Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Bài trị sa trực tràng theo đông y

 Sa trực tràng là chứng bệnh thường gặp ở nhiều lứa tuổi. Biểu hiện tại vùng hậu môn trực tràng sa xuống ra ngoài hậu môn, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ mà mức độ sa ra ngoài dài hay ngắn.

Nguyên nhân sa trực tràng :

chủ yếu do sau khi bị bệnh lỵ mạn tính hoặc táo bón khó đại tiện phải rặn nhiều lâu ngày hoặc sau đẻ trung khí hư gây ra hạ hãm làm cho trực tràng sa xuống khỏi vị trí và giãn to dần sau mỗi lần đại tiện, lâu ngày sa giãn càng nhiều khó có khả năng tự co vào được mà phải dùng tay ấn mới vào được và lại tụt xuống ngay trước hoặc trong khi đại tiện. Bệnh nặng không thể ấn vào ổn định trong bên được mà ở ngoài hậu môn gây khó chịu.

Giai đoạn đầu sa trực tràng (độ 1): 

Trực tràng sa xuống khỏi vị trí ra khỏi hậu môn sau mỗi lần đại tiện, tự co lên được hoặc lên xuống thất thường, khi thấy người mệt thì trực tràng sa xuống, khi cơ thể bình thường thì không thấy trực tràng sa ra ngoài hậu môn.

Phương pháp điều trị giai đoạn đầu sa trực tràng

Bổ trung ích khí thăng đề.

Giai đoạn thứ 2 sa trực tràng (độ 2, 3):

 Trực tràng sa xuống khỏi vị trí, ra khỏi hậu môn sau mỗi lần đại tiện, không tự co lên được, phải dùng tay ấn mới vào được và lại tụt xuống ngay trước hoặc trong khi đại tiện hoặc lao động nặng. Bệnh nặng không thể ấn vào ổn định bên trong được mà ở ngoài hậu môn gây sưng  đau, khó chịu.

Phương pháp điều trị sa trực tràng: 

Bổ trung ích khí thăng đề, thanh nhiệt trừ thấp.

Quan niệm về bệnh theo Đông y

 Thời hiện đại, cuộc sống có rất nhiều áp lực khiến con người dễ bị bệnh tật... làm sao hóa giải?

Bệnh là gì?

Thông thường, mọi người cho rằng bệnh tật là một tổn thương về thể xác mà ta có thể nhìn thấy. Nhưng không phải vậy, con người tồn tại không chỉ có thể xác mà còn cả tâm hồn. Bất cứ điều gì làm mất đi sự “an toàn” cho con người về thể chất và tinh thần đều gây ra bệnh. Trong Đông y, bệnh chính là sự mất cân bằng âm dương trong cơ thể. Sự mất cân bằng này là do tình trạng thái quá (quá nhiều) hoặc bất cập (quá ít). Âm có thể hiểu đơn giản là những điều “hữu hình” mà ta “chạm” đến được, như đau đầu, nhức mỏi, hoa mắt, ù tai... Còn Dương là những điều “vô hình” thuộc về sự biến hóa mà ta chỉ có thể cảm nhận mà không nhìn thấy được, ấy là những “nỗi lòng biết tỏ cùng ai”.

Vì sao tôi bệnh?

Về cơ bản, nguyên nhân gây bệnh có thể chia thành ba nhóm chính: nội nhân, ngoại nhân và bất nội ngoại nhân.

Nội nhân:

Là những nguyên nhân phát sinh bên trong cơ thể, thuộc về tình cảm, cảm xúc, Đông y gọi đó là “Thất tình”, bao gồm: hỷ (vui), nộ (giận), bi - ai (buồn), tư (lo), kinh - khủng (sợ). Mỗi loại cảm xúc  ảnh hưởng trực tiếp đến từng cơ quan, gây ra các rối loạn mà ta có thể quan sát được.

Trước hết là niềm vui, đây là tình chí của tạng Tâm. Khi vui cười, sắc mặt thường đỏ hồng là do Tâm chủ huyết mạch và vinh nhuận ra mặt. Ông bà ta có câu “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, niềm vui làm tinh thần chúng ta cảm thấy sảng khoái, yêu đời. Tuy nhiên, nếu bị phấn khích quá nhiều đến nỗi “cười vỡ bụng”, làm thần bất minh, dẫn đến cuồng loạn thì “lợi bất cập hại”.

