Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Đây là bệnh chứng thường gặp ở những người từ lứa tuổi trung niên hay người già. Bệnh xảy ra thường không có dấu hiệu báo trước.


Dấu hiệu thường xuất hiện vào buổi sáng sớm sau khi tỉnh dậy, người bệnh đột ngột choáng váng mọi vật chao đảo, kèm theo rối loạn thần kinh thực vật làm cho toàn thân vã mồ hôi hoặc có thể da mặt bị tím tái, tim đập nhanh, buồn nôn hay nôn mửa liên tục...

Theo Đông y thường thấy biểu hiện bởi hai thể loại đó là "thực chứng" và "hư chứng".

Đối với thực chứng:
Đột nhiên ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, nhà cửa cảm thấy như đảo lộn, nghiêng ngửa buộc người bệnh phải luôn nhắm nghiền mắt và nằm xuống không sẽ bị ngã. Đây là trường hợp theo Đông y là do can hỏa hóa phong rồi bốc lên mà sinh bệnh là chủ yếu. Cũng có thể do đờm thấp đình trệ, mà làm khí thanh dương không đưa lên được khiến phát ra bệnh.Trong trường hợp thực chứng này người ta sử dụng phương "Thiên ma câu đằng ẩm" trích trong Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa.

Phương gồm các vị: Câu đằng 12g, ích mẫu 12g, ngưu tất 12g, phục thần 12g, sơn chi 12g, tang ký sinh 12g, dạ giao đằng 10g, đỗ trọng 10g, hoàng cầm 10g, thạch quyết minh sống 20g, thiên ma 8g, hà thủ ô trắng 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần trong ngày. Uống 3 - 5 thang liền.

Phương "Nhị căn thang" (Phúc kiến Trung y dược). Tác dụng hoạt huyết hóa ứ, lợi thấp, khử đờm, trị rối loạn tiền đình, gồm: Cát căn 20g, hải đới căn 30g, xuyên khung 12g, bán hạ 10g, thạch xương bồ 16g, đại giả thạch 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 3 - 6 thang liền.

Đối với hư chứng:

Triệu chứng cũng xảy ra đột ngột bị ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, cơn chóng mặt cũng có thể xảy ra trong chốc lát hay mấy tiếng đồng hồ hoặc vài ngày. Đây là bệnh chứng xảy ra chủ yếu do can, thận, tâm, tỳ suy, thận kém nên không nuôi dưỡng được can huyết mà làm cho can dương vượng lên khiến phát sinh bệnh.

Với bệnh chứng này người ta thường sử dụng phương "Kỷ cúc địa hoàng hoàn" trích trong Y cấp. Gồm các vị: Bạch cúc hoa 120g, câu kỷ tử 120g, đơn bì 120g, phục linh 120g, trạch tả 120g, sơn dược 160g, sơn thù 160g, thục địa 320g. Tất cả tán bột làm hoàn. Ngày uống 8 - 16g, chiêu với nước muối nhạt.

Định huyễn thang (trích trong Trung Quốc Trung y bí phương đại hoàn). Tác dụng hóa đờm tức phong, kiện tỳ khử thấp, trị rối loạn tiền đình, gồm: Bạch tật lê 20g, trạch tả 20g, thiên ma 16g, bán hạ 16g, đạm trúc diệp 12g, phục thần 12g, cát nhân 12g, long cốt 30g (sắc trước). Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 5 - 10 thang liền. Rất hiệu nghiệm.

Chỉ huyễn trừ vựng thang (trong Trung Quốc Trung y bí phương đại toàn). Tác dụng hóa đờm, lợi thấp, khử ứ, trị rối loạn tiền đình, gồm bán hạ 12g, ngưu tất 12g, sinh khương 12g, xa tiền tử 30g, trạch lan 16g, quế chi 16g, bạch truật 20g, hổ phách 6g, đan sâm 24g, phục linh 24g, mẫu lệ 40g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 5 - 7 thang liền sẽ hiệu nghiệm.

Theo SKDS

Sốt xuất huyết - chẩn đoán và phép trị


Theo Tây y, nguyên nhân gây nên bệnh sốt xuất huyết là do vi rút Đengue lây truyền, do Muỗi vằn có tên AĐex. Theo Đông y  là do ôn bệnh dịch lê nhiệt độc tác động vào doanh vệ khí huyết, tạng phủ, triệu chứng lâm sàng.



Giai đoạn đầu: Ứng vào doanh vệ khí huyết tương đương với độ 1 độ 2 theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới:
Sốt cao liên tục 39 – 40o, đau đầu dữ dội, sốt nóng, có khi rét đau mỏi khắp thân thể, có khi nôn. Mạch hồng đại hoặc hoạt. Mặt đỏ, toàn thân đỏ, ngày thứ 3 trở đi thường xuất hiện các ban đỏ ở lưng, bụng hoặc các chấm xuất huyết dưới da, đặc biệt là nhìn mắt thấy xung huyết đỏ.
Giai đoạn 2 sau 5 – 7 ngày, sốt thường không cao, có khi tụt nhiệt độ, người mệt li bì, trên người lấm tấm mồ hôi dính; có biểu hiện xuất huyết chân răng, máu mũi; nặng thì nôn ra máu, đại tiểu tiện ra máu, phụ nữ hành kinh ra nhiều. Mạch nhược hoặc vi tế tương đương với độ 3 – 4 của tổ chức Y tế thế giới.
Chẩn đoán phân biệt.
Bệnh thường xẩy ra vào mùa hè hoặc mùa thu cho nên những bệnh sốt vi rút cúm, sốt thương hàn, sốt rét, sốt nhiễm trùng, nhiễm độc thường làm ta dễ nhầm. Sốt vi rút cũng có mạch hồng đai nhưng có biểu hiện xưng họng, ho sổ mũi; sốt rét cũng mạch đai nhưng nóng từng cơn; sốt nhiễm trùng có viêm tấy người lơ mạch tê sác; sốt thương hàn mạch nhiệt phân ly.
Chẩn đoán bát cương: Lý thực nhiệt.
Bát pháp
+ Thanh nhiệt lương huyết giải độc độ 1 – 2.
+ Bổ khí hoà huyết: chỉ huyết giai đoạn 3 – 4.
+ Nâng cao thể trạng phục hồi cơ thể, giai đoạn phục hồi.
Tôi xin trình bày kinh nghiệm cá nhân về điều trị xuất huyết giai đoạn 1 – 2.
Thể nhẹ: Phổ biến cho bệnh nhân nghỉ ngơi ăn uống những thứ mát dễ tiêu hàng ngày dùng: Rau má 1 nắm, Cỏ nhọ nhồi 1 nắm, Cỏ màn chầu 1 nắm ,Ngải cứu 1 nắm.  Tất cả giã nát, vắt nước cốt uống tươi, bã đắp vào vùng  bách hội dũng tuyền và cần theo dõi chặt chẽ  để báo cho thầy thuốc.
Nếu nặng : Đơn quỷ: 15g khô hoặc 30g tươi kết hợp với bài Tiểu sài hồ:
Sài hồ nam 12g, Hoàng cầm 8g, Bạch linh 8g, Bạch thược 8g, Sinh khương 4g, bán hạ 8g, cam thảo 4g, đảng sâm 8g,
Phân tích bài thuốc
Nếu chỉ dùng bài Tiểu sài hồ thì công năng hoà giải là chính thanh nhiệt ít, nhưng khi lấy Đơn mặt quỷ là chính kết hợp với bài Tiểu sài hồ thì bài thuốc có thể thanh nhiệt được, lương được, huyết giải được độc.
Đảng sâm, Bạch thược bồi bổ khí huyết. Bán hạ sinh khương hành khí chỉ nôn. Cam thảo đại táo điều hòa dinh vệ. Thường dùng 1 – 2 thang ít người phải dùng 3 thang( 2 ngày một thang)
Các sách xưa chỉ nói Đơn mặt quỷ làm mát máu tiêu mụn nhọt trị mẩn ngứa.
Theo kinh nghiệm dân gian Mặt quỷ thường dùng giã nát, đắp lên những mụn nhọt nhiều đầu rất kết quả, nhân dân vùng quê tôi gọi đó là trúng trẻ em sốt coo, thường lấy nam 7 lá, nữ 9 lá, giã nát, lấy một thìa nước cốt cho uống bã đắp vào vùng thóp một lúc thì đỡ.
Kiêng kị : Bệnh sốt  xuất huyết cấm dùng các loại thuốc ảnh hưởng đến thanh mạch. Đông y gọi là thuốc tan huyết, phá huyết. Công tác chăm sóc với người bệnh là rất quan trọng, những ca nặng thì cần phải theo dõi chặt chẽ
Tuyên truyền nhân dân vệ sinh môi trường, không để cho muỗi sinh nở lây lan, nằm màn chống muỗi, khi phát hiện trên địa bàn có người bị sốt xuất huyết phải báo ngay với cơ quan y tế để chống dịch.

