Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020

Chứng đau cột sống

 Đau cột sống là chứng bệnh thường gặp ở cả “nam, phụ, lão, ấu”. Cột sống là chỉ phần xương chạy từ phần tiếp giáp xương sọ đến xương cùng cụt. Khi cột sống bị tổn thương sẽ có rất nhiều biểu hiện khác nhau tùy từng đoạn cột sống bị bệnh.

Đau cột sống là chứng bệnh thường gặp ở cả “nam, phụ, lão, ấu”. Cột sống là chỉ phần xương chạy từ phần tiếp giáp xương sọ đến xương cùng cụt. Khi cột sống bị tổn thương sẽ có rất nhiều biểu hiện khác nhau tùy từng đoạn cột sống bị bệnh. Có thể rối loạn về cảm giác, vận động của cơ bắp, hay rối loạn hoạt động của các cơ quan bên trong như thay đổi nhịp tim, huyết áp, đầy trướng bụng...

Nói đến cột sống, các thầy thuốc Đông y thường liên hệ tới tạng thận. Thận tàng tinh, sinh tinh, sinh tủy. Thận chủ xương, phủ của thận ở vùng thắt lưng. Các nguyên nhân gây tổn thương thận thường gặp là:

Cha mẹ yếu sinh ra con yếu, có thể có dị tật ở xương sống. Khi còn nhỏ chế độ dinh dưỡng thiếu hay sai sẽ làm còi xương suy dinh dưỡng. Khi ngồi học khoảng cách bàn ghế không hợp lý, trẻ ngồi vẹo, lệch người làm biến dạng cột sống. Lớn lên trong lao động phải khiêng xách nặng kéo dài, hay lao động nơi chật hẹp, gò bó ẩm thấp, gây ra cột sống bị chèn ép. Do ăn uống sinh hoạt không hợp lý, quá ham mê tửu sắc (đa dâm hại thận).

Nguyên nhân bên trong gây viêm dính cột sống, lao, ung thư. Chấn thương có thể gây xẹp cột sống, hay đĩa đệm giữa hai đốt bật ra ngoài. Nơi hay bị trật là vùng thắt lưng.

Vậy cách phòng chống bệnh cột sống phải được chú ý từ lúc còn ở tuổi nhà trẻ, mẫu giáo tới khi già. Hằng ngày chú ý tư thế đứng, ngồi sao cho ngay ngắn, cho xương sống không quá bị cúi, gập, cong vẹo kéo dài. Nếu phải lao động ở tư thế bất lợi thì nên xen kẽ thời gian nghỉ, để cột sống được trở lại trạng thái cân bằng.

Khi đã bị bệnh nghĩa là có biểu hiện đau vùng cột sống (ở cổ, hay ở thắt lưng...) càng cần chú ý phòng bệnh, để bệnh bớt tăng lên. Không chạy nhảy, không khiêng xách nặng, lệch tư thế, cần sinh hoạt điều độ.

Đông y có hai cách chữa. Một là hướng dẫn người bệnh một số động tác luyện tập để nới giãn cột sống, có thể bơi hằng ngày, hoặc xoa bóp, châm cứu. Hai là dùng thuốc tác dụng bên ngoài hay thuốc uống bên trong.

Sỏi tiết niệu trong đông y

 Sỏi tiết niệu là một bệnh thường gặp và hay tái phát ở đường tiết niệu do sự kết thạch của một số thành phần trong nước tiểu ở điều kiện lý hóa nhất định.

Đông y có những bài thuốc điều trị chứng bệnh này tùy theo từng thể bệnh.

Sỏi gây nghẽn tắc đường tiết niệu mà hậu quả có thể dẫn đến ứ nước thận và hủy hoại tổ chức thận, gây nhiễm khuẩn và gây đau, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh.

Sỏi tiết niệu được mô tả trong chứng thạch lâm, một trong 5 chứng lâm được YHCT gọi là chứng ngũ lâm, đó là: nhiệt lâm, huyết lâm, thạch lâm, cao lâm, lao lâm.

Chứng trạng của thạch lâm: bụng dưới đau co cứng, một bên thăn lưng đau quặn, đau lan xuống bụng dưới và bộ phận sinh dục, tiểu tiện đau buốt khó đi, nước tiểu có khi vàng đục có khi ra máu, có khi ra lẫn sỏi cát.

Nguyên nhân do thấp nhiệt nung nấu ở hạ tiêu khiến ngưng kết trong nước tiểu mà gây bệnh.

Điều trị theo y học cổ truyền

Sỏi tiết niệu thể thấp nhiệt:

Triệu chứng: đau từ eo lưng lan xuống đùi và bộ phận sinh dục ngoài; tiểu tiện vàng sẻn, đỏ đục, nóng rát.

Phép trị: thanh nhiệt, bài thạch, trừ thấp, lợi niệu.

Sỏi tiết niệu thể khí huyết ứ trệ

- Khi đi tiểu thấy đau tức và nặng trước âm nang, tiểu tiện máu đỏ tươi, đi tiểu không hết.

- Nước tiểu vừa có máu vừa đục.

- Lưỡi có điểm ứ huyết.

- Mạch khẩn.

Phép trị: lý khí hành trệ, thông lâm bài thạch.

Sỏi tiết niệu thận hư

- Tiểu ít, đục có mủ, bệnh âm ỉ, sốt kéo dài.

- Người mệt mỏi, bụng trướng hoặc phù thũng, sắc mặt trắng bệch.

- Lưỡi nhợt bệu, rêu trắng dính.