Tiếp đến là sự giận dữ, đây là tình chí của tạng Can. Sở dĩ ta hay “tức cành hông” là do tạng Can nằm ở dưới sườn (trung tiêu), Can khí hoành nghịch làm vùng ngực sườn khó chịu. Can suy yếu chức năng chủ sơ tiết làm khí huyết kém lưu thông, cơ thể mệt mỏi, chán ăn, ăn không ngon, ngủ không yên. Nếu đã từng xem qua Tam Quốc diễn nghĩa, hẳn chúng ta còn nhớ đến cảnh Chu Du bị Gia Cát Lượng kích đến giận thổ huyết mà chết. Sự giận dữ cũng hay thấy ở phụ nữ, vì Can chủ huyết, người nữ thì lấy huyết làm gốc.

Nữa là sự buồn phiền, đây là tình chí của tạng Phế. Ứng với sự giận dữ của phụ nữ, chúng ta dễ bắt gặp sự trầm tư ở người nam, nam lấy khí làm gốc. Tiếng thở dài là nỗi niềm của Phế, vì Phế chủ khí. Khi buồn, Phế khí dễ tiêu tán, làm hô hấp bị ảnh hưởng, toàn thân mệt mỏi, thời gian dường như dài thêm - “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (Truyện Kiều - Nguyễn Du).

Kế đến là sự lo lắng, đây là tình chí của tạng Tỳ. Khi lo lắng quá độ, Tỳ khí sẽ uất kết, gây ra các triệu chứng như đầy bụng, đại tiện phân sống, mệt mỏi... Vậy Trang Tử nói “người khôn hay lo” liệu có đúng? Cái lo ấy có chừng mực, không quá đáng, mang lại sự yên ổn cho tương lai chứ không phải cái lo làm mất cả sự bình an của hiện tại.

Cuối cùng là sự sợ hãi, đó là tình chí của tạng Thận. Sở dĩ chúng ta “sợ té đái” là do khi kinh hãi thì khí hạ, Thận không điều khiển sự đóng mở lỗ tiểu. Ngoài ra, khi khí hạ còn gây ra các chứng di tinh, liệt dương, ngực đầy trướng, tâm không yên (do tinh khí không đưa được lên trên để nuôi dưỡng).

Ngoại nhân:

Là những yếu tố từ bên ngoài môi trường. Ngoại nhân phải kể đến lục dâm tà khí (sáu thứ khí gây bệnh) là: phong (gió), hàn (lạnh), thử (nắng - nóng), thấp (ẩm ướt), táo (khô), hỏa (nhiệt). Đó là sáu thứ khí luôn tồn tại trong tự nhiên, thịnh suy theo từng thời điểm trong ngày, trong tháng, trong năm. Khi các khí ấy xuất hiện không đúng thời (sớm hoặc muộn), hoặc quá mạnh, hoặc quá yếu thì nó trở thành tà khí. Tà khí này có gây ra bệnh hay không còn phải kể đến chính khí của cơ thể. Cơ thể khỏe mạnh thì tà khí khó xâm nhập và gây bệnh. Ngược lại, khi cơ thể suy yếu thì dù các loại khí bên ngoài dù bình thường thì vẫn làm tổn thương cơ thể.

Bất nội ngoại nhân:

Hiểu một cách đơn giản, bất nội ngoại nhân là những thói quen sinh hoạt của chúng ta, cơ bản nhất là ăn và ngủ. Trong thời buổi sống chung với thực phẩm bẩn thì việc ăn gì khiến chúng ta phải đau đầu. Ấy là còn chưa kể đến những món ngon quyến rũ như: món nướng, xông khói, thức ăn nhanh... Thế mới thấy ông bà ta nói “Bệnh tòng nhập khẩu” quả chẳng sai- “thức ăn quyết định số phận”. Giấc ngủ chiếm 1/3 cuộc đời, là khoảng thời gian để cơ thể hồi phục sau một ngày làm việc. Khi mà ánh điện đã xua tan màn đêm yên tĩnh thì việc ngủ nghỉ đúng giờ dường như trở nên xa xỉ. Không khó để bắt gặp hình ảnh các bạn trẻ thức thâu đêm để xem phim, lên mạng xã hội... hoặc kiếm tiền.

Tuổi trẻ bán sức khỏe kiếm tiền

Và liệu bỏ tiền có mua lại được sức khỏe? Câu trả lời hẳn là không thể. Thế nên Benjamin Flanklin từng nói: chỉ khi người giàu ốm họ mới hiểu được sự bất lực của giàu sang. Hay Thomas Fuller cũng từng nói: người ta không coi trọng sức khỏe cho đến khi đau yếu.

