Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020

Viêm loét miệng

 Viêm loét niêm mạc miệng thuộc phạm vi các chứng bệnh như “khẩu cam”, “khẩu sang”, “khẩu dương”... với nguyên nhân chủ yếu là do hư hỏa hay thực hỏa tác động vào các tạng phủ gây nên.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

 Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là tình trạng đau vùng thắt lưng, đau thần kinh tọa ở nhiều mức độ khác nhau: từ đau âm ỉ đến đau dữ dội, liên tục, đau tăng nhiều khi ho, hắt hơi và vận động di chuyển...

Theo y học cổ truyền (YHCT), thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng thuộc phạm vi các chứng yêu thống, yêu cước thống. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh là sự kết hợp giữa các yếu tố: ngoại nhân (phong hàn thấp xâm nhập), nội nhân (chính khí cơ thể bị hư yếu, rối loạn chức năng của các tạng phủ, nhất là tạng can và tạng thận) và bất nội ngoại nhân (trật đả ứ huyết).

Trị teo thần kinh thị

  Bệnh teo thần kinh thị là do sợi thần kinh thị giác (TKTG) ở người bệnh vì nguyên nhân nào đó mà phát sinh biến chứng làm ảnh hưởng đến công năng truyền dẫn các xung động của nó về trung ương thần kinh, làm cho người bệnh có thị lực giảm đi rõ rệt hoặc mất hẳn.

Bệnh teo thần kinh thị là do sợi thần kinh thị giác (TKTG) ở người bệnh vì nguyên nhân nào đó mà phát sinh biến chứng làm ảnh hưởng đến công năng truyền dẫn các xung động của nó về trung ương thần kinh, làm cho người bệnh có thị lực giảm đi rõ rệt hoặc mất hẳn.

Nguyên nhân của bệnh rất phức tạp, theo Đông y thì không ngoài 3 loại: hư chứng, thực chứng và hư thực giáp tạp. Hư chứng thường do can thận lương khuy; thực chứng thường do can khí uất kết, khi cơ không thông, khí huyết ứ trệ; hư thực giáp tạp thì thấy cả 2 chứng trên cùng phát tác.

Y học hiện đại cho rằng, nguyên nhân teo thần kinh thị thường do tổn thương thần kinh chi phối vùng mặt như giao thoa thị và bó thị cũng có thể do nhiễm độc một số chất có độc tố cao như chì, thạch tín... Hoặc do viêm gai thị, viêm màng mạch, lạc võng mạc, do di truyền...

Đông y phân thành các thể sau:

Can thận khuy hư: Vùng mắt khô rít, nhìn vật mờ tối, sức nhìn giảm dần, có thể kèm theo mù màu, thậm chí mù hẳn. Kèm theo đau đầu, ù tai, mồ hôi trộm, lưỡi hồng ít rêu, mạch nhanh nhỏ.

Khí trệ huyết ứ: Nhìn vật mờ tối, thậm chí mất sáng, tinh thần uất ức, ngực sườn đau, dạ buồn..., ăn ít, lưỡi hồng, rêu lưỡi trắng, mạch căng như dây đàn.

Tam doanh khuy tổn: Người bệnh mí mắt màu trắng, mắt mờ dần, thậm chí mù hẳn. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch nhỏ, yếu, không có sức.

 

Phương pháp trị liệu: Nguyên tắc của Đông y là sơ can lý khí, dưỡng huyết thông lạc.

Trị tiểu ra dưỡng chấp

  Đi tiểu ra dưỡng chấp là tình trạng nước tiểu ra đục như sữa, như nước vo gạo. Đây là bệnh thuộc chứng ngũ lâm, cao lâm của y học cổ truyền.

Nguyên nhân do giun chỉ Filaricabancrofti trưởng thành, khu trú trong bạch mạch của bể thận gây ra viêm tắc, phồng bạch mạch sinh la lỗ rò, bạch huyết vào trong bể thận và đi tiểu ra dưỡng chấp. Bệnh có liên quan đến tỳ và thận.

Đi tiểu ra dưỡng chấp được chia làm 2 loại: tiểu ra dưỡng chấp đơn thuần (bạch trọc) và tiểu ra dưỡng chấp lẫn máu đỏ (xích trọc). 

Tiểu ra dưỡng chấp lẫn máu đỏ (xích trọc): 

Người bệnh nước tiểu đục, màu đỏ,  tiểu bình thường hoặc hơi rát, đau lưng, ù tai, rêu lưỡi vàng, mạch trầm sác. Phương pháp chữa là ích khí thanh tâm, lợi tiểu.

Tiểu ra dưỡng chấp đơn thuần (bạch trọc): 

Người bệnh nước tiểu trắng như hồ gạo, rêu lưỡi trắng dày, mạch hoạt. Phương pháp chữa là thanh nhiệt lợi thấp.

Nếu kèm phiền nhiệt, miệng khát lưỡi đỏ, mạch tế sác là do âm hư thấp nhiệt. Phương pháp chữa là tư âm thanh thấp nhiệt. 

Nếu sắc mặt xanh trắng, chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi, mạch trầm do thận dương hư. Phương pháp chữa là ôn thận cố sáp. 

Chứng phong ôn

 Trong Đông y, chứng phong ôn (khái suyễn, mã tỳ phong) lúc mới phát bệnh thường có sốt, sợ gió, đau đầu, khát nước, ho - đặc trưng bệnh lý của phế và vệ khí.

Các bệnh cúm, viêm phổi, viêm màng não... thuộc phạm trù của phong ôn. Nguyên nhân là do chính khí suy nhược, công năng tạng phủ rối loạn khiến tà khí bên ngoài xâm nhập bên trong cơ thể mà gây nên bệnh. Biểu hiện sốt, ho nhiều, ngạt mũi, đau tức ngực, môi khô, miệng khát, đại tiện táo kết, tiểu tiện sẻn... 