Hội chứng tiêu chảy

Tiêu chảy là hội chứng gặp ở nhiều bệnh khác nhau. Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng, số lần đi ngoài nhiều hơn so với bình thường hoặc có kèm theo chứng đau bụng, nôn mửa hoặc có sốt. Nguyên nhân thường là nhiễm phải khí lạ hoặc thấp nhiệt (tiêu chảy nhiễm khuẩn), ăn uống bị tích trệ (nhiễm độc) hoặc do tỳ vị hư, không tiêu hoá được thức ăn.



CÁC LOẠI TIÊU CHẢY THƯỜNG GẶP
Tiêu chảy do phong hàn (do lạnh)
Triệu chứng: Nóng, rét, nhức đầu, đau khắp người, bụng sôi, tiêu chảy, phân nhiều nước, lổn nhổn trắng hoặc xanh, rêu lưỡi trắng, mạch phù.
Điều trị: Phân tán, biểu cảm, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Hương phụ 20g, Búp ổi 20g, Búp sim 20g, Vỏ quýt 10g, Củ sả 10g, Gừng tươi 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chú ý: Theo dõi bệnh nhân thường xuyên, nếu mất nước nhiều phải kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do thấp nhiệt ( Tiêu chảy, nhiễm khuẩn: Thường xảy ra mùa hè, mùa thu
Triệu chứng: Đau bụng phải đi ỉa ngay, phân vàng, mùi khắp, hậu môn đỏ nóng, tiểu tiện ít, đỏ, khát nước, rêu lưỡi vàng.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Cát căn 20g, Rau má sao 10g, Mã đề sao 20g, Cam thảo dây 10g, sắc uống ngày 1 thang. Nếu bệnh nhân mất nhiều nước, cần kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do ăn uống
Triệu chứng: Đau bụng, đi ngoài xong đỡ đau, phân nặng mùi, không muốn ăn, rêu lưỡi nhợt.
Điều trị: Tiêu hoá thức ăn, chống ứ trệ.
Bài thuốc: Hương phụ 10g, Vỏ quýt 6g, Gừng khô 3 lát, Củ sả 6g, Khổ sâm 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Tiêu chảy do tỳ vị hư hàn (tiêu chảy mạn tính, kéo dài)
Triệu chứng: Sắc mặt nhợt nhạt, kém ăn, tinh thần mệt mỏi, có cảm giác đầy bụng, chướng bụng sau khi ăn, đại tiện phân lỏng, sống, chân tay lạnh, sợ lạnh, chất lưỡi bệu nhợt, rêu trắng mỏng, mạch trầm.
Điều trị: Ôn bổ tỳ vị, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Bố chính sâm 12g, Củ mài 12g, Trần bì 6g, Hương phụ 8g, Cam thảo dây 6g, Ý dĩ 12g, Gừng 6 lát. Sắc uống mỗi ngày một thang.

Đông y với các chứng đau ở tai, mũi

Theo Đông y, tai là khiếu (lỗ thông) của thận; kinh Túc thiếu dương Đởm và Thủ thiếu dương Tam tiêu đều gặp nhau ở tai trong, vì vậy các chứng đau ở tai có quan hệ mật thiết với các tạng kinh Thận, Đởm và Tam tiêu.