Lời khuyên cho sức khỏe: giữ cân bằng thể chất và tinh thần

Tập thể dục ít nhất 20 phút mỗi ngày.

Ngủ sớm, tốt nhất trước 23h.

Không gội đầu đêm. Tốt nhất trước 18h.

Ăn uống đúng giờ.

Ăn nhiều rau xanh, trái cây. Hạn chế thức ăn nhiều dầu mỡ, thức ăn đóng hộp...

Giữ tinh thần thoải mái, biết từ chối các áp lực quá mức.

Hạn chế sự phụ thuộc vào các thiết bị công nghệ.

Dành thời gian cho bản thân, gia đình, bạn bè.

Nguyên nhân gây bệnh về da theo y học cổ truyền

 Theo y học cổ truyền (YHCT), bệnh ngoài da đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau như bị nhiễm độc do trùng cắn (do côn trùng), cũng có thể bị nhiễm ngoại tà (đó là do các yếu tố: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa); nhưng gốc vấn đề đối với các bệnh da mạn tính vẫn là từ khí huyết, can thận.

Những tác nhân bên ngoài

Phong: Phong tà được coi là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn tới bệnh về da. Những người có cơ thể yếu, chức năng phòng vệ của cơ thể không đủ mạnh, phong tà xâm nhập gây nên dinh vệ mất điều hòa.

Khi khí huyết lưu thông bị trở trệ, da và cơ mất dinh dưỡng, da người bệnh bắt đầu xuất hiện những nốt sần ngứa, ban đỏ, da khô, mụn cóc. Bệnh ngoài da do phong thường có triệu chứng như  bệnh phát nhanh, di chuyển, dễ lan ngứa toàn thân nhưng cũng có thể mất đi nhanh (ví dụ như nổi mề đay). Phong tà xâm nhập cơ thể thường kết hợp với các khí xấu khác gây nên chứng bệnh như phong hàn, phong nhiệt phong thấp...

Thấp: Thấp có ngoại thấp và nội thấp. Với những người sống và làm việc tại các nơi ẩm thấp rất dễ sinh bệnh ngoài da, Đông y gọi đó ngoại thấp. Bản thân thấp thuộc về âm tà nên có tính nặng trọng, hậu quả là bệnh phát sinh ở phần dưới cơ thể đặc biệt là khu vực bàn chân. Triệu chứng của bệnh là các bọng nước gây ngứa lở. Bệnh lâu khỏi, hậu quả là người bệnh chán ăn, có những trường hợp bụng đầy, rêu lưỡi dày, mạch nhu hoạt…

Bệnh mề đay

Nhiệt: Nếu như Thấp thuộc âm tà thì Nhiệt là dương tà. Khi nóng từ bên ngoài (ngoại cảm nhiệt tà) khiến cơ thể mất cân bằng, hoặc do tạng phủ thực nhiệt tiết nhiệt ra bên ngoài da quá mạnh dẫn tới các triệu chứng như sưng nóng đỏ, ngứa kèm theo đau rát. Người bị bệnh ngoài da dạng này thường có biểu hiện nóng bứt rứt, khát nước, táo bón, tiểu vàng đậm, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.

Trùng: Côn trùng cũng là nguyên nhân dẫn tới bệnh ngoài da. Nguyên do là  độc tố của trùng đi vào cơ thể gây nên sưng đau, ngứa, nóng đỏ hoặc do dị ứng của cơ thể. Người bệnh cảm thấy khó chịu, ngứa ngáy ngay tại vết cắn hoặc lan rộng toàn thân tùy thuộc vào loại côn trùng gây hại. Đối với trùng cắn có thể lây lan ra các vị trí khác của cơ thể hoặc lây sang người khác nếu tiếp xúc với vết tổn thương (ví dụ như viêm da tiếp xúc do kiến ba khoang).

Độc: Cổ nhân có câu bệnh từ miệng mà vào, các loại thuốc chữa bệnh, đồ ăn, tiếp xúc chất độc… đều có thể gây nên bệnh ngoài da. Bệnh do nguyên nhân này thường phát đột ngột, có các triệu chứng tại chỗ như: sưng nóng đỏ, đau, ngứa, nổi sần, ban đỏ, mụn nước. Triệu chứng toàn thân nặng hay nhẹ tùy theo loại độc và mức độ nhiễm độc.

Tác nhân từ huyết và can thận bất túc

Không chỉ nguyên nhân từ bên ngoài cơ thể như phong tà, thấp, nhiệt, trùng cắn, nhiễm độc, bệnh ngoài da còