Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Béo phì theo y học cổ truyền

  Theo y học cổ truyền, béo phì thuộc phạm trù Phì nhân, Nhục nhân; do nhiều nguyên nhân như ngoại cảm thấp tà nhập lý vào tạng phủ và do nội thương ảnh hưởng đến công năng của...

Theo y học cổ truyền, béo phì thuộc phạm trù Phì nhân, Nhục nhân; 

do nhiều nguyên nhân như ngoại cảm thấp tà nhập lý vào tạng phủ và do nội thương ảnh hưởng đến công năng của: tỳ, thận, can, đởm. Nguyên nhân do tỳ thận dương hư, can đởm thất điều làm cho khí cơ không được lưu thông. 

Hóa thấp pháp gây béo phì :

 do tỳ hư vận hóa không tốt làm cho thấp tụ lại mà gây béo phì, biểu hiện người mệt mỏi, ăn uống không ngon, tâm ngực đầy tức, rêu lưỡi bẩn, mạch trầm tế.

Lợi thủy pháp gây béo phì : 

hay gặp ở những người béo bệu, mặt phù chân phù, tiểu tiện ít, bụng trướng, đại tiện nát, mạch trầm tế.

Thông phủ pháp gây béo phì :

 thường gặp ở những người béo phì do ăn nhiều đồ béo ngọt, uống rượu nhiều, đại tiện bí kết, đàm trọc tích tụ, phủ khí không thông mà kèm theo có bụng trướng, tức ngực khó chịu, rêu lưỡi vàng dày, mạch thực.

Sơ lợi pháp gây béo phì :

người béo phì kiêm có can uất khí trệ hoặc huyết ứ. Biểu hiện đau mạng sườn, cấp táo, huyễn vựng, mệt mỏi, bụng trướng, miệng đắng phiền muộn, phụ nữ kinh nguyệt không đều, kinh bế hoặc trước kỳ kinh nhũ phòng trướng đau, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.

Kiện tỳ pháp gây béo phì :

 thường có biểu hiện của tỳ hư khí nhược, người mệt mỏi không có lực, đoản khí ngại nói, ăn uống kém, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược vô lực.

Tiêu đạo pháp gây béo phì : 

gặp ở những người ăn ít mà vẫn béo phì, mệt mỏi ngại vận động, sau ăn bụng trướng đầy khó tiêu, rêu lưỡi trắng.

Ôn dương: bệnh lâu ngày, tuổi cao. Biểu hiện: sợ lạnh, lưng gối đau mỏi, tứ chi phù nặng, thường hay gặp ở người do thận dương hư.

Dưỡng âm: do âm dịch không đủ, âm hư sinh nội nhiệt. Biểu hiện: đau đầu, váng đầu, lưng gối đau mỏi, hai gò má đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô, đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng, mạch tế sác hoặc vi huyền.

Viêm tắc động mạch chi theo y học cổ truyền

 Bệnh viêm tắc động mạch chi hay gặp ở nam giới trưởng thành hơn là nữ. Bệnh khó điều trị dứt điểm, dễ tái phát, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống.

Người bệnh có khi tàn phế vì phải cắt cụt chi, nặng có thể tử vong. Kết hợp điều trị Tây y và Đông y có nhiều ưu điểm và hiệu quả rõ rệt, ngay cả với những bệnh nhân tắc mạch chi biến chứng do đái tháo đường.

Viêm tắc động mạch chi theo y học cổ truyền thường gọi “Cốt thư” hay “Thoát cốt thư ”. Theo y học cổ truyền, có 3 nguyên nhân: ngoại nhân là do hàn tà, thấp tà, hỏa tà; bất nội ngoại nhân do ăn uống, lao thương; nội nhân  do thất tình, đàm ẩm, khí huyết.

Hàn tà gây thu co, đau nhức, tắc ứ huyết mạch. Hỏa tà “ngũ khí hóa hỏa” hay do hàn tà lâu ngày hóa hỏa, hay do thấp tà hóa nhiệt gây sưng tấy hóa mủ lở loét, phù thũng căng nặng. Thất tình làm công năng tạng phủ bị rối loạn gây mất cân bằng dẫn tới khí trệ huyết ứ, kinh mạch bị tắc. Đàm ẩm do thủy thấp dẫn đến ứ trệ ở kinh mạch làm cho khí huyết không lưu thông gây chi thể nặng nề, đi lại khó khăn. Lao thương quá độ làm tổn thương khí huyết cân mạch...

Người bệnh có triệu chứng: khi gặp lạnh, các mạch máu co thắt gây thiếu máu dẫn đến lạnh chi, làm việc nặng hay đi lại nhiều thấy tê, đau bắp chân, có khi lan xuống bàn chân, ngón chân, da chân nhợt nhạt hay tím, nghỉ ngơi hết đau (cách hồi). Khi nặng, rối loạn dinh dưỡng chi thì đau thường xuyên, tím tái vùng ngón, bàn chân... Bệnh nhân đau không chịu nổi, hai tay giữ lấy bàn chân, đầu ngón chân có khi có loét hoại tử khô hay ướt, chi lạnh nhợt teo, toàn thân suy sụp, có khi sốt, sờ mạch khó thấy.

viêm tắc động mạch chi thể khí trệ huyết ứ:

 ngoài đau ở chi bị tổn thương, sắc mặt u ám, da khô trắng nhợt, chi teo nhẽo, lưỡi hồng hay xám tía, mạch huyền tế, trầm huyền.

Phép trị là hoạt huyết khứ ứ, hành khí giải uất.

viêm tắc động mạch chi thể hàn thấp:

 sờ chi lạnh, da bợt trắng bệch, đi lại đau, hay bị chuột rút, nhất là về đêm, lưỡi nhợt có điểm ứ huyết.

viêm tắc động mạch chi thể thấp nhiệt: 

người bệnh hoại tử đầu ngón chân, hoại tử khô hay chảy nước, ngón chi có khi sưng nề, có khi sốt, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác hay hoạt sác.

viêm tắc động mạch chi thể khí huyết lưỡng hư: 

Bệnh lâu ngày cơ thể suy sụp, loét lâu liền, đau kéo dài mất ăn, mất ngủ, toàn thân gầy sút, rêu trắng mỏng, mạch nhược tế vô lực.


Bài trị viêm da thần kinh theo y học cổ truyền

 Y học cổ truyền gọi viêm da thần kinh là ngưu bì tiễn, can tiễn. 

Nguyên nhân là do phong nhiệt làm ảnh hưởng đến da, sau đó gây huyết táo làm da không được nuôi dưỡng.

Người bệnh ngứa và gãi, nhất là về đêm làm da đỏ sẩn, hơi nhăn, cộm, nổi những sẩn dẹt bóng sau thành một đám hình bầu dục, đôi khi thành vệt dài có viền không đều, không rõ. Thường nổi ở hai bên cổ, gáy, đùi, vùng hậu môn sinh dục, nếp kẽ mông. 

Viêm da thần kinh thể phong nhiệt (giai đoạn mới mắc bệnh): 

da mới bị viêm, màu hơi hồng, ngứa, da còn mỏng. 

Phép chữa viêm da thần kinh thể phong nhiệt:

 khu phong thanh nhiệt. 

Viêm da thần kinh thể huyết táo (thể viêm da mạn tính): 

Biểu hiện vùng da bệnh dày và khô, ngứa nhiều về đêm, khi gãi chảy nước và rớm máu. 

Phép chữa viêm da thần kinh thể huyết táo :

dưỡng huyết, nhuận táo, khu phong.

Bài trị chứng tâm hồi hộp do ngoại tà trong y học cổ truyền

 Tâm hồi hộp do ngoại tà phong hàn thấp thuộc chứng “Tâm quý” trong Y học cổ truyền.

Người bệnh thường có triệu chứng tâm hồi hộp, hơi thở ngắn, ngực đau, người nhức mỏi, hai gò má đỏ tía, môi và móng tay chân tím tái, ho suyễn khạc đàm ra máu, mạch tế hoặc kết đại. Bệnh phần nhiều do chính khí hư mà ngoại tà phong, hàn, thấp xâm nhiễm hoặc hay ăn sống lạnh quá mà sinh bệnh.

Sách cho rằng ngoại tà khí phong, hàn, thấp phạm huyết mạch ảnh hưởng tới tạng tâm “Tâm tý huyết mạch không thông”. Doanh huyết vận hành không thông cho nên hồi hộp không yên. Nếu bệnh không chữa trị có thể dẫn đến thiếu máu, nhồi máu cơ tim. 

