Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

Bệnh ôn dịch

 Khi gặp khí hậu không đúng mùa: mùa xuân lại giá rét; mùa hạ lại mát mẻ; mùa thu lại nóng bức, mùa đông lại ấm áp...; con người dễ cảm nhiễm mà sinh bệnh, gọi là bệnh ôn dịch.

Bệnh truyền qua mũi, miệng. Người mắc chứng này, phần nhiều do chính khí bị khuy tổn, hoặc làm lụng vất vả quá độ, hoặc ăn uống lúc đói quá, lúc no quá,... nên tà khí nhiễm vào.

Triệu chứng bệnh ôn dịch

Khi mới phát bệnh, cảm giác người gai lạnh, sau phát sốt, nhiệt nhiều rét ít, dần dần chỉ sốt nóng mà không lạnh, nhức đầu, đau mình, mạch sác. Nếu để lâu không chữa, độc tà truyền vào tâm bào, khiến trong tâm nóng nảy và bức bách, tinh thần mê man. Cũng có khi tà nhiệt hãm ở hạ tiêu, khí đạo không thông hành được, làm cho tiểu tiện bị bít tắc; bụng dưới trướng đầy, đêm sốt nhiều. Người bị bệnh ôn dịch thường rêu lưỡi trắng rộp như bông, dần chuyển sắc vàng, hung cách đầy và đau, khát, phiền táo, là độc tà đã truyền vào tới vị. Nhiệt tà hun đúc ở bên trong, không bài tiết đi được; huyết bị nhiệt hun, lưu ở kinh lạc, hóa thành huyết tím, tràn sang trường, vị, lại biến thành sắc đen, lúc đó thì đại tiện dễ mà phân đen, bệnh nhân lại sinh chứng hay quên. Có khi nhiệt đi xuống khí phận ở hạ tiêu, thành chứng tiểu tiện không lợi. Có khi do tiểu tiện không lợi, tà khí bị uất tắc, kinh khí ngừng trệ mà biến thành chứng hoàng đản; nếu tà khí lưu ở huyết phận, sẽ phát ban.

Trị liệu chứng trúng thử

  Chứng trúng thử với cơ chế sinh bệnh là do: trên cơ sở chính khí hư suy (giảm sức đề kháng), 2 nhân tố gây bệnh là thử nhiệt hoặc thử thấp xâm nhập cơ thể, uất lại và nung đốt làm hao tổn âm dịch mà tạo thành bệnh.

Nếu nặng thì thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu tân dịch bị hao tổn quá nhiều thì phát sinh chứng hư thoát.

Chứng trúng thử trong y học cổ truyền có 2 mức độ: Nhẹ thì đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi rã rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vã; Nặng thì ngoài các triệu chứng trên còn có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.

Về mặt trị liệu, khi gặp tình trạng này phải hết sức nhanh chóng tiến hành các biện pháp sau đây:

Khẩn trương đưa người bệnh đến chỗ thoáng mát, cởi bỏ và nới rộng quần áo, cho uống một ít nước muối nhạt hoặc nước chín mát, dùng khăn thấm ướt nước lạnh hoặc rượu trắng lau các hốc tự nhiên như hõm nách, bẹn...

Một số huyệt cần tác động trị hoa mắt , chóng mặt, mệt mỏi trong chứng trúng thử.

Một số huyệt cần tác động trị hoa mắt , chóng mặt, mệt mỏi trong chứng trúng thử.

Nếu nặng, bất tỉnh nhân sự thì lập tức dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt Nhân trung và Thập tuyên. Vị trí huyệt Nhân trung: ở điểm nối 1/3 trên với 2/3 dưới của rãnh nhân trung, giữa đáy rãnh. Vị trí huyệt Thập tuyên: ở đỉnh cao nhất giữa 10 đầu ngón tay. Bấm các huyệt này có tác dụng khai khiếu (làm thức tỉnh) và tiết nhiệt (thải nhiệt, giải nhiệt). Sách Châm cứu khổng huyệt cập kỳ liệu pháp tiện lãm đã viết: “Thập tuyên là kỳ huyệt... dùng kim tam lăng hoặc kim lớn châm ra máu chủ trị tất cả các chứng mất thần cấp tính”.

Dùng gốc bàn tay day lòng bàn tay, lòng bàn chân và chỗ hõm giữa thắt lưng của người bệnh (có thể dùng một chút rượu trắng để xoa) sao cho tại chỗ nóng lên là được. Trong tư thế bệnh nhân nằm sấp, xác định và day mạnh huyệt Đại chuỳ nằm ở ngay dưới chỗ lồi lớn của ụ xương cổ thứ 7. Sau đó, Huyệt này có tác dụng thanh nhiệt và thông dương khí. Kinh nghiệm của cổ nhân thường phối hợp kích thích Thập tuyên với Đại chuỳ để trị sốt cao và chống say nắng.