CÁC CHỨNG ĐAU Ở TAI
Sách Phùng Thị Cẩm Nang cho rằng “bệnh ở tai do 7 nhân tố gây nên là thực nhiệt, âm hư, đàm, hoả, thấp, khí bế và can phong; từ đó dẫn tới 5 chứng tai ù, tai đau, tai sưng, tai điếc, tai chảy mủ”. Nhìn chung, bệnh mới phần lớn thuộc thực chứng, bệnh lâu ngày thuộc hư chứng. Tuy nhiên, trên lâm sàng cần linh hoạt xử lý, không nên câu nệ.
Tai mọc mụn đau (Nhĩ trĩ, Nhĩ đĩnh)
Trong tai mọc ra một mụn nhỏ, hình như hạt anh đào, hư đầu vú dê, hoặc như mụn nấm, hạt táo, sờ vào đau, thậm chí đau buốt lên tận óc, hoặc thêm chảy máu, nên gọi là trĩ tai (nhĩ trĩ) hay nhĩ đỉnh. Theo Đông y, chứng này do nộ hoả kinh can, tướng hoả kinh thận, tích hoả kinh vị bốc lên, che lấp các khiếu bên trên, uất kết không tan và khí huyết ngưng tụ gây nên.
Trị liệu: Uống thang Sài hồ thanh can gia giảm: Sài hồ 5g, Hạ khô thảo 9g, Hoàng cầm 9g, Son chi tử 9g, Cúc hoa 9g, Sinh địa 12g, Xích thược 9g, Đơn bì 5g, Liên kiều 9g, Hà diệp (lá sen) 3g. Sắc uống.
Ngoài dùng Não sa tán: Não sa 3g, Khinh phấn 9g, Hùng hoàng 9g, Băng phiến 1,5g, tất cả tán bột, hoà nước, bôi lên chỗ đau.
Tai chảy mủ đau
Trong tai lở loét, chảy máu mủ, đau nhức, phần lớn do cảm thọ phong hoả thấp nhiệt, hoặc do móc ráy tai làm tổn thương ống tai gây viêm nhiễm.
Trị liệu: Trong uống Long đởm tả can thang gia giảm: Sài hồ 5g, Long đởm 5g, Ngân hoa 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 9g, Trạch tả 9g, Sơn chi tử 12g, Hoàng cầm 9g, Mộc thông 3g, Khổ đinh trà 5g, Lá sen 3g. Sắc uống.
Trị ngoài, dùng một trong các phương sau:
- Trần bì 3g, Băng phiến 0,5g, Đăng tâm thảo 3g (đốt lấy tro), tất cả tán bột thổi vào tai.
- Xà thoát (xác Rắn) thiêu lấy tro, thổi một ít vào tai trong.
- Hẹ tươi, giã vắt nước cốt nhỏ vào tai.
Các phương trên đều rất hiệu nghiệm.
Tai sưng bít đau
Do phong nhiệt ủng tắc bên trong; tai trong; sưng, làm bít kín không thông, đau từng cơn.
Trị liệu: Lấy 1 con ốc bươu lớn cho vào cối giã, sau cho vào 0,1g Xạ hương, chờ một lúc thành nước, lấy vài giọt nhỏ vào tai, hoặc lấy1 nhân hạt gấc (Mộc miết) mài nhỏ vào tai cũng hết đau.
Tai đau do móc ráy tai
Khi tai bít tắc do đầy ráy tai, hoặc khi cắt tóc lấy ráy tai có thể làm tổn thương bên trong, nhẹ không cần điều trị, nếu đau nhiều thì dùng thuốc trị ngoài như sau:
Mật Cá trắm (Thanh ngư) 1 cái, Hồng hoa 3g, Huyền sâm 6g, Sinh địa 6g, tất cả chưng lấy nước cốt nhỏ vào
Tai đau do côn trùng chui vào
Trị liệu: Dùng Hoa tiêu, tán bột, hoà giấm, hoặc Dầu mè hoà Đồng lục (sunfat Đồng), hoặc dầu Hạnh nhân nhỏ, côn trùng chui ra sẽ hết đau.