Chứng tâm hồi hộp do ngoại tà đau tức ngực “tâm quý” do lạnh nhiều .
Chứng tâm hồi hộp do ngoại tà đau tức ngực “tâm quý” do đàm thấp nhiều
Chứng tâm hồi hộp do ngoại tà đau tức ngực “tâm quý” do huyết ứ nhiều

Trị chứng viêm thận - bể thận trong đông y

  Viêm thận - bể thận là bệnh viêm của tổ chức nhu mô thận do nhiễm khuẩn, là loại bệnh tiết niệu hay gặp có các triệu chứng lâm sàng chủ yếu là sốt, đau vùng thắt lưng và tiểu buốt, tiểu rắt. Bệnh hay gặp ở phụ nữ nhất là thời kỳ thai nghén.

Viêm thận - bể thận là bệnh viêm của tổ chức nhu mô thận do nhiễm khuẩn, là loại bệnh tiết niệu hay gặp có các triệu chứng lâm sàng chủ yếu là sốt, đau vùng thắt lưng và tiểu buốt, tiểu rắt. Bệnh hay gặp ở phụ nữ nhất là thời kỳ thai nghén. Trên lâm sàng chia hai loại: cấp và mạn tính. Đối với thể cấp tính, nếu điều trị tích cực phần lớn bệnh đều khỏi, một số ít kéo dài, tái phát nhiều lần mà chuyển thành mạn tính và có thể dẫn tới suy thận.

Theo y học cổ truyền bệnh viêm thận - bể thận thuộc phạm trù chứng “lâm” hoặc chứng “yêu thống”.

Theo y học cổ truyền thì viêm thận - bể thận cấp và bán cấp có triệu chứng giống với các chứng nhiệt lâm, huyết lâm và khí lâm thực chứng, còn viêm thận - bể thận mạn có triệu chứng như chứng lao lâm và khí lâm hư chứng. Vị trí bệnh chủ yếu ở thận và bàng quang, bệnh lý chủ yếu là thận hư và thấp nhiệt. Ở thể cấp tính, chính khí không đầy đủ và tà khí thịnh nên bệnh lý chủ yếu là bàng quang khí hóa không thông lợi nên thấp nhiệt uất kết gây nên. Trường hợp viêm thận - bể thận mạn thì chính khí hư mà chủ yếu là tỳ thận khí hư, thấp nhiệt tà không đuổi đi được nên trên lâm sàng biểu hiện triệu chứng hư thực phức tạp.

Theo y học cổ truyền, thấp nhiệt độc xâm phạm thận bàng quang có thể là từ bên ngoài vùng âm hộ vệ sinh kém sinh thấp nhiệt độc, có thể do ăn nhiều chất béo ngọt tích tụ sinh thấp sinh nhiệt, hoặc do bệnh nhiệt, tâm hỏa hạ chú tiểu tràng ảnh hưởng đến bàng quang, hoặc do can khí uất sinh nhiệt, hoặc bệnh nhiệt các vùng khác trong cơ thể sản sinh thấp nhiệt tà hạ chú bàng quang gây chứng nhiệt lâm, nhiệt bức huyết hành sinh chứng huyết lâm, bàng quang khí hóa không thông lợi sinh các chứng tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu buốt hoặc tiểu có mủ.

Thận khí hư là do thiên tiên bất túc, do phòng dục quá độ, do sinh đẻ quá nhiều, do lao lực... thường có triệu chứng của lao lâm, cơ thể suy nhược, bệnh kéo dài, đau thắt lưng, mỏi gối, thận âm hư, can dương vượng sinh đau đầu, hoa mắt mờ mắt, chóng mặt, tăng huyết áp, bệnh nặng hơn dẫn đến thận dương hư, thấp trọc, thủy độc tích tụ nhiều trong cơ thể dẫn đến suy thận. Tỳ khí hư là do bệnh lâu ngày, thấp nhiệt khốn tỳ, do lo nghĩ nhiều, do lao động quá sức, ăn nhiều chất béo ngọt, rượu chè vô độ gây tổn thương tỳ, tỳ khí hư nên tiểu nhiều lần, mệt mỏi chán ăn, bụng đầy, tiêu chảy, sụt cân, khó thở sinh chứng lao lâm, khí lâm.