Nếu bệnh nhân đã tỉnh nhưng còn mệt thì dùng tay xoa, day và vê các ngón chân của người bệnh. Điều này rất có lợi vì như vậy tác động đến các huyệt vị như Ẩn bạch, Chí âm, Hành gian, Thái xung, Đại đôn, Lệ đoài, Túc khiếu âm. Kế đó, dùng ngón tay cái nhẹ nhàng day huyệt Thái dương và dọc theo hai lông mày với một lực vừa phải.

Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, người ta còn có thể chọn dùng một trong các biện pháp kích thích hồi tỉnh như: dùng lá hẹ tươi hoặc nga bất thực thảo tươi hay gừng tươi hoặc tỏi tươi rửa sạch, giã nát, ép lấy nước để nhỏ vào lỗ mũi; dùng trầm hương và đàn hương đốt khói xông hai lỗ mũi... Khi bệnh nhân tỉnh, có thể cho uống nước sắc lá sen, lá hoắc hương và lá hương nhu tươi. Chú ý: dù người bệnh đã tỉnh hẳn vẫn không nên cho trở lại làm việc ngay mà phải được nghỉ ngơi một thời gian thích đáng.

 

Vị trí huyệt

Ẩn bạch: ở mé trong ngón chân cái, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.

Chí âm: ở mé ngoài đầu ngón chân út, cách góc móng khoảng 0,1 tấc về phía sau.

Hành gian: cách mép kẽ ngón chân 1 và 2 một khoảng 0,5 tấc.

Thái xung: ở kẽ ngón chân 1 và 2, cách mép da 2 tấc.

Ðại đôn: ở mé ngoài ngón chân cái, tại điểm giữa đường nối góc ngoài móng chân và khớp liên đốt ngón chân cái.

Lệ đoài: ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.

Túc khiếu âm: Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0,1 tấc về phía sau.

 

Chứng đại tràng thấp nhiệt

 Chứng đại tràng thấp nhiệt thường gặp trong các bệnh như: phúc thống, lỵ tật, thấp ôn, tiết tả, tràng ung, trĩ nội... Nguyên nhân thường do ăn uống không điều độ, ăn quá nhiều thức ăn cay nóng, uống nhiều rượu... làm tổn thương tỳ vị.

Biểu hiện ợ hăng, nuốt chua, bụng đầy, trướng, đại tiện tiết tả, tay chân nặng nề, ăn kém, hay buồn nôn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác. Tùy từng chứng trạng mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Do thấp nhiệt nung nấu uất kết  ở đại tràng

Triệu chứng: đau bụng, đau nhiều ở bụng dưới, mót rặn, đại tiện dính trệ, khó chịu, nóng rát ở giang môn.

Điều trị: Điều khí, thanh hóa thấp nhiệt.

Do thấp nhiệt dồn xuống sinh ra bệnh tiết tả

Triệu chứng: Khi đại tiện giang môn có cảm giác nóng rát, phân có màu đục như nước gạo hoặc có màu vàng, hôi khắm.

Điều trị: Thăng phát thanh khí của đại tràng, thanh hóa thấp nhiệt.

Do thấp nhiệt hun đốt làm tổn hại  khí huyết sinh ra chứng lỵ tật

Triệu chứng: Đại tiện ra máu mủ, giang môn nóng rát.

Điều trị: Thanh nhiệt, lương huyết, lợi thấp.

Do thấp nhiệt làm úng tắc đại tràng sinh ra chứng đại tràng ung (ung nhọt)

Triệu chứng: Phía bên phải bụng dưới của bệnh nhân đau dữ dội, kèm theo sốt.

Điều trị: Thanh lợi thấp nhiệt, hóa ứ, tiêu ung.

Do thấp nhiệt ủng kết ở bên dưới đại tràng sinh ra bệnh trĩ

Triệu chứng: Khi đại tiện thường ra máu tươi, nếu là trĩ ngoại thì lòi ra ngoài, đại tiện thì phải mót rặn, đau tức hậu môn.

Điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp, hành khí hoạt huyết.

Do thấp ôn sinh ra chứng đại tràng thấp nhiệt

Triệu chứng: bệnh nhân sốt dai dẳng, ra nhiều mồ hôi, không những nhiệt không lui mà xuất hiện triều nhiệt, đại tiện lỏng mà khó đi, bụng chướng đầy, ăn kém, có khi không muốn ăn.

Điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp.

