Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Đông y với các chứng đau ở họng

Trong Đông y, Họng được chia làm 2 bộ phận là Yết và Hầu.Yết thuộc ống tiêu hoá, thuộc Vị; hầu thuộc hệ hô hấp, thuộc Phế, ngoài ra, do các tạng can Thận có quan hệ và kinh lạc tuần hành đi qua Hầu họng, nên khi chúng hoạt động thất thường cũng dẫn đến bệnh tật ở Hầu họng.
Đau Hầu họng, nguyên nhân bên ngoài phần lớn là do phong nhiệt, nguyên nhân bên trong chủ yếu là do đàm hoả, âm hư dương cang. Về biện chứng, cần chú ý có hay không có khối sưng trong Hầu họng, vị trí và hình thái của khối sưng, bề mặt nhẵn bóng hay lồi lõm gồ ghề, màu sắc đỏ thẫm hay đỏ nhạt, khối sưng có hay không có vết loét, hoặc những hạt nhỏ hình sắc khác thường, khớp hàm cử động có trở ngại gì không, trước sau và hai bên cổ có sưng đau không… đó là những khâu chẩn đoán quan trọng.
Viêm họng cấp (Khẩn hầu phong):
Chứng này do ăn quá nhiều chất bổ, dẫn đến phế vị tích nhiệt, lại mắc phải phong tà, phong và nhiệt cùng công kích làm ủng tắc hầu họng sinh bệnh.
- Triệu chứng: Hầu họng sưng đau, tiếng nói khó, đàm tắc khàn giọng, bệnh phát rất nhanh, cần điều trị gấp.
- Trị liệu: Mới bạo phát, chích lể huyệt Thiếu thương (mé ngoài ngón tay cái) cho ra một ít máu đen để tả bớt nhiệt, bên trong cho uống bài Thanh yết lợi cách thang.
- Bài thuốc: Ngưu bàng tử (sao, giã dập), Liên kiều, Kinh giới, Phòng phong, Chi tử (để sống, giã dập), Kiết cánh, Huyền sâm, Hoàng liên, Kim ngân hoa, Hoàng cầm, Bạc hà, Cam thảo, Đại hoàng, Mang tiêu, Trúc diệp (tất cả lượng bằng nhau, mỗi thứ 3g), sắc uống cách xa bữa ăn.
Viêm họng mạn (Mạn hầu phong):
Chứng này phần lớn thấy ở người thể hư nhược, hoặc do nội thương thất tình, hoặc do ăn uống quá nhiều thứ cay.
- Triệu chứng: Bệnh phát từ từ; Hầu hơi sưng nhẹ, sắc nhạt, họng ráo, hơi đau, rêu lưỡi trắng bóng, đại tiện lỏng, mạch 6 bộ vi tế.
- Trị liệu:
- Nếu đau trước trưa, dùng Bổ trung ích khí thang gia Mạch đông, Kiết cánh, Ngưu bàng tử: Nhân sâm 3g, Đương quy 3g, Sinh hoàng kỳ 6g, Bạch truật 3g, Thăng ma 1g, Trần bì 2g, Sài hồ 1g, Cam thảo chích 3g, Mạch đông (bỏ tim) 3g, Ngũ vị tử 1,5g, Gừng tươi 3 lát, Đại táo 2 quả; sắc uống nóng, lúc đói bụng.
- Nếu đau sau trưa và khát, mình nóng, chân lạnh, nên uống bài Thiếu âm cam kiết thang: Kiết cánh 6g, Sinh cam thảo 9g, Xuyên khung 2g, Hoàng cầm 2g, Trần bì 2g, Huyền sâm 2g, Sài hồ 2g, Khương hoạt 2g, Thăng ma 2g, Hành trắng 1 nhánh; sắc uống cách xa bữa ăn.
- Nếu mặt đỏ, họng khô khát, kèm mạch hư đại, dùng bài Cam lộ ẩm: Thiên đông, Mạch đông, Hoàng cầm, Sinh địa, Thục địa, Tỳ bà diệp (Chích mật), Thạch hộc, Chỉ xác (sao), Nhân trần, Cam thảo (lượng bằng nhau - khoảng 6g); sắc uống.
- Trị ngoài dùng Băng bằng tán (xem ở bài các chứng đau lưỡi) 3g trộn thêm 1g bột Đăng thảo thiêu tồn tính thổi vào họng. Theo kinh nghiệm người dịch, có thể thay bằng cách ngậm quả Kha tử (mua ở hiệu thuốc bắc, bỏ hột) mỗi lần 1/3 quả, nuốt dần lấy nước bỏ xác, ngày 3 – 4 lần, đơn giản nhưng hiệu quả hơn.
Chứng tắc hầu họng (Hầu bế thống)
Hầu bế hay còn gọi Hầu tý, do can phế hoả thịnh, gặp phải phong hàn công kích mà thành bệnh.
- Triệu chứng: Hầu họng sưng đau, mặt đỏ má sưng, nặng thì sưng đến sau cổ, trong họng có khối như nắm tay nhỏ, uống nước không nuốt được, không nói được, người phát nóng lạnh.
- Trị liệu: Lể huyệt Thiếu thương, hoặc châm huyệt Hợp cốc để khai thông hầu họng. Bệnh mới phát dùng Kinh phòng bại độc tán để sơ tán tà độc, khi cơn nóng lạnh đã lui thì đổi dùng bài Thanh yết lợi cách tán.
- Kinh phòng bại độc tán: Kinh giới, Phòng phong, Khương hoạt, Độc hoạt, Sài hồ, Tiền hồ, Kiết cánh, Xuyên khung, Chỉ xác, Phục linh mỗi thứ 3g, Nhân sâm, Cam thảo ( lượng bằng nhau, mỗi thứ 1,5g), Gừng tươi 1 lát. Sắc uống.
- Thanh yết lợi cách tán: (xem mục viêm họng cấp ở trên).
Họng khô đau rát (Yết hầu can thống)
Do thời tiết khô hạn, lâu ngày không mưa, hoặc do ca hát diễn thuyết quá nhiều, hầu họng mất sự nhuận dưỡng mà sinh khô rát.
-Trị liệu: Trứng gà 1 quả đập bỏ vỏ, quấy đều, chế nước sôi cho chín, cho thêm 30g Mật ong, vài giọt Dầu thơm, uống ngày 1 lần trước khi đi ngủ, rất hiệu quả, hết bệnh thì thôi dùng.
Viêm Amiđan (Nhủ nga trướng thống):
Chứng nhủ nga trướng thống, tương tự như viêm Amiđan trong Y học hiện đại; theo Đông y là do các nguyên nhân ngoại cảnh lục dâm, nội thương thất tình, uất lâu hoá hoả dẫn đến.
- Triệu chứng: Hạch Amiđan sưng đỏ, hình như quả nhãn hoặc hay ngài, họng đau lan ra vùng tai, khi nói hoặc nuốt thì đau tăng, thường kèm theo các chứng ớn lạnh phát sốt, đầu căng đau nhức.
- Trị liệu: Lể nặn máu huyệt Thiếu thương, trong cho uống Gia vị Thanh yết lương cách thang: Bạc hà 3g, Tang diệp 6g, Ngưu bàng tử 9g, Ngân hoa 9g, Liên kiều 9g, Xích thược 9g, Xạ can 5g, Chích cương tàm 6g, Mã bột 3g, Chi tử 9g, Sinh cam thảo 3g, Lô căn tươi 30g; sắc uống.
Họng đau do hóc dị vật (Ngạnh thống):
Dị vật hóc cổ họng gây sưng đau khó chịu, thuộc phạm vi chứng cấp cứu, trẻ con rất dễ mắc phải. Nếu chưa tiện dùng thủ thuật giải quyết, có thể sử dụng một số phương pháp trị liệu sau:
1. Hóc xương cá: Mài hạt Trám (Cảm lãm hạch) lấy nước nuốt từ từ, một lát sau xương cá theo đàm khạc ra ngoài.
2. Hóc xương gà: Sơn tra sắc lấy nước đặc uống.
3. Hóc mạt vụn đồng sắt: Dế (Lâu cô) giã nát, chế nước nóng quấy đều rồi nhỏ vào cổ họng.
4. Hóc dằm tre gỗ: Quả Mướp già (Lão ti qua) thiêu lấy tro, mỗi lần uống 10g với rượu.
5. Hóc đầu thóc lúa: Lòng trắng Trứng gà cho vào một ít Đường cát ngậm nuốt.
6. Hóc mạt vụn thuỷ tinh: Đậu đỏ, Đại hoàng sắc lấy nước đặc uống, sau lấy xác Đậu nuốt vào, mạt vụn sẽ theo xác Đậu xổ ra ngoài.