CÁC CHỨNG ĐAU Ở MŨI
Mũi là khiếu hô hấp hậu thiên, còn gọi là phế khiếu. Các kinh dương minh vị gặp nhau ở sống mũi, chạy hai bên mũi. Vì vậy, các bệnh đau mũi lấy 2 kinh phế vị làm chủ. Các chứng đau ở mũi do ngoại nhân chủ yếu là phong hàn, phong nhiệt xâm nhập, do nội nhân, thường gặp là thấp nhiệt tích hoả, bốc lên gây đau.
Mũi đau do mọc nhọt trên sống mũi (tỵ thư)
Trên sống mũi, nhọt mọc chìm sâu, bọc cứng, màu tím tía, luôn có cảm giác đau tê dại. Chứng này do uất hoả ngưng kết ở kinh phế mà thành.
Trị liệu: Bệnh mới phát nên dùng bài Thiên kim lậu lô thang để tuyên giải tà độc. Tiếp theo dùng bài Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia Chi tử, Mộc thông, Bạc hà, Kiết cánh để tiêu nhọt độc. Nếu sưng đau không giảm hoặc nhọt đã hoá mủ, dùng bài Thác lý thấu nùng thang điều trị.
- Thiên kim lậu lô thang: Lậu lô 10g, Chỉ xác (sao cám) 10g, Đại hoàng 12g, Sinh cam thảo 10g, Ma hoàng 6g, Hoàng cầm 10g, Bạch liễm 10g, Liên kiều 10g, Thăng ma 10g, Bạc hà 3g, Sinh khương 3g. Sắc, uống khi thuốc còn ấm.
- Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia vị: Xuyên sơn giáp (sao phồng) 6g, Tạo giác thích 1,5g, Đương quy vĩ 5g, Cam thảo tiết 3g, Kim ngân hoa 6g, Xích thược (sao) 1,5g, Nhũ hương 1,5g, Một dược 1,5g, Thiên hoa phấn 3g, Phòng phong 2g, Bối mẫu 3g, Bạch chỉ 3g, Trần bì 5g, Chi tử 3g, Mộc thông 3g, Bạc hà 3g, Kiết cánh 3g. Sắc thang thuốc này với rượu uống.
- Thác lý thấu nùng thang: Nhân sâm 3g, Bạch truật (sao đất) 3g, Xuyên sơn giáp (sao, tán bột) 3g, Bạch chỉ 3g, Thăng ma 1,5g, Cam thảo tiết 1,5g, Đương quy 6g, Tạo giác thích 5g, Sinh hoàng kỳ 9g, Thanh bì (sao) 1,5g. Sắc 3 chén lấy 1 chén, uống trước 1 ly rượu nhỏ rồi uống thuốc đang nóng vào.
Mũi đau do nhọt mọc trong lỗ mũi (tỵ đinh)
Nhọt đinh mọc trong lỗ mũi do phế kinh hoả độc ngưng kết mà thành. Biểu hiện lỗ mũi sưng tắc, đau nhức thấu vào trong óc, nghiêm trọng hơn thì môi má đều sưng, mạch đập thực đại (mạch sức đập mạnh, sóng mạch lớn).
Trị liệu: Gấp, dùng Thiềm tô hoàn, (thuốc thành phẩm có bán ở hiệu thuốc, thành phần gồm có : Thiềm tô, Khinh phấn, Đồng lục, Khô phàn, Đởm phàn, Hàn thuỷ thạch, Nhũ hương, Một dược, Xạ hương, Châu sa, Hùng hoàng, Oa ngưu, vừa uống trong, vừa dùng ngoài, nghiền bột thổi vào lỗ mũi. Bề ngoài mũi sưng cứng thì dùng Ly cung đĩnh tử xoa bôi lên (Ly cung đĩnh tử công thức gồm Huyết kiệt, Châu sa, Đởm phàn, Kinh mặc, Thiềm tô, Xạ hương, thành phần có bán sẵn ở hiệu thuốc).
Lưu ý: Chứng này sơ phát nên trị thật nhanh, để lâu, độc khí công vào trong dẫn đến thần thái hôn mê, nôn oẹ, hậu quả khó lường.
Mũi đau do mụt lở (tỵ sang)
Do nhiệt tà ở kinh Phế công lên lỗ mũi, tụ lại, không tán mà sinh nên. Biểu hiện ban đầu: Cảm giác mũi khô táo, đau rát, kế đo sinh mụn như hạt gạo, nặng thì ngoài mũi sưng đỏ lên.
Trị liệu: Hoàng cầm thang: Hoàng cầm (sao rượu) 6g, Sinh cam thảo 1,5g, Mạch môn (bỏ lõi) 3g, Tang bạch bì 3g, Chi tử (sao rượu) 5g, Liên kiều 3g, Xích thược 3g, Kiết cánh 3g, Bạc hà 3g, Kinh giới tuệ 3g. Sắc uống sau khi ăn.
4. Mũi sưng đau nhức
Mũi từ từ sưng lên, do hoả tà ở phế thịnh gây nên. Trị liệu dùng phương Giải uất thang: Kiết cánh 10g, Mạch môn 15g, Hoàng cầm 12g, Thiên môn 12g, Cam thảo 6g, Thiên hoa phấn 12g, Tử uyển 10g, Tử tô 6g, Bách bộ 12g. Sắc uống.
(Trích dịch từ Phương đáo thống trừ NXB Cổ tịch Trung y – Bắc kinh, 1997).