- Mạch tế sác vô lực.

Phép trị: bổ thận, lợi niệu, thông lâm.


Tăng huyết áp

  Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến nhất trong các bệnh tim mạch. Nguyên nhân do nhiều yếu tố như xơ vữa động mạch, bệnh ở thận, hoặc trong giai đoạn tiền mãn kinh...

Tăng huyết áp độ 1 (chỉ số huyết áp 140 - 159/ 90 - 99 mmHg); tăng huyết áp độ 2 (160 -175/100 - 109mmHg); tăng huyết áp độ 3 (trên 180/120mmHg). Theo y học cổ truyền, tăng huyết áp thuộc phạm vi các chứng huyễn vựng (chóng mặt, hoa mắt), đầu thống (nhức đầu), thất miên (mất ngủ)...

Nguyên nhân do các tạng can, thận, tỳ, bị mất điều hòa mà gây ra bệnh. Ngoài ra còn do đàm thấp, hay gặp ở những người béo và cholesterol  máu cao. Người bệnh có biểu hiện đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, mất ngủ, tính tình hay cáu gắt. 


Bệnh phong thấp

 Phong thấp là bệnh rất phổ biến ở người trung niên và cao tuổi, thường gặp vào mùa đông xuân, mỗi khi thời tiết thay đổi và dai dẳng, lặp lại nhiều lần.

Người bệnh đau nhức và sưng các khớp, nhất là những khớp xương nhỏ của bàn tay và bàn chân.

Theo Đông y, đau nhức xương khớp thuộc phạm vi chứng tý, nguyên nhân do khí huyết không lưu thông tốt, gây ra bế tắc kinh lạc. Bệnh chia làm hai thể: do phong hàn và thấp nhiệt gây ra. Ngoài việc dùng thuốc thì dược thiện cũng là một phương pháp độc đáo hỗ trợ điều trị hiệu quả. 

Phong thấp thể phong hàn:

 Người bệnh đau nhức trong xương, chủ yếu hai chi dưới. Đau âm ỉ, khi gặp gió lạnh thì đau tăng lên. Chân bên đau bị lạnh, đau nhức kéo dài làm người bệnh mệt mỏi, mất ngủ, cơ thể suy nhược, ăn uống kém, hạn chế vận động.

Phong thấp thể thấp nhiệt: 

Người bệnh đau nóng đỏ các khớp xương, đau có tính chất cố định. Nguyên nhân do âm hư sinh nội nhiệt, kết hợp với thấp tà ứ kết lâu ngày sinh ra. Kèm theo người bệnh trằn trọc mất ngủ, chất lưỡi đỏ, váng đầu, bốc hỏa từng cơn. Nếu là nam giới dễ bị di tinh hoạt tinh, răng lung lay...


Nấc do lạnh

 Nấc trong y học cổ truyền gọi là ách nghịch. Nguyên nhân do sự điều hòa tân dịch không thuận, ăn uống nóng quá, lạnh quá hoặc do trạng thái tâm lý lo lắng, căng thẳng, kích thích; Nấc do thực tích, bụng sườn đầy tức; Nấc do lạnh; Nấc do nhiệt…

Nấc cụt có khi đơn giản tự hết trong ít phút nhưng cũng có khi dai dẳng. Tiếng do lạnh: tiếng nấc mạnh, thưa, trong dạ dày cảm thấy lạnh, ợ ra nước trong, tiểu tiện nhiều, chườm nóng thì đỡ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tiểu khẩn... Nấc do nhiệt: miệng hôi, khát nước, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện táo kết, người nóng bứt rứt, lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Trị viêm họng

 Họng là nơi giao thông giữa khí quản với thực quản nên các bệnh ở họng có liên quan mật thiết đến các bệnh ở phế và vị.

Viêm họng có 2 thể: cấp tính và mạn tính. Bệnh cấp tính ở họng thường do phong hàn, phong nhiệt hay do nhiệt từ vị gây ra. Các bệnh mạn tính ở họng thường do phế âm hư hay vị âm hư.

Các bệnh cấp tính ở họng do phong hàn, phong nhiệt, phép chữa là phát tán biểu tà; nếu họng sưng, đau, đỏ có mủ loét thì phải thanh nhiệt giải độc; nếu khạc ra nhiều đờm thì phải trừ đàm. Bệnh mạn tính, nếu họng khô khạc ra máu, viêm nhiễm lâu ngày, phép chữa là dưỡng âm nhuận phế hay dưỡng âm sinh tân. Sau đây là một số bài thuốc trị viêm họng cấp:

Người bệnh có triệu chứng họng đỏ khô, đau rát, niêm mạc họng hơi phù nề, sung huyết kèm theo các triệu chứng toàn thân như sốt, sợ lạnh, nhức đầu. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. 

Liệt thần kinh VII ngoại vi

 Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng.

Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng. Trong Đông y được quy thành 3 chứng trạng chủ yếu là: phong hàn, phong nhiệt và huyết ứ... Liệt dây thần kinh VII ngoại vi có nhiều phương pháp trị liệu khác nhau. Bài viết sau xin giới thiệu phương pháp tự xoa bóp, bấm huyệt để bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần.

Nguyên nhân gây liệt thần kinh VII thường do cảm nhiễm phong hàn, phong nhiệt hoặc do chấn thương làm bế tắc sự vận hành của kinh mạch gây ra méo miệng, mắt nhắm không kín, nhân trung lệch sang bên lành, cơ bên liệt co cứng hay teo nhẽo, ăn uống rơi vãi...