Viêm mũi

Viêm mũi cấp do ngoại tà phần nhiều thuộc chứng thực, viêm mũi mạn quá trình bệnh lâu chính khí bị thương tổn hư suy nên thường biểu hiện là chứng hư. Cả viêm mũi cấp, mạn đều có thể biểu hiện tình trạng hư thực thác tạp. Khi điều trị Thực thì dùng pháp khu tà, Hư thì dùng pháp bổ, Hư thực thác tạp thì dùng pháp bổ chính khu tà phối hợp.


Viêm mũi dị ứng
Viêm mũi dị ứng cũng là những đợt viêm mũi cấp, nhưng nguyên nhân có liên quan đến yếu tố dị ứng gây viêm. Y học cổ truyền mô tả trong chứng Tỵ cừu và Tỵ uyên.

Theo y học hiện đại: dị ứng là một phản ứng của cơ thể chống lại những chất lạ đang xâm phạm vào cơ thể, chất lạ đó gọi là kháng nguyên. Khi cơ thể bị kháng nguyên tấn công thì nó phản ứng lại bằng cách tạo ra kháng thể để trung hoà kháng nguyên. Sự đấu tranh đầu tiên này không có triệu chứng lâm sàng, nhưng trong máu người bệnh đã có sinh kháng thể, như vậy bệnh nhân đã bị mẫn cảm, đây là sự phản ứng của cơ thể đối với lần tấn công đầu tiên của kháng nguyên.

Từ đây về sau, nếu kháng nguyên ấy lại xâm nhập nữa thì sẽ xảy ra sự đấu tranh kịch liệt giữa kháng nguyên và kháng thể, quá trình này sản sinh ra nhiều chất hoá học trung gian, và chính các chất này là nguồn gốc của các biểu hiện của bệnh dị ứng, như vậy dị ứng là một bệnh toàn thân của cơ thể, và viêm mũi dị ứng chỉ là một hiện tượng cục bộ của bệnh toàn thân đó.    

Nguyên tắc chung

- Đối với viêm mũi cấp tính thông thường chưa có biến chứng, chỉ cần chú ý chăm sóc, giữ gìn ấm áp, tránh gió lùa, mặc áo ấm, giữ ấm ngực, ấm cổ có thể bệnh cũng tự khỏi, chỉ nên dùng thuốc khi nào có biến chứng, nếu có dùng thuốc chỉ mang tính điều trị triệu chứng như ho, sốt, nhức đầu…

- Đối với viêm mũi dị ứng: cần chú ý phòng bệnh ngăn ngừa những dị ứng nguyên.

- Đối với viêm xoang cần ngăn chặn các biến chứng viêm họng, phế quản phế viêm, viêm phế quản mạn tính.
Ké đầu ngựa

Ðiều trị cục bộ

- Dùng nước muối sinh lý nhỏ và rửa mũi trong các trường hợp viêm mũi cấp, mạn.

- Dùng thuốc xông mũi như:

+ Quả bồ kết, nướng, tán nhỏ, thổi vào lỗ mũi để gây nhảy mũi trong trường hợp mũi tắc không thông vì phế khí nghịch lên.

+ Hạt nhãn, đốt lên khói dùng ống trúc dẫn cho khói xông vào mũi trong trường hợp nước mũi chảy ra không dứt, có mùi hôi.

+ Lá lốt tán nhỏ, thổi vào lỗ mũi mỗi lần một ít dùng chữa trĩ mũi.

- Dùng tỏi 4 – 5 củ, giã nát như bùn, rịt vào lòng bàn chân, băng chặt, nước mũi tự nhiên khô ráo trong trường hợp viêm mũi cấp, mạn - viêm xoang.
Quế chi

Ðiều trị chung toàn thân

Tuỳ thuộc vào biểu hiện mà có pháp trị tương ứng:

Viêm mũi cấp tính:


Phép trị: Bổ khí cố biểu, khu phong tán hàn.

Bài thuốc: Bạch truật 12g, tang bạch bì 10g, quế chi 8g, bạch chi 12g, cam thảo 4g, ké đầu ngựa 16g, gừng 4g, xuyên khung 16g, hoài sơn 16g, tế tân 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 3 lần trong ngày sau khi ăn 1 giờ.

Viêm mũi mạn tính.


Phép trị: Khu phong tuyên phế.

Bài thuốc: Ké đầu ngựa 16g, Cát cánh 6g, tân di 8g, cam thảo 6g, bạch chỉ 6g, hạ khô thảo 12g, bạc hà 6g.

Nếu do phong hàn giảm vị hạ khô thảo, thêm kinh giới 12g, phòng phong 8g, khương hoạt 8g.

Nếu do phong nhiệt thêm Hoàng cầm, tang bạch bì mỗi loại 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 3 lần trong ngày sau khi ăn 1 giờ.

Hoặc dùng bài thuốc kinh nghiệm Tỷ tiên phương: Tế tân, tân di hoa, bối mẫu, thương nhĩ tử, tá dược.

Dạng thuốc sử dụng làm thành hoàn, dùng với nước đun sôi để nguội.

Châm cứu: Nhân nghinh, Hợp cốc, Ấn đường, Liệt khuyết.

Theo SKDS

Đây là bệnh chứng thường gặp ở những người từ lứa tuổi trung niên hay người già. Bệnh xảy ra thường không có dấu hiệu báo trước.


Dấu hiệu thường xuất hiện vào buổi sáng sớm sau khi tỉnh dậy, người bệnh đột ngột choáng váng mọi vật chao đảo, kèm theo rối loạn thần kinh thực vật làm cho toàn thân vã mồ hôi hoặc có thể da mặt bị tím tái, tim đập nhanh, buồn nôn hay nôn mửa liên tục...

Theo Đông y thường thấy biểu hiện bởi hai thể loại đó là "thực chứng" và "hư chứng".

Đối với thực chứng:
Đột nhiên ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, nhà cửa cảm thấy như đảo lộn, nghiêng ngửa buộc người bệnh phải luôn nhắm nghiền mắt và nằm xuống không sẽ bị ngã. Đây là trường hợp theo Đông y là do can hỏa hóa phong rồi bốc lên mà sinh bệnh là chủ yếu. Cũng có thể do đờm thấp đình trệ, mà làm khí thanh dương không đưa lên được khiến phát ra bệnh.Trong trường hợp thực chứng này người ta sử dụng phương "Thiên ma câu đằng ẩm" trích trong Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa.

Phương gồm các vị: Câu đằng 12g, ích mẫu 12g, ngưu tất 12g, phục thần 12g, sơn chi 12g, tang ký sinh 12g, dạ giao đằng 10g, đỗ trọng 10g, hoàng cầm 10g, thạch quyết minh sống 20g, thiên ma 8g, hà thủ ô trắng 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần trong ngày. Uống 3 - 5 thang liền.

Phương "Nhị căn thang" (Phúc kiến Trung y dược). Tác dụng hoạt huyết hóa ứ, lợi thấp, khử đờm, trị rối loạn tiền đình, gồm: Cát căn 20g, hải đới căn 30g, xuyên khung 12g, bán hạ 10g, thạch xương bồ 16g, đại giả thạch 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 3 - 6 thang liền.

Đối với hư chứng:

Triệu chứng cũng xảy ra đột ngột bị ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, cơn chóng mặt cũng có thể xảy ra trong chốc lát hay mấy tiếng đồng hồ hoặc vài ngày. Đây là bệnh chứng xảy ra chủ yếu do can, thận, tâm, tỳ suy, thận kém nên không nuôi dưỡng được can huyết mà làm cho can dương vượng lên khiến phát sinh bệnh.

Với bệnh chứng này người ta thường sử dụng phương "Kỷ cúc địa hoàng hoàn" trích trong Y cấp. Gồm các vị: Bạch cúc hoa 120g, câu kỷ tử 120g, đơn bì 120g, phục linh 120g, trạch tả 120g, sơn dược 160g, sơn thù 160g, thục địa 320g. Tất cả tán bột làm hoàn. Ngày uống 8 - 16g, chiêu với nước muối nhạt.

Định huyễn thang (trích trong Trung Quốc Trung y bí phương đại hoàn). Tác dụng hóa đờm tức phong, kiện tỳ khử thấp, trị rối loạn tiền đình, gồm: Bạch tật lê 20g, trạch tả 20g, thiên ma 16g, bán hạ 16g, đạm trúc diệp 12g, phục thần 12g, cát nhân 12g, long cốt 30g (sắc trước). Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 5 - 10 thang liền. Rất hiệu nghiệm.

Chỉ huyễn trừ vựng thang (trong Trung Quốc Trung y bí phương đại toàn). Tác dụng hóa đờm, lợi thấp, khử ứ, trị rối loạn tiền đình, gồm bán hạ 12g, ngưu tất 12g, sinh khương 12g, xa tiền tử 30g, trạch lan 16g, quế chi 16g, bạch truật 20g, hổ phách 6g, đan sâm 24g, phục linh 24g, mẫu lệ 40g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày. Cần uống 5 - 7 thang liền sẽ hiệu nghiệm.

Theo SKDS

Sốt xuất huyết - chẩn đoán và phép trị


Theo Tây y, nguyên nhân gây nên bệnh sốt xuất huyết là do vi rút Đengue lây truyền, do Muỗi vằn có tên AĐex. Theo Đông y  là do ôn bệnh dịch lê nhiệt độc tác động vào doanh vệ khí huyết, tạng phủ, triệu chứng lâm sàng.



Giai đoạn đầu: Ứng vào doanh vệ khí huyết tương đương với độ 1 độ 2 theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới:
Sốt cao liên tục 39 – 40o, đau đầu dữ dội, sốt nóng, có khi rét đau mỏi khắp thân thể, có khi nôn. Mạch hồng đại hoặc hoạt. Mặt đỏ, toàn thân đỏ, ngày thứ 3 trở đi thường xuất hiện các ban đỏ ở lưng, bụng hoặc các chấm xuất huyết dưới da, đặc biệt là nhìn mắt thấy xung huyết đỏ.
Giai đoạn 2 sau 5 – 7 ngày, sốt thường không cao, có khi tụt nhiệt độ, người mệt li bì, trên người lấm tấm mồ hôi dính; có biểu hiện xuất huyết chân răng, máu mũi; nặng thì nôn ra máu, đại tiểu tiện ra máu, phụ nữ hành kinh ra nhiều. Mạch nhược hoặc vi tế tương đương với độ 3 – 4 của tổ chức Y tế thế giới.
Chẩn đoán phân biệt.
Bệnh thường xẩy ra vào mùa hè hoặc mùa thu cho nên những bệnh sốt vi rút cúm, sốt thương hàn, sốt rét, sốt nhiễm trùng, nhiễm độc thường làm ta dễ nhầm. Sốt vi rút cũng có mạch hồng đai nhưng có biểu hiện xưng họng, ho sổ mũi; sốt rét cũng mạch đai nhưng nóng từng cơn; sốt nhiễm trùng có viêm tấy người lơ mạch tê sác; sốt thương hàn mạch nhiệt phân ly.
Chẩn đoán bát cương: Lý thực nhiệt.
Bát pháp
+ Thanh nhiệt lương huyết giải độc độ 1 – 2.
+ Bổ khí hoà huyết: chỉ huyết giai đoạn 3 – 4.
+ Nâng cao thể trạng phục hồi cơ thể, giai đoạn phục hồi.
Tôi xin trình bày kinh nghiệm cá nhân về điều trị xuất huyết giai đoạn 1 – 2.
Thể nhẹ: Phổ biến cho bệnh nhân nghỉ ngơi ăn uống những thứ mát dễ tiêu hàng ngày dùng: Rau má 1 nắm, Cỏ nhọ nhồi 1 nắm, Cỏ màn chầu 1 nắm ,Ngải cứu 1 nắm.  Tất cả giã nát, vắt nước cốt uống tươi, bã đắp vào vùng  bách hội dũng tuyền và cần theo dõi chặt chẽ  để báo cho thầy thuốc.
Nếu nặng : Đơn quỷ: 15g khô hoặc 30g tươi kết hợp với bài Tiểu sài hồ:
Sài hồ nam 12g, Hoàng cầm 8g, Bạch linh 8g, Bạch thược 8g, Sinh khương 4g, bán hạ 8g, cam thảo 4g, đảng sâm 8g,
Phân tích bài thuốc
Nếu chỉ dùng bài Tiểu sài hồ thì công năng hoà giải là chính thanh nhiệt ít, nhưng khi lấy Đơn mặt quỷ là chính kết hợp với bài Tiểu sài hồ thì bài thuốc có thể thanh nhiệt được, lương được, huyết giải được độc.
Đảng sâm, Bạch thược bồi bổ khí huyết. Bán hạ sinh khương hành khí chỉ nôn. Cam thảo đại táo điều hòa dinh vệ. Thường dùng 1 – 2 thang ít người phải dùng 3 thang( 2 ngày một thang)
Các sách xưa chỉ nói Đơn mặt quỷ làm mát máu tiêu mụn nhọt trị mẩn ngứa.
Theo kinh nghiệm dân gian Mặt quỷ thường dùng giã nát, đắp lên những mụn nhọt nhiều đầu rất kết quả, nhân dân vùng quê tôi gọi đó là trúng trẻ em sốt coo, thường lấy nam 7 lá, nữ 9 lá, giã nát, lấy một thìa nước cốt cho uống bã đắp vào vùng thóp một lúc thì đỡ.
Kiêng kị : Bệnh sốt  xuất huyết cấm dùng các loại thuốc ảnh hưởng đến thanh mạch. Đông y gọi là thuốc tan huyết, phá huyết. Công tác chăm sóc với người bệnh là rất quan trọng, những ca nặng thì cần phải theo dõi chặt chẽ
Tuyên truyền nhân dân vệ sinh môi trường, không để cho muỗi sinh nở lây lan, nằm màn chống muỗi, khi phát hiện trên địa bàn có người bị sốt xuất huyết phải báo ngay với cơ quan y tế để chống dịch.

Hội chứng tiêu chảy

Tiêu chảy là hội chứng gặp ở nhiều bệnh khác nhau. Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng, số lần đi ngoài nhiều hơn so với bình thường hoặc có kèm theo chứng đau bụng, nôn mửa hoặc có sốt. Nguyên nhân thường là nhiễm phải khí lạ hoặc thấp nhiệt (tiêu chảy nhiễm khuẩn), ăn uống bị tích trệ (nhiễm độc) hoặc do tỳ vị hư, không tiêu hoá được thức ăn.



CÁC LOẠI TIÊU CHẢY THƯỜNG GẶP
Tiêu chảy do phong hàn (do lạnh)
Triệu chứng: Nóng, rét, nhức đầu, đau khắp người, bụng sôi, tiêu chảy, phân nhiều nước, lổn nhổn trắng hoặc xanh, rêu lưỡi trắng, mạch phù.
Điều trị: Phân tán, biểu cảm, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Hương phụ 20g, Búp ổi 20g, Búp sim 20g, Vỏ quýt 10g, Củ sả 10g, Gừng tươi 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chú ý: Theo dõi bệnh nhân thường xuyên, nếu mất nước nhiều phải kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do thấp nhiệt ( Tiêu chảy, nhiễm khuẩn: Thường xảy ra mùa hè, mùa thu
Triệu chứng: Đau bụng phải đi ỉa ngay, phân vàng, mùi khắp, hậu môn đỏ nóng, tiểu tiện ít, đỏ, khát nước, rêu lưỡi vàng.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Cát căn 20g, Rau má sao 10g, Mã đề sao 20g, Cam thảo dây 10g, sắc uống ngày 1 thang. Nếu bệnh nhân mất nhiều nước, cần kết hợp điều trị với Tây y hoặc đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất.
Tiêu chảy do ăn uống
Triệu chứng: Đau bụng, đi ngoài xong đỡ đau, phân nặng mùi, không muốn ăn, rêu lưỡi nhợt.
Điều trị: Tiêu hoá thức ăn, chống ứ trệ.
Bài thuốc: Hương phụ 10g, Vỏ quýt 6g, Gừng khô 3 lát, Củ sả 6g, Khổ sâm 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Tiêu chảy do tỳ vị hư hàn (tiêu chảy mạn tính, kéo dài)
Triệu chứng: Sắc mặt nhợt nhạt, kém ăn, tinh thần mệt mỏi, có cảm giác đầy bụng, chướng bụng sau khi ăn, đại tiện phân lỏng, sống, chân tay lạnh, sợ lạnh, chất lưỡi bệu nhợt, rêu trắng mỏng, mạch trầm.
Điều trị: Ôn bổ tỳ vị, cầm đi ngoài.
Bài thuốc: Bố chính sâm 12g, Củ mài 12g, Trần bì 6g, Hương phụ 8g, Cam thảo dây 6g, Ý dĩ 12g, Gừng 6 lát. Sắc uống mỗi ngày một thang.

Đông y với các chứng đau ở tai, mũi

Theo Đông y, tai là khiếu (lỗ thông) của thận; kinh Túc thiếu dương Đởm và Thủ thiếu dương Tam tiêu đều gặp nhau ở tai trong, vì vậy các chứng đau ở tai có quan hệ mật thiết với các tạng kinh Thận, Đởm và Tam tiêu.



CÁC CHỨNG ĐAU Ở TAI
Sách Phùng Thị Cẩm Nang cho rằng “bệnh ở tai do 7 nhân tố gây nên là thực nhiệt, âm hư, đàm, hoả, thấp, khí bế và can phong; từ đó dẫn tới 5 chứng tai ù, tai đau, tai sưng, tai điếc, tai chảy mủ”. Nhìn chung, bệnh mới phần lớn thuộc thực chứng, bệnh lâu ngày thuộc hư chứng. Tuy nhiên, trên lâm sàng cần linh hoạt xử lý, không nên câu nệ.
Tai mọc mụn đau (Nhĩ trĩ, Nhĩ đĩnh)
Trong tai mọc ra một mụn nhỏ, hình như hạt anh đào, hư đầu vú dê, hoặc như mụn nấm, hạt táo, sờ vào đau, thậm chí đau buốt lên tận óc, hoặc thêm chảy máu, nên gọi là trĩ tai (nhĩ trĩ) hay nhĩ đỉnh. Theo Đông y, chứng này do nộ hoả kinh can, tướng hoả kinh thận, tích hoả kinh vị bốc lên, che lấp các khiếu bên trên, uất kết không tan và khí huyết ngưng tụ gây nên.
Trị liệu: Uống thang Sài hồ thanh can gia giảm: Sài hồ 5g, Hạ khô thảo 9g, Hoàng cầm 9g, Son chi tử 9g, Cúc hoa 9g, Sinh địa 12g, Xích thược 9g, Đơn bì 5g, Liên kiều 9g, Hà diệp (lá sen) 3g. Sắc uống.
Ngoài dùng Não sa tán: Não sa 3g, Khinh phấn 9g, Hùng hoàng 9g, Băng phiến 1,5g, tất cả tán bột, hoà nước, bôi lên chỗ đau.
Tai chảy mủ đau
Trong tai lở loét, chảy máu mủ, đau nhức, phần lớn do cảm thọ phong hoả thấp nhiệt, hoặc do móc ráy tai làm tổn thương ống tai gây viêm nhiễm.
Trị liệu: Trong uống Long đởm tả can thang gia giảm: Sài hồ 5g, Long đởm 5g, Ngân hoa 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 9g, Trạch tả 9g, Sơn chi tử 12g, Hoàng cầm 9g, Mộc thông 3g, Khổ đinh trà 5g, Lá sen 3g. Sắc uống.
Trị ngoài, dùng một trong các phương sau:
- Trần bì 3g, Băng phiến 0,5g, Đăng tâm thảo 3g (đốt lấy tro), tất cả tán bột thổi vào tai.
- Xà thoát (xác Rắn) thiêu lấy tro, thổi một ít vào tai trong.
- Hẹ tươi, giã vắt nước cốt nhỏ vào tai.
Các phương trên đều rất hiệu nghiệm.
Tai sưng bít đau
Do phong nhiệt ủng tắc bên trong; tai trong; sưng, làm bít kín không thông, đau từng cơn.
Trị liệu: Lấy 1 con ốc bươu lớn cho vào cối giã, sau cho vào 0,1g Xạ hương, chờ một lúc thành nước, lấy vài giọt nhỏ vào tai, hoặc lấy1 nhân hạt gấc (Mộc miết) mài nhỏ vào tai cũng hết đau.
Tai đau do móc ráy tai
Khi tai bít tắc do đầy ráy tai, hoặc khi cắt tóc lấy ráy tai có thể làm tổn thương bên trong, nhẹ không cần điều trị, nếu đau nhiều thì dùng thuốc trị ngoài như sau:
Mật Cá trắm (Thanh ngư) 1 cái, Hồng hoa 3g, Huyền sâm 6g, Sinh địa 6g, tất cả chưng lấy nước cốt nhỏ vào
Tai đau do côn trùng chui vào
Trị liệu: Dùng Hoa tiêu, tán bột, hoà giấm, hoặc Dầu mè hoà Đồng lục (sunfat Đồng), hoặc dầu Hạnh nhân nhỏ, côn trùng chui ra sẽ hết đau.

