Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Chẩn mạch của y học cổ truyền

 Chẩn mạch (xem mạch) là một trong các phương pháp đoán bệnh của thầy thuốc xưa và vẫn vẹn nguyên giá trị cho đến ngày nay. việc chẩn mạch, có thể “nói” được bệnh trạng của một người mà không thông qua các phương tiện xâm lấn, ít tốn thời gian và chi phí.

Chẩn mạch là gì?

Chẩn mạch thuộc Thiết chẩn, là một trong bốn phương pháp chẩn đoán của y học cổ truyền (bốn phép chẩn của y học cổ truyền gồm: Vọng, Văn, Vấn, Thiết). Ngày nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp các phương tiện chẩn đoán hiện đại nhìn thấu “bụng dạ” con người như CT-scan, X-quang, siêu âm... thì xưa kia các cụ nhà ta đã có thể tỏ tường qua việc xem mạch.

Xem mạch là việc người thầy thuốc bên ngoài thì đặt ba ngón tay của mình vào vị trí nhất định trên cổ tay bệnh nhân, bên trong thì dùng trí để phân tích, phán đoán bệnh tình.

Quan hệ giữa mạch và khí huyết

Mạch (kinh mạch, huyết mạch) là nơi tuần hoàn khí- huyết dịch trong cơ thể, có thể ví như hệ thống sông suối trên mặt đất, cứ chảy không ngừng, trong thì nuôi tạng phủ, ngoài thì nuôi bì phu, cơ nhục. Mạch phải có khí huyết thì mới có sự sống, mạch rỗng thì vô dụng. Khí huyết phải có mạch dẫn đường thì mới đi đúng hướng, khí huyết không có mạch thì vận hành tán loạn.

Lại nói, huyết có nguồn gốc từ tinh chất của thức ăn, rồi qua Tâm hóa ra sắc đỏ mà thành. Khí trong mạch nhận từ tiên thiên thận khí (do quá trình giao hợp mà thành) và hậu thiên tỳ khí (do ăn uống mà thành). Vì “khí hành thì huyết hành” nên khí huyết nương tựa nhau rồi đi khắp cơ thể. Cũng từ đó, bệnh tật trong người dù do thất tình (bảy loại tình cảm của con người: hỷ, nộ, ái, ố, bi, tư, khủng) hay lục dâm (sáu loại khí trong thiên nhiên: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa) đều theo sự lưu hành của khí huyết mà báo hiệu ra mạch: khí huyết thịnh thì mạch thịnh, khí huyết suy thì mạch suy, khí huyết hòa thì mạch bình, khí huyết loạn thì mạch bệnh.

Tiếng nói của “mạch”

Xem mạch nơi cổ tay, sao lại “rõ trong lòng”?

Vị trí mạch nơi cổ tay gọi là Mạch Thốn Khẩu - nghĩa là cái cửa của mạch, dài hơn một tấc. Nơi đó có ba bộ theo thứ tự là Thốn, Quan, Xích. Theo học thuyết Tam tài: bộ Quan ở giữa, ứng với người, là nơi âm dương hội tụ; bộ Thốn ở ngoài, sát nếp cổ tay, ứng với trời, thuộc dương; bộ Xích ở trong, ứng với đất, thuộc âm. Mỗi bộ vị ở hai tay ứng với các tạng phủ khác nhau trong cơ thể.

Sở dĩ toàn thân có mười hai kinh chính, mỗi kinh lại đều có chỗ bắt được nhịp đập của  mạch nhưng thầy thuốc chỉ bắt Mạch Thốn Khẩu là vì mạch ấy nằm trên kinh Thủ Thái âm Phế - là con đường chủ yếu của hô hấp, mà hô hấp lại có quan hệ mật thiết với sự lưu thông của huyết mạch, toàn bộ khí trong cơ thể đều họp nơi Phế nên có thể phản ánh được tình trạng của các kinh- chính vì thế nên “rõ trong lòng”. Và nếu chưa rõ tận tường, ta có thể nhờ sự hỗ trợ của các mạch khác, bao gồm: mạch Thái dương (mạch ngoài kinh), mạch Toản trúc (túc Thái dương Bàng quang kinh), mạch Thính cung (thủ Thái dương Tiểu trường kinh), mạch Cự liêu, mạch Nhân nghinh, mạch Xung dương (đều ở túc Dương minh Vị kinh), mạch Thái khê (túc Thiếu âm Thận kinh), mạch Thái xung (túc Quyết âm Can kinh), mạch Hợp cốc (thủ Dương minh Đại trường kinh), mạch Thần môn (thủ Thiếu âm Tâm kinh), mạch Cơ môn (túc Thái âm Tỳ kinh), ngoài ra còn có cả Tề chẩn- phúc chẩn, là xem mạch rốn và mạch bụng.

