứng đau đầu. Điều trị dùng phép khu phong thắng thấp.
Chủ chứng: Đau đầu như bưng, tay chân mình mẩy nặng nề khó chịu, ngây ngây bức rức trong ngực, tiểu tiện không thông, đại tiện nhão nhoẹt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu.
Trị liệu: Khương hoạt thắng thấp thang gia giảm: Khương hoạt 10g, Độc hoạt 6g, Xuyên khung 10g, Mạn kinh tử 10g, Phòng phong 10g, Cảo bản 6g, Bạch chỉ 6g, Tế tân 3g, Sắc uống.

4. ĐAU ĐẦU DO CAN DƯƠNG.
Do tình chí bất hoà, can mất khả năng điều đạt, can khí uất kết, khí uất hoá hoả, lâu ngày hao tổn tân dịch, can âm bất túc, can mất tính nhu nhuận ẩm thấm; hoặc do phòng lao thương tinh, thận thuỷ bất túc,thuỷ không hàm dưỡng được mộc, khiến cho can thận âm khuy tổn, cả hai trường hợp trên đều dẫn tới can dương thượng cang (mạnh vượt lên).  Đông y cho rằng can tạng thuộc phong mộc, tính hoả bốc lên, phong hoả gặp nhau thì bùng cháy, quấy nhiễu các cơ quan bên trên gây nên đau đầu thể can dương.  Điều trị nên bình can tiềm dương.
Chủ chứng: Đau đầu hoa mắt, đau xiết kéo dài, đau thiên về hai bên hoặc đau xiên lên đỉnh đầu, hay buồn bực dễ cáu giận, ngủ không an giấc, mặt hồng, mắt đỏ, miệng đắng, có khi đau cả hông sườn, lưỡi hồng, rêu vàng mỏng, mạch Huyền hoặc Huyền Sác.
Trị liệu: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm: Thiên ma 10g, Câu đằng 12g, Sinh thạch quyết minh 15g, Sinh long cốt 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Sơn chi 10g, Long đởm thảo 12g, Cúc hoa 10g, Đỗ trọng 12g, Hoài ngưu tất 12g, Phục thần 10g, Sắc uống.

5. ĐAU ĐẦU DO THẬN HƯ.
Do bẩm sinh bất túc, phòng lao quá độ khiến thận tinh khuyết tổn,.  Thận chủ cốt sinh tuỷ, tuỷ thông lên não, não là bể của tuỷ. Thận tinh giảm thiểu lâu ngày thì bể tuỷ rỗng không sinh đau đầu. Nếu thận âm khuy tổn lâu kéo theo thận dương suy thì khí thanh dương không khai triển lên trên mà phát chứng đau đầu. Điều trị nên bổ thận điền tinh.
Chủ chứng: Đầu khi đau khi không, khi đau kiêm hoa mắt chóng mặt, lưng gối đau ê bủn rủn, đàn ông di tinh, đàn bà đới hạ, ù tai, ít ngủ, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm-tế vô lực.
Trị liệu: Đại bổ nguyên tiễn gia giảm: Thục địa 16g, Sơn thù nhục 10g, Sơn dược 10g, Câu kỷ tử 10g, Đỗ trọng 10g, Đương quy 10g, Nữ trinh tử 12g, Thỏ ty tử 6g, Cúc hoa 6g, Mạn kinh tử 6g.  Sắc uống.

6. ĐAU ĐẦU DO HUYẾT HƯ:
Do ăn uống không điều độ, làm lụng quá sức, hoặc sau khi bệnh khỏi, sau khi sinh tỳ vị hư nhược, sinh hoá không đầy đủ, khí huyết suy tổn, hoặc do các chứng mất máu quá nhiều; khí hư thì khí thanh dương không đi lên, huyết hư thì não bộ không được nuôi dưỡng tốt, từ đó phát sinh đau đầu. Điều trị nên dùng thuốc bổ huyết.
Chủ chứng: Đau đầu hoa mắt, sắc mặt xanh sao kém  tươi tỉnh, hồi hộp trống ngực, mỏi mệt yếu sức, chất lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế-nhược.
Trị liệu: Tứ vật thang gia giảm: Sinh địa 10g, Đương quy 10g, Xuyên khung 10g, Mạn kinh tử 10g, Cúc hoa 6g, Tang thầm tử 12g, Hà thủ ô 10g, A giao 10g, Sắc uống.

7. ĐAU ĐẦU DO ĐÀM TRỌC.