CÁC CHỨNG ĐAU Ở MŨI
Mũi là khiếu hô hấp hậu thiên, còn gọi là phế khiếu. Các kinh dương minh vị gặp nhau ở sống mũi, chạy hai bên mũi. Vì vậy, các bệnh đau mũi lấy 2 kinh phế vị làm chủ. Các chứng đau ở mũi do ngoại nhân chủ yếu là phong hàn, phong nhiệt xâm nhập, do nội nhân, thường gặp là thấp nhiệt tích hoả, bốc lên gây đau.
Mũi đau do mọc nhọt trên sống mũi (tỵ thư)
Trên sống mũi, nhọt mọc chìm sâu, bọc cứng, màu tím tía, luôn có cảm giác đau tê dại. Chứng này do uất hoả ngưng kết ở kinh phế mà thành.
Trị liệu: Bệnh mới phát nên dùng bài Thiên kim lậu lô thang để tuyên giải tà độc. Tiếp theo dùng bài Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia Chi tử, Mộc thông, Bạc hà, Kiết cánh để tiêu nhọt độc. Nếu sưng đau không giảm hoặc nhọt đã hoá mủ, dùng bài Thác lý thấu nùng thang điều trị.
- Thiên kim lậu lô thang: Lậu lô 10g, Chỉ xác (sao cám) 10g, Đại hoàng 12g, Sinh cam thảo 10g, Ma hoàng 6g, Hoàng cầm 10g, Bạch liễm 10g, Liên kiều 10g, Thăng ma 10g, Bạc hà 3g, Sinh khương 3g. Sắc, uống khi thuốc còn ấm.
- Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia vị: Xuyên sơn giáp (sao phồng) 6g, Tạo giác thích 1,5g, Đương quy vĩ 5g, Cam thảo tiết 3g, Kim ngân hoa 6g, Xích thược (sao) 1,5g, Nhũ hương 1,5g, Một dược 1,5g, Thiên hoa phấn 3g, Phòng phong 2g, Bối mẫu 3g, Bạch chỉ 3g, Trần bì 5g, Chi tử 3g, Mộc thông 3g, Bạc hà 3g, Kiết cánh 3g. Sắc thang thuốc này với rượu uống.
- Thác lý thấu nùng thang: Nhân sâm 3g, Bạch truật (sao đất) 3g, Xuyên sơn giáp (sao, tán bột) 3g, Bạch chỉ 3g, Thăng ma 1,5g, Cam thảo tiết 1,5g, Đương quy 6g, Tạo giác thích 5g, Sinh hoàng kỳ 9g, Thanh bì (sao) 1,5g. Sắc 3 chén lấy 1 chén, uống trước 1 ly rượu nhỏ rồi uống thuốc đang nóng vào.
Mũi đau do nhọt mọc trong lỗ mũi (tỵ đinh)
Nhọt đinh mọc trong lỗ mũi do phế kinh hoả độc ngưng kết mà thành. Biểu hiện lỗ mũi sưng tắc, đau nhức thấu vào trong óc, nghiêm trọng hơn thì môi má đều sưng, mạch đập thực đại (mạch sức đập mạnh, sóng mạch lớn).
Trị liệu: Gấp, dùng Thiềm tô hoàn, (thuốc thành phẩm có bán ở hiệu thuốc, thành phần gồm có : Thiềm tô, Khinh phấn, Đồng lục, Khô phàn, Đởm phàn, Hàn thuỷ thạch, Nhũ hương, Một dược, Xạ hương, Châu sa, Hùng hoàng, Oa ngưu, vừa uống trong, vừa dùng ngoài, nghiền bột thổi vào lỗ mũi. Bề ngoài mũi sưng cứng thì dùng Ly cung đĩnh tử xoa bôi lên (Ly cung đĩnh tử công thức gồm Huyết kiệt, Châu sa, Đởm phàn, Kinh mặc, Thiềm tô, Xạ hương, thành phần có bán sẵn ở hiệu thuốc).
Lưu ý: Chứng này sơ phát nên trị thật nhanh, để lâu, độc khí công vào trong dẫn đến thần thái hôn mê, nôn oẹ, hậu quả khó lường.
Mũi đau do mụt lở (tỵ sang)
Do nhiệt tà ở kinh Phế công lên lỗ mũi, tụ lại, không tán mà sinh nên. Biểu hiện ban đầu: Cảm giác mũi khô táo, đau rát, kế đo sinh mụn như hạt gạo, nặng thì ngoài mũi sưng đỏ lên.
Trị liệu: Hoàng cầm thang: Hoàng cầm (sao rượu) 6g, Sinh cam thảo 1,5g, Mạch môn (bỏ lõi) 3g, Tang bạch bì 3g, Chi tử (sao rượu) 5g, Liên kiều 3g, Xích thược 3g, Kiết cánh 3g, Bạc hà 3g, Kinh giới tuệ 3g. Sắc uống sau khi ăn.
4. Mũi sưng đau nhức
Mũi từ từ sưng lên, do hoả tà ở phế thịnh gây nên. Trị liệu dùng phương Giải uất thang: Kiết cánh 10g, Mạch môn 15g, Hoàng cầm 12g, Thiên môn 12g, Cam thảo 6g, Thiên hoa phấn 12g, Tử uyển 10g, Tử tô 6g, Bách bộ 12g. Sắc uống.
(Trích dịch từ Phương đáo thống trừ NXB Cổ tịch Trung y – Bắc kinh, 1997).