Bệnh gút trong đông y

 Bệnh gút hầu hết là cấp tính, xảy ra đột ngột, thường vào ban đêm, không có triệu chứng báo trước như đau khớp dữ dội. Bệnh gút thường ảnh hưởng những khớp lớn trên ngón chân cái, nhưng cũng có thể ở khớp bàn chân, mắt cá chân, gối, bàn tay, cổ tay,... Cơn đau điển hình có thể kéo dài 5-10 ngày rồi ngưng. Khó chịu sẽ giảm dần dần sau 1-2 tuần.

Nguyên nhân do chính khí suy yếu, tấu lý sơ hở, tà khí thừa cơ xâm nhập cơ thể, lưu lại ở kinh lạc, gân cơ, xương khớp làm cho khí huyết không vận hành được mà sinh ra bệnh. Đối với bệnh gút thể cấp tính chủ yếu dùng phép thông kinh lạc, thanh nhiệt, khu phong, trừ thấp, hành khí, hoạt huyết.

Biểu hiện: Sưng đau các khớp, cơ, xương. Đau cố định dữ dội, ít hoặc không di chuyển, chân tay lạnh, rêu lưỡi trắng. Mạch phù, trì hoặc nhu hoãn.

Chứng đầy bụng, chậm tiêu

 Chứng vị quản thống trong y học cổ truyền là do lo lắng thái quá, suy nghĩ, nóng giận kéo dài ảnh hưởng đến chức năng của tạng tỳ, vị làm tỳ không kiện vận vị mất chức năng thu nạp dẫn đến khí trệ, huyết ứ, đau bụng, đầy bụng, chậm tiêu.

Nếu can khí uất lâu ngày sẽ hóa hỏa, hỏa sẽ thiêu đốt tân dịch làm tổn thương đến vị âm làm chính khí suy tổn. Ngoài ra, còn do ăn uống không điều độ như ăn quá no hoặc để quá đói, ăn quá nhiều chất béo, ngọt, cay nóng, chua, mặn, lạnh đều làm ảnh hưởng đến chức năng của tỳ vị mà gây nên bệnh.


Đông y chữa sạm da

 Sạm da là một bệnh da mắc phải do hắc tố lắng đọng quá mức. Tổn thương sạm da tại các vùng 2 bên má, mũi, quanh miệng.

Bệnh hay gặp ở phụ nữ trung niên, do khí huyết và hoạt động của các tạng phủ bắt đầu suy yếu. Đông y cho rằng bệnh phần nhiều do thận âm bất túc hoặc do can khí uất kết lâu ngày gây tổn thương âm huyết. Trên lâm sàng bệnh hay kèm với các triệu chứng của thận âm không đầy đủ, rối loạn kinh nguyệt, đau lưng mỏi gối, hoặc các triệu chứng của can khí uất, tinh thần dễ cáu gắt bực bội… 

Sạm da do tỳ vị suy yếu

Biểu hiện: Da nhợt nhạt, ngực bụng đầy tức, người mệt mỏi, ăn không tiêu, đau bụng khi hành kinh, tiểu tiện đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.

Sạm da do can khí uất kết

Biểu hiện: thường hay tức ngực, miệng khô, hỏa nhiệt bốc lên mặt, đau bụng dưới, kinh nguyệt không đều, đau đầu khi hành kinh, tâm trí bất an.

Sạm da do khí hư

Biểu hiện: Người mệt mỏi, kinh nguyệt không đều, sợ lạnh, nước tiểu trong, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng.

Sạm da do huyết hư

Biểu hiện: Người gầy yếu, da khô, sắc mặt vàng, hoa mắt, chóng mặt, đại tiện táo, tiểu vàng, nóng, người bứt rứt, mất ngủ, ra mồ hôi trộm, lưỡi nhạt, rêu vàng.

Chứng nhũ ung hay còn gọi áp-xe vú

 Chứng nhũ ung thường gặp ở các sản phụ thời kỳ đang cho con bú nhất là khi nhũ nhi mới chừng 1-2 tháng tuổi. Nguyên nhân do can khí uất kết, vị khí ủng trệ, nhiệt độc tích đọng lại hoặc do cảm nhiễm ngoại tà...

Y học hiện đại gọi là bệnh áp-xe tuyến vú. Tuyến vú bị tắc nghẽn, sữa ứ đọng cộng thêm điều kiện vệ sinh thiếu sạch sẽ hoặc do trẻ bú làm tổn thương đầu vú dẫn đến viêm tuyến vú. Bệnh tiến triển nhanh kèm theo phát nóng, phát sốt, bầu vú sưng to, sờ nắn thấy có cục kết rắn, sưng, nóng, đỏ, đau và sau có thể mưng mủ. Dân gian thường gọi lên “cái vú” chỉ chứng nhọt độc ở đầu vú.