Tỳ mất kiện vận, đàm trọc trở trệ, khí thanh dương không thăng lên, các khiếu ở trên bị chướng ngại gây đau đầu do đàm trọc. Điều trị dùng thuốc hoá đàm giáng nghịch, kiện tỳ hoà vị.
Chủ chứng: Đau đầu tối tăm mặt mũi, vùng ngực-chấn thuỷ đầy tức khó chịu, nôn oẹ đàm dãi, rêu lưỡi nhớt, mạch Hoạt hoặc Huyền-Hoạt.
Trị liệu: Bán hạ Bạch truât  thiên ma thang gia giảm: Bán hạ 10g, Bạch truật 15g, Thiên ma 10g, Phục linh 12g, Trần bì 6g, Mạn kinh tử 12g, Bạch tật lê 10g. Sắc uống.

8. ĐAU ĐẦU DO Ứ HUYẾT.

Đau đầu do ứ huyết phần lớn phát sinh sau chấn thương bên ngoài sọ não hoặc phụ nữ kinh hành không thông, bệnh lâu ngày nhập vào kinh lạc dẫn đến khí trệ huyết ứ, huyết ứ trở ngại mạch lạc lên não, không thông nên đau.(bất thông tắc thống). Điều trị dùng thuốc hoạt huyết hoá ứ.
Chủ chứng: Đau đầu lâu ngày không hết, có diểm đau cố định, đau như dùi đâm hoặc tiền sử có chấn thương bên ngoài đầu, lưỡi có chấm điểm ứ huyết, mạch Tế hoặc Tế -Sáp.
Trị liệu: Thông khiếu hoạt huyết thang gia giảm: Đào nhân 9g, Hồng hoa 9g, Xích thược 6g, Xuyên khung 6g, Hành 3 củ, Đương quy vĩ 10g, Sâm tam thất 6g.  Sắc uống.

9. ĐAU SƯNG ĐẦU MẶT (LÔI ĐẦU PHONG)

Đầu mặt sưng đau, bệnh phát rất nhanh, phần lớn do phong nhiệt bên ngoài công kích, đàm hoả bên trong uất lại mà phát bệnh.  Bệnh này còn có tên gọi là “Lôi đầu phong”.  điều trị nên dùng thuốc thanh nhiệt giải độc, trừ thấp hoá đàm.
Chủ chứng: Đầu mặt đau sưng nổi cục, sốt cao, sợ lạnh, phát bệnh rất nhanh, đầu đau nghe như sấm rền.
Trị liệu: Thanh chấn thang. Thiên ma 15g, Thương truật 15g, Lá sen 1 lá nguyên.  Sắc uống.

10. ĐAU NỬA ĐẦU (THIÊN DẦU THỐNG, THIÊN ĐẦU PHONG).

Chứng này đau dữ đội, bệnh thế kịch liệt, hoặc đau bên trái hoặc đau bên phải, hoặc đau liên hố mắt, hàm răng, đau dứt trở lại như người bình thường.  Chứng này đa phần do đàm hoả gây nên.  Điều trị cần phân biệt đau nửa đầu bên trái hay bên phải.
Trị liệu:
- Phương thuốc trị đau nửa đầu bên phải: Bán hạ 9g, Trần bì 9g, Phục linh 10g, Cam thảo 6g, Sa sâm 10g, Hoàng cầm 10g, Hoàng liên 9g, Xuyên khung 9g, Phòng phong 10g, Đởm tinh 6g. Sắc uống.
- Phương thuốc trị đau nửa đầu bên trái: Bán hạ 9g, Trần bì 9g, Phục linh 10g, Cam thảo 6g, Đương quy 9g, Bạch thược 12g, Xuyên khung 10g, Sài hồ 15g, Bạch chỉ 15g. Sắc uống.

11.ĐAU CẠNH CHÂN MÀY (MI LĂNG CỐT THỐNG).
Chứng này thường đi kèm  trong các chứng đau đầu kinh dương minh hoặc kinh thiếu dương, nếu đơn độc xuất hiện phần lớn là do phong nhiệt bó thúc ở ngoài, khi đau không thể mở mắt ra được.
Trị liệu: Tuyến kỳ phương: Phòng phong 12g, Khương hoạt 10g, Hoàng cầm 12g, Cam thảo 10g. Sắc uống.

12. ĐAU ĐỈNH ĐẦU.
Đau tại đỉnh đầu, ngay huỵệt Bách hội, do tướng hoả vượng, theo Đốc mạch vượt lên.  Điều trị không nên phạt hoả, chỉ nên tư âm tiềm dương.  Đồng thời châm các huyệt Bách hội, Thông thiên, Côn lôn, Chí âm, Thái xung
Trị liệu: Tam tài lang gia vị: Thiên môn 9g, Thục địa 12g, Nhân sâm 9g, Mẫu lệ 15g, Quy bản 15g.  Sắc uống.

Biên dịch từ Phương đáo thống trừ  
NXB Cổ tịch Trung y, Bắc kinh 1997.