áp-xe tuyến vú

Sưng tuyến vú là bệnh thường gặp ở các sản phụ thời kỳ đang cho con bú, nhất là khi nhũ nhi mới chừng 1-2 tháng tuổi.

Tuyến vú bị tắc nghẽn, sữa ứ đọng cộng thêm điều kiện vệ sinh thiếu sạch sẽ hoặc do trẻ bú làm tổn thương đầu vú dẫn đến viêm tuyến vú. Bệnh tiến triển nhanh kèm theo phát nóng, phát sốt, bầu vú sưng to, sờ nắn thấy có cục kết rắn, sưng, nóng, đỏ, đau và sau có thể mưng mủ. Y học hiện đại gọi là bệnh áp-xe (abcèse) tuyến vú. Đông y gọi là chứng “nhũ ung” hay “nhũ nham” nguyên nhân do can khí uất kết, vị khí ủng trệ, nhiệt độc tích đọng lại hoặc do cảm nhiễm ngoại tà mà sinh ra.

Trường hợp bị chứng tắc sữa gây nên nhọt vú dùng một trong các bài thuốc sau kết hợp với xoa bóp nhẹ nhàng nơi bầu vú, nặn sữa ra cho chóng thông.

- Bối mẫu sao vàng tán thành bột, uống mỗi lần 4g, ngày 3 lần hòa với nước sôi.

- Dùng bồ hoàng cả cây, cả lá giã nát đắp lên vú kết hợp sắc lấy nước mà uống sẽ khỏi.

Trường hợp nhọt vú mới phát:

- Trích cam thảo 12g sắc đặc uống, kết hợp với hút sữa nơi núm vú bị đau vài lần sẽ khỏi.

- Bồ công anh 40g, dây kim ngân 80g, bỏ vào ấm đất đun lấy một bát nước thật đặc, rồi uống.

- Bồ công anh, thiên hoa phấn, liên kiều, bối mẫu, bốn vị đồng lượng 4g, thanh bì 6g, sắc uống.

Khi nhọt mọc ở vú sưng đau, có thể dùng thuốc bôi trực tiếp vào đầu vú:

- Đan sâm 80g, thược dược 80g, tán thành bột rồi ngâm dấm một đêm, dùng 200g mỡ lợn đổ thuốc vào nấu thành cao, lọc bỏ bã. Dùng cao thuốc này bôi vào vú ngày 2-3 lần.

- Chi ma (hạt vừng) sao đen, nghiền nhỏ trộn với dầu hoả thành bột nhão, bôi vào vú.

- Xạ can, huyền thảo bằng lượng tán thành bột hoà thêm một ít mật, bôi vào chỗ đau.

- Hoàng liên 10g, binh lang (hạt cau) 10g, hai thứ đem tán bột, trộn với lòng trắng trứng gà, bôi vào nơi vú sưng đau, ngày 2-3 lần, liên tục vài ngày.

Trường hợp mưng mủ lâu không khỏi:

Toàn qua lâu (vỏ và hạt quả) 30g, thiên hoa phấn, hoàng cầm, liên kiều, thanh bì, tạo giác thích, ngưu bàng tử, sài hồ, chi tử, trần bì mỗi thứ 9g, kim ngân hoa 30g, bồ công anh 25g, xích thược 10g, sinh cam thảo 5g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần.

Để phòng bệnh, sản phụ phải luôn chú ý giữ gìn bầu vú sạch sẽ, cần lau, rửa vệ sinh trước và sau khi cho con bú, loại bỏ phần sữa thừa khi trẻ bú không hết, tránh ứ đọng lại. Bên cạnh việc quan tâm tới ăn uống, chế độ dinh dưỡng hằng ngày phải luôn tạo sự thoải mái trong sinh hoạt, cuộc sống. Nơi ăn ở phải thoáng mát, tránh ẩm ướt, nóng bức về mùa hè hoặc thiếu ấm áp về mùa đông.
Theo SKDS