Nguyên tắc xem mạch

Thời gian xem mạch tốt nhất là buổi sáng sớm vì chúng ta đã được trải qua giấc ngủ để hồi phục cơ thể, tinh thần sảng khoái, dạ dày trống rỗng, tay chân chưa hoạt động nên khí huyết được yên tĩnh, lưu thông điều độ, xem mạch rất chính xác. Tuy nhiên, với bộn bề công việc thì việc xem mạch thời điểm ấy rất khó khăn, thế nên bệnh nhân giữ được tâm tĩnh lặng, tư thế thoải mái lúc chẩn bệnh đã là rất tốt.

Việc chẩn đoán chính xác bệnh phụ thuộc rất nhiều vào sự tinh tường, tỉ mỉ, cẩn trọng của thầy thuốc, vì vậy có nhiều nguyên tắc xem mạch được đặt ra: trước hết đó là sự tĩnh tâm, gạt bỏ các tạp ý, sự ồn ào của ngoại cảnh, rồi tập trung vào hơi thở để điều hòa cùng hơi thở của bệnh nhân, mạch phải xem ba bậc (phù, trung, trầm) ở ba bộ, lại phải so sánh trước sau, so sánh hai bên- gọi là “thất chẩn” và “cửu hậu”.

Triết học Đông phương trong việc xem mạch

Khi xem mạch, tay trái của thầy thuốc sẽ xem mạch ở tay phải của bệnh nhân và ngược lại. Điều này làm cho âm dương được giao hòa. Sách “Định Ninh - Tôi học mạch” có đoạn viết: nhiều cụ già ngoài y giới thường truyền khẩu cho con cháu: tao thấy thầy thuốc giỏi khi xem mạch thì đàn ông tay trái trước, tay mặt sau, đàn bà tay mặt trước, tay trái sau... nghĩa là nam tả nữ hữu mới đúng vậy. Điều ấy bởi đạo trời đất, nam thuộc dương, mà tay trái thuộc dương, chủ về dương thì phải mạnh hơn âm; nữ thì thuộc âm, tay trái thuộc âm, chủ về âm thì phải mạnh hơn dương. Khi xem theo trật tự như thế thì có thể phán đoán được âm dương thăng- giáng, thuận- nghịch để tìm ra bệnh. Thế nhưng khi xem về Mệnh môn (liên quan đến sự sống còn- Mệnh môn nghĩa là cánh cửa của sự sống) thì ngược lại: nam hữu nữ tả. Vì dương khí vận hành theo đạo trời, đi từ trái sang phải, còn âm khí vận hành theo đạo đất, đi từ phải sang trái.

Qua ít dòng viết trên, chúng ta có thể phần nào hình dung được việc chẩn đoán qua xem mạch. Không chỉ nói được bệnh lý thực thể như các phương tiện cân lâm sàng hiện đại mà xem mạch còn có thể biết được tâm tư, tình cảm của một người. Thế nên mới nói “Tiếng mạch nói hộ lòng tôi”- hễ xem mạch thì “biết tuốt”.


Nhức đầu do ngoại cảm trong đông y

 Nhức đầu là một triệu chứng hay gặp của rất nhiều bệnh. Theo YHCT, nếu đau đầu đột ngột và kéo dài vài ngày là do ngoại cảm; nếu khi đau khi không và đau âm ỉ là nội thương.

Đau đầu do ngoại cảm phần lớn là thực chứng nên phải lấy khu phong tán tà là chính (khu phong tán hàn, khu phong thanh nhiệt, khu phong táo thấp).

Đau đầu do phong hàn:

 Người bệnh có biểu hiện đau đầu, sợ lạnh, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, không khát nước, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.  

Phép chữa đau đầu do phong hàn :

 sơ phong tán hàn.

Đau đầu do phong nhiệt:

 Người bệnh có biểu hiện đau đầu, sợ gió, khát nước, đau cổ họng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù sác. 

Phép chữa đau đầu do phong nhiệt :

 Sơ phong, thanh nhiệt. 

Đau đầu do phong thấp: 

Người bệnh biểu hiện nhức đầu, sợ gió, lồng ngực buồn bực, mỏi mệt, rêu lưỡi trắng trơn, ướt, mạch phù hoãn là thiên về hàn; rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác là thiên về nhiệt.

 Phép chữa đau đầu do phong thấp :

khu phong hóa thấp.