Thể Phong tà bế phế

Triệu chứng: Phát sốt, ho, khó thở, khạc đờm trắng loãng, không có mồ hôi, không khát, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn hoặc phù sác.

Điều trị: Tân ôn giải biểu, tuyên phế hóa đàm.

Thể Phong nhiệt bế phế

Triệu chứng: Sốt cao, ho nhiều, khó thở, vã mồ hôi, miệng khát, ngực đau, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.

Điều trị: Tân lương giải biểu, tuyên phế hóa đàm.

Thể Phong ôn bế phế

Triệu chứng: Ho và khó thở nhiều, tắc mũi, sốt cao, vã mồ hôi, phiền khát, đau ngực, môi miệng xanh tím, đờm vàng dính, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch sác.

Điều trị: Thanh nhiệt giải biểu, tuyên phế bình suyễn.

Thể Đàm nhiệt bế phế

Triệu chứng: Ho và khó thở nhiều, sốt cao, môi khô miệng khát, khạc đờm nhiều màu vàng và dính, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dính, mạch khẩn sác.

Điều trị: Thanh nhiệt tuyên phế, dục đàm bình suyễn.

Trị chóng mặt, ù tai

 Hội chứng chóng mặt ù tai, nôn mửa... thuộc phạm vi chứng huyễn vựng của y học cổ truyền.

Thể can phong do can dương thượng xung, can hỏa vượng, thường gặp ở người bị tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, rối loạn giao cảm. Người bệnh thấy hoa mắt, chóng mặt, ù tai, miệng khô, đắng, phiền táo, dễ cáu gắt, mất ngủ hoặc ngủ không sâu, đầu lưỡi đỏ, mạch huyền.

Để điều trị, Đông y dùng phép bình can tức phong, tiềm dương hoặc bổ thận âm, bổ can huyết tiềm dương.


Chứng phế thận âm hư

 Chứng phế thận âm hư là chỉ phế âm khuy tổn, bệnh lâu ngày liên lụy đến thận, xuất hiện chứng âm suy, tân dịch của hai tạng phế thận bất túc, phế lạc bị tổn hại, dẫn đến thủy suy hỏa vượng, bệnh phần nhiều do tà nhiệt vướng vất ở phế hoặc do buồn thương quá độ hoặc do phòng lao quá độ mà gây nên.

Chứng phế thận âm hư thường gặp trong các bệnh: khái thấu, suyễn chứng, thất âm, hư lao, tiêu khát. Dưới đây là một số bài thuốc điều trị:

Do phế thận âm hư sinh chứng khái thấu

Nguyên nhân: Do nhiệt tà làm tổn thương phế, phế lạc bị tổn hại, dần dà lan tỏa tới thận mà biến thành chứng phế thận âm hư.

Triệu chứng: Bệnh nhân khái thấu ít đờm hoặc trong đờm có lẫn máu ngũ tâm phiền nhiệt, bệnh thường nặng về đêm, họng khô, tai ù, miệng ráo, choáng váng, cơ thể gầy còm, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.

Phép trị: Tư dưỡng thận âm, nhuận phế chỉ khái.

Do phế thận âm hư sinh hen suyễn

Nguyên nhân: Do khái suyễn lâu ngày, bệnh ở phế liên lụy đến thận. Phế kim không sinh thận thủy (bệnh mẹ liên lụy đến con) dẫn đến phế thận âm cùng hư.

Triệu chứng: Bệnh nhân suyễn gấp, hễ lao động thì bệnh tăng, tinh thần mệt mỏi.

Phép trị: Bổ phế chế thủy.

Do phế thận âm hư sinh chứng thất âm (mất tiếng)

Nguyên nhân do táo hỏa làm tổn thương âm, tân dịch bị hun đốt, nếu bệnh lâu ngày thì phế thận đều suy, sự thanh túc của phế kim yếu đi, thận âm không đủ thủy để dâng lên làm khàn tiếng hoặc tiếng nói bị biến dạng.

Triệu chứng: Bệnh nhân thường khàn tiếng, họng ráo, ho khan ít đờm, hư phiền ngủ kém, lòng bàn tay lòng bàn chân nóng, lưng đùi yếu, lưỡi đỏ mạch tế sác.

Điều trị: Dưỡng âm nhuận phế, hóa đờm.

Do hư lao xuất hiện chứng phế thận âm hư

Nguyên nhân: Do ốm lâu ngày dẫn đến hư lao, làm tổn thương đến phần âm của phế và thận.

Triệu chứng: Bệnh nhân thường có chứng mỏi lưng, triều nhiệt vãng lai, váng đầu, ù tai, họng ráo, ho khan, khạc ra huyết, lưỡi sáng, ít tân dịch, mạch tế sác.

Điều trị: Dưỡng âm nhuận phế, tư thận ích tinh.

Do phế thận âm hư sinh bệnh tiêu khát (đái tháo đường)

Nguyên nhân: Do táo nhiệt phạm phế hoặc do buông thả tình dục, tinh khí suy tổn, thận âm bị tổn hao, dẫn đến phế thận âm hư, phế mất chức năng trị tiết, sự nhiếp nạp của thận không bền, mất tác dụng co thắt, thủy dịch dồn thẳng xuống mà sinh bệnh.

Triệu chứng: Bệnh nhân tiểu tiện nhiều lần trong ngày mà sinh ra chứng tiêu khát.

Phép trị: Nhuận phế tư thận, sinh tân trừ khát.