Đông y điều trị viêm thận - bể thận: 
viêm thận - bể thận thể bàng quang thấp nhiệt: 

Gai rét phát sốt, tiểu đau, tiểu gấp tiểu nhiều lần, bụng dưới đầy đau, lưng đau, rêu lưỡi vàng nhày, mạch nhu sác hoặc hoạt sác.

phép trị viêm thận - bể thận thể bàng quang thấp nhiệt: 

Thanh nhiệt giải độc, lợi niệu thông lâm.

viêm thận - bể thận thể  can đởm uất nhiệt :

Sốt và rét xen kẽ, người khó chịu bứt rứt muốn nôn, chán ăn, lưng đau, bụng dưới đau, tiểu nhiều lần mà nóng, rêu lưỡi vàng đậm, mạch huyền sác.

phép tri viêm thận - bể thận thể can đởm uất nhiệt :

Thanh lợi can đởm, thông điều thủy đạo.

viêm thận -bể thận thể thận âm bất túc, thấp nhiệt đinh lưu: 

Tiểu nhiều lần, tiểu đau, sốt nhẹ, váng đầu, ù tai, mồ hôi trộm, họng khô môi táo, lưỡi đỏ không rêu, mạch huyền tế sác.

Phép trị viêm thận -bể thận thể thận âm bất túc, thấp nhiệt đinh lưu: 

Tư âm thanh nhiệt.

Viêm thận -bể thận thể tỳ thận đều hư, thấp tà chưa hết:

 Ngoài các triệu chứng như thể thận âm bất túc nêu trên, thêm chứng phù mặt và chân, chán ăn bụng đầy, tiêu phân lỏng, mệt mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, lưỡi bệu sắc nhợt, mạch trầm tế vô lực.

Phép trị viêm thận -bể thận thể tỳ thận đều hư, thấp tà chưa hết:

Kiện tỳ bổ thận thấm thấp.

Phép trị u xơ tuyến tiền liệt trong đông y

 U xơ tiền liệt tuyến hay chứng phì đại tuyến tiền liệt là thể lành tính, phần nhiều phát sinh ở người già và một phần ở lứa tuổi trung niên. Đông y gọi là “Long bế” một loại chứng bệnh chủ yếu là tiểu tiện giỏ giọt. “Long” là giỏ giọt, “bế” là bế tắc.

Nguyên nhân tuyến tiền liệt :

 phần nhiều do thấp trệ, thấp trệ chảy xuống làm ứ trệ huyết; do can thận hư tổn làm hội âm bị sa sưng, đau bụng dưới, làm bài tiết không bình thường, kéo dài hoặc bế tắc không bài tiết được. Ban đầu là do thấp nhiệt, giai đoạn giữa do khí huyết ứ trệ, giai đoạn sau đan xen giữa hư chứng và thực chứng do can, thận bị tổn thương.

Phép trị tuyến tiền liệt : 

Đông y xếp bệnh long bế vào bộ môn nội khoa điều trị theo phương pháp khí ở tam tiêu không hóa.

Nếu khí ở thượng tiêu (phế) không hóa để thủy giáng xuống.

Nếu khí ở trung tiêu (tỳ vị) không hóa để giáng xuống, là do khí của tỳ vị hư yếu, thấp nhiệt ngưng tụ lại không thông.

Nếu khí ở hạ tiêu (can, thận, bàng quang) không hóa là do mệnh môn hỏa suy. Khi điều trị phải ôn bổ thận dương.

Trị tiêu chảy cấp do nhiễm khuẩn bằng đông y

 Tiêu chảy là một triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây ra, được miêu tả trong phạm vi chứng tiết tả của Đông y.

Tiêu chảy là tình trạng đại tiện phân lỏng nhiều hơn 3 lần một ngày. Bệnh được chia làm 2 loại: cấp tính và mạn tính. Tiêu chảy cấp tính thường do lạnh (hàn thấp), do nhiễm trùng (thấp nhiệt) và do ăn uống (thực tích)

Người bị tiêu chảy cấp tính do nhiễm khuẩn (do thấp nhiệt) có biểu hiện đau bụng, đại tiện lỏng, lỗ đít nóng, phân ra thối, sốt, nước tiểu vàng đỏ, vật vã không yên, khát nước, phân vàng thâm, đôi khi nôn mửa. 

Cách điều trị là thanh nhiệt lợi thấp, phương hương hóa trọc.