áp-xe tuyến vú

Sưng tuyến vú là bệnh thường gặp ở các sản phụ thời kỳ đang cho con bú, nhất là khi nhũ nhi mới chừng 1-2 tháng tuổi.

Tuyến vú bị tắc nghẽn, sữa ứ đọng cộng thêm điều kiện vệ sinh thiếu sạch sẽ hoặc do trẻ bú làm tổn thương đầu vú dẫn đến viêm tuyến vú. Bệnh tiến triển nhanh kèm theo phát nóng, phát sốt, bầu vú sưng to, sờ nắn thấy có cục kết rắn, sưng, nóng, đỏ, đau và sau có thể mưng mủ. Y học hiện đại gọi là bệnh áp-xe (abcèse) tuyến vú. Đông y gọi là chứng “nhũ ung” hay “nhũ nham” nguyên nhân do can khí uất kết, vị khí ủng trệ, nhiệt độc tích đọng lại hoặc do cảm nhiễm ngoại tà mà sinh ra.

Trường hợp bị chứng tắc sữa gây nên nhọt vú dùng một trong các bài thuốc sau kết hợp với xoa bóp nhẹ nhàng nơi bầu vú, nặn sữa ra cho chóng thông.

- Bối mẫu sao vàng tán thành bột, uống mỗi lần 4g, ngày 3 lần hòa với nước sôi.

- Dùng bồ hoàng cả cây, cả lá giã nát đắp lên vú kết hợp sắc lấy nước mà uống sẽ khỏi.

Trường hợp nhọt vú mới phát:

- Trích cam thảo 12g sắc đặc uống, kết hợp với hút sữa nơi núm vú bị đau vài lần sẽ khỏi.

- Bồ công anh 40g, dây kim ngân 80g, bỏ vào ấm đất đun lấy một bát nước thật đặc, rồi uống.

- Bồ công anh, thiên hoa phấn, liên kiều, bối mẫu, bốn vị đồng lượng 4g, thanh bì 6g, sắc uống.

Khi nhọt mọc ở vú sưng đau, có thể dùng thuốc bôi trực tiếp vào đầu vú:

- Đan sâm 80g, thược dược 80g, tán thành bột rồi ngâm dấm một đêm, dùng 200g mỡ lợn đổ thuốc vào nấu thành cao, lọc bỏ bã. Dùng cao thuốc này bôi vào vú ngày 2-3 lần.

- Chi ma (hạt vừng) sao đen, nghiền nhỏ trộn với dầu hoả thành bột nhão, bôi vào vú.

- Xạ can, huyền thảo bằng lượng tán thành bột hoà thêm một ít mật, bôi vào chỗ đau.

- Hoàng liên 10g, binh lang (hạt cau) 10g, hai thứ đem tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, bôi vào nơi vú sưng đau, ngày 2-3 lần, liên tục vài ngày.

Trường hợp mưng mủ lâu không khỏi:

Toàn qua lâu (vỏ và hạt quả) 30g, thiên hoa phấn, hoàng cầm, liên kiều, thanh bì, tạo giác thích, ngưu bàng tử, sài hồ, chi tử, trần bì mỗi thứ 9g, kim ngân hoa 30g, bồ công anh 25g, xích thược 10g, sinh cam thảo 5g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần.

Để phòng bệnh, sản phụ phải luôn chú ý giữ gìn bầu vú sạch sẽ, cần lau, rửa vệ sinh trước và sau khi cho con bú, loại bỏ phần sữa thừa khi trẻ bú không hết, tránh ứ đọng lại. Bên cạnh việc quan tâm tới ăn uống, chế độ dinh dưỡng hằng ngày phải luôn tạo sự thoải mái trong sinh hoạt, cuộc sống. Nơi ăn ở phải thoáng mát, tránh ẩm ướt, nóng bức về mùa hè hoặc thiếu ấm áp về mùa đông.
Theo SKDS

Ứng dụng thuyết âm dương ngũ hành trong chẩn đoán và điều trị bệnh

Âm dương ngũ hành là học thuyết vừa để lý giải vừa để ứng dụng các hiện tượng trong thiên nhiên và đời sống con người. Bài viết này xin được giới thiệu việc ứng dụng thuyết Âm dương ngũ hành của Danh y Hải Thượng Lãn Ông trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh.



Thiên thiên và hậu thiên
Căn cứ vị trí bát quái trong Hậu thiên đồ (hình H1), Danh y Hải Thượng Lãn Ông xây dựng nên thuyết “Tâm thận” (ứng với hai quái Ly – Khảm) và phương pháp dùng hai bài Lục vị và Bát vị để bổ Thuỷ, Hoả làm gốc.
Trong Y học cổ thì danh từ “Tiên thiên” là khí huyết của cha mẹ khi con người mới được thụ thai chưa hình thành, còn danh từ “Hậu thiên” là khi con người đã hình thành được nuôi dưỡng. Vì vậy khi nói đứa trẻ “Tiên thiên bất túc” là nói đứa bé khi sinh ra ốm yếu do khí huyết của cha mẹ không đủ. Còn nói “Hậu thiên bất túc” nghĩa là đứa trẻ ốm yếu do nuôi dưỡng không tốt.
Bát quái và ngũ tạng
Hải Thượng Lãn Ông viết: “Người bắt đầu thụ thai ở mạch nhâm, ở đốt sống thứ 7. Thai ở giữa rỗng có một mầm như nhị sen thẳng, mầm ấy là cuống rốn. Nhị sen là hai thận, ở giữa hai thận là mệnh môn. Mệnh môn là cửa của sinh mệnh, là một hào dương thuộc về Hoả, đóng ở giữa hai hào âm thuộc về Thuỷ.
Mệnh môn Hoả (Một hào Dương đóng giữa hai hào Âm).

Thuỷ sinh ra Mộc mới thành Can. Mộc sinh Hoả mới thành Tâm, Hoả sinh Thổ mới thành Tỳ, Thổ sinh Kim mới thành Phế. Năm tạng Thận, Can, Tâm, Tỳ, Phế hình thành rồi tiếp theo là Lục phủ. Thận là gốc của Phủ tạng, là căn bản của 12 kinh lạc, chủ chốt của sự thu nạp khí, nguồn của Tam tiên, thân người từ đó mà hình thành.
Dựa vào sự sinh, khắc, hợp, hình của Ngũ hành, Hải Thượng Lãn Ông đã xây dựng lý thuyết điều trị chủ về Thuỷ, Hoả nổi tiếng theo Dịch lý “Hậu Thiên đồ” trong đó hai quái Ly – Khảm ở trục Nam - Bắc. Ly ứng với tạng Tâm chủ Hoả, Khảm ứng với tạng Thận chủ về Thuỷ. Hải Thượng viết: “Tạng Tâm thuộc về Ly, có một hào âm ở giữa hai hào dương.
Trong Tâm có máu đỏ tức là chân Âm, còn tạng Thận thuộc quẻ Khảm có hào dương ở giữa hai hào âm. Trong tạng Thận chứa màng trắng tức là chân Dương vậy. Theo Kinh dịch thì Thuỷ phải bốc hơi lên, Hoả phải chiếu xuống thì mới trôi chảy (Đây là quẻ Ký tế (có hình), Khảm trên, Ly dưới). Theo Hải Thượng Lãn Ông thì hai quả thận cũng là một “Đồ thái cực”. Giữa “Đồ thái cực” có một điểm gọi là Mệnh môn (giữa hai quả thận). Mệnh môn này là Hoả nhưng Hoả vô hình khác Hoả ở tâm (quẻ Ly) là Hoả hữu hình.
Tiên thiên đồ và Hậu thiên đồ
Trong “Tiên thiên đồ” của Kinh dịch, vị trí phương Nam chủ Hoả vốn là vị trí Hoả của quẻ Kiều là quẻ thuần Dương vì vậy trong “Hậu thiên đồ” quẻ Ly thay thế vị trí quẻ Kiều, Hoả Hậu thiên bắt nguồn từ Hoả Tiên thiên.
Hải Thượng phân biệt “Hoả Hậu thiên” với “Hoả tiên thiên” như sau: “Người sinh ra ở Hộ Dần mà Dần là mẹ đẻ của Hoả (Mộc sinh Hoả), Hỏa là gốc để sinh ra mệnh”. Từ đó ông đi đến áp dụng vào điều trị bằng hai bài thuốc “Bổ Thuỷ Hoả” tức là Lục vị và Bát vị rồi gia giảm để chữa nhiều căn bệnh khác nhau.
Chú giải
Vòng trong là Tiên thiên bát quái
Vòng ngoài là Hậu thiên bát quái
Như vậy cùng trục Nam – Bắc, nếu sử dụng Tiên thiên bát quái thì nó là Càn – Khôn còn dùng Hậu thiên bát quái nó là Ly Khảm. Bản chất của Nam là Hoả và Bắc là Thuỷ do vậy nói Hoả Hậu thiên bắt nguồn từ Hoả tiên thiên là chính xác.