Trị mụn nhọt theo đông y

 Mụn là bệnh do nang lông - tuyến bã ở da hoạt động thái quá làm tiết nhiều bã nhờn trong khi miệng nang lông lại bị bít kín do tăng sừng hoá, chất bã nhờn bị ứ đọng lại ở lỗ chân lông tạo thành nhân mụn.

Khi nhân mụn hình thành thường có sự phát triển, tăng sinh một loại vi khuẩn ở lỗ chân lông gây nên tình trạng viêm đỏ của mụn mủ.

Theo y học cổ truyền, nguyên nhân gây ra mụn nhọt là do hoả độc gây ra, một số trường hợp hay tái phát do tình trạng nhiễm khuẩn mà y học cổ truyền gọi là nhiệt huyết. 

Giai đoạn viêm nhiễm (khởi phát)

Biểu hiện: Mụn nhỏ hình thành, ngứa, nóng, muốn gãi, giai đoạn này dùng phương pháp thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm.

Giai đoạn hoá mủ

Biểu hiện: mụn sưng tấy thành nhọt bọc có mủ, nóng, đỏ, sốt. Dùng phương pháp thác độc bài nùng (đưa độc ra ngoài, trừ mủ).

Giai đoạn vỡ mủ

Dùng phương pháp khử hư sinh cơ (làm mất các tổ chức hoại tử, làm liền da).

Thiểu năng tuần hoàn não

 Thiểu năng tuần hoàn não là tình trạng thiếu máu cung cấp cho não, bệnh có thể gặp ở nhiều lứa tuổi, phổ biến nhất ở người lao động trí óc và người cao tuổi.

Nguyên nhân chính là do xơ vữa các động mạch nuôi não, co cứng các cơ vùng cổ gáy cũng gây cản trở máu lưu thông lên não...

Thiểu năng tuần hoàn não thường biểu hiện với các triệu chứng như: Nhức đầu, chóng mặt, dị cảm, rối loạn về giấc ngủ, rối loạn về sự chú ý, rối loạn về cảm xúc... 

Đau vùng thượng vị trong đông y

 Đau vùng thượng vị, Đông y còn gọi là vị quản thống, tâm vị thống.

Phần nhiều do ăn uống không điều độ, nóng lạnh thất thường hoặc lo nghĩ, lao lực khiến tỳ vị tổn thương. Để tăng hiệu quả điều trị, người bệnh nên ăn các món sau:

Đau lâm râm vùng thượng vị, ăn lạnh đau tăng, ăn ấm dễ chịu: 

nguyên nhân do tỳ vị hư hàn. Phép trị ôn bổ tỳ vị. 

Đau vùng thượng vị do tỳ vị nhiệt:   

người bênh cảm giác nóng rát

Đau vùng thượng vị do tâm tỳ hư

 Biểu hiện mỗi khi người bệnh suy nghĩ căng thẳng đau tăng, ăn ngủ kém 

Say nắng trong y học cổ truyền

 Trong y học cổ truyền, say nắng say nóng được gọi là chứng Trúng thử với cơ chế sinh bệnh là do: trên cơ sở chính khí hư suy (giảm sức đề kháng), hai nhân tố gây bệnh là thử nhiệt hoặc thử thấp xâm nhập vào cơ thể, uất lại và nung đốt làm hao tổn âm dịch mà tạo thành bệnh.

Nếu nặng thì thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu tân dịch bị hao tổn quá nhiều thì phát sinh chứng hư thoát.

Say nắng, say nóng thường thể hiện ở hai mức độ: Nhẹ thì đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi rã rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vã; Nặng thì ngoài các triệu chứng trên còn có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.

H-uyết áp thấp trong đông y

 Theo Đông y, huyết áp thấp thuộc chứng huyễn vựng (huyễn là hoa mắt, vựng là chóng mặt). Nguyên nhân phổ biến của bệnh này là do khí huyết hư làm cho não thiếu sự nuôi dưỡng gây nên chứng hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, váng đầu, sắc mặt nhợt nhạt, tay chân yếu run, mạch vô lực...

Theo Tổ chức Y tế thế giới, huyết áp thấp là biểu hiện của sự rối loạn chức năng vỏ não của trung khu thần kinh vận mạch. Bệnh nhân được coi là huyết áp thấp khi trị số huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) dưới 90mmHg (milimét thuỷ ngân) và huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu) dưới 60mmHg. Có hai loại: huyết áp thấp tiên phát (do thể trạng) và huyết áp thấp thứ phát (do các bệnh lý khác). Những người huyết áp thấp thường có biểu hiện: mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, giảm tập trung trí lực, khi thay đổi tư thế có thể choáng váng, thoáng ngất hoặc ngất.