Thống kinh

Thống kinh hay đau bụng kinh là bệnh lý phụ khoa rất thường gặp. Có thể đau trước, trong và sau hành kinh. Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y trị chứng bệnh này theo từng thể lâm sàng trước và trong khi có kinh.

Thống kinh hay đau bụng kinh là bệnh lý phụ khoa rất thường gặp. Có thể đau trước, trong và sau hành kinh. Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y trị chứng bệnh này theo từng thể lâm sàng trước và trong khi có kinh.

Đau trước khi hành kinh:
Có 2 thể: thể huyết nhiệt và thể huyết ứ.
Thể huyết nhiệt: Trước lúc hành kinh, người bệnh đau bụng, đau lan ra hai bên bụng dưới, kinh nguyệt trước kỳ, lượng kinh nhiều, sắc kinh đỏ tím, đặc không có mùi hôi, môi đỏ, miệng đỏ, khô, tâm phiền, ít ngủ, táo bón, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ rêu vàng. Mạch hoạt sác, huyền sác. Dùng bài thuốc: Sinh địa 16g, huyền sâm 16g, địa cốt bì 12g, đào nhân 8g, ích mẫu 20g, uất kim 12g, hương phụ 8g, thanh bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể huyết ứ: Đau trước hoặc mới hành kinh, bụng dưới đau, kinh ít, máu tím đen, ra huyết cục, khi kinh ra thì đỡ đau. Nếu có ứ huyết nhiều thì sắc mặt tím, da khô, miệng khô không muốn uống nước, lưỡi đỏ có điểm tím, rêu lưỡi bình thường. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Cao ích mẫu mỗi ngày uống 20-30g.

Bài 2: Ích mẫu 16g, đào nhân 8g, uất kim 8g, xuyên khung 8g, ngưu tất 8g, hương phụ 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Đau khi hành kinh:

Có 2 thể: thể khí trệ và thể hàn thực.

Thể khí trệ: Bụng dưới trướng đau, kinh nguyệt ít, lúc trướng căng thì ngực sườn đầy tức lợm giọng, rêu lưỡi mỏng.Mạch huyền. Dùng một trong các bài:

Bài 1:
 Hương phụ 8g, ô dược 8g, sa nhân 8g, thanh bì 6g, ích mẫu 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2:
 Ô dược 8g, sa nhân 8g, hương phụ 8g, huyền hồ 8g, mộc hương 6g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể hàn thực:
 Đang hành kinh bị lạnh, cảm mạo phong hàn gây đau bụng kinh. Biểu hiện: nhức đầu, sợ lạnh, mỏi lưng, đau hạ vị, lạnh, chườm nóng thì đỡ đau, lượng kinh  ít, màu đỏ sẫm có cục. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Quế chi, bạch chỉ càn cương, bán hạ chế, uất kim đều 8g, đan sâm 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: Đương quy, đan bì, bán hạ chế mạch môn, ngô thù đều 8g, phục linh, tế tân, phòng phong, cao bản, càn cương mộc hương, cam thảo đều 4g, ô dược 8g, thương truật 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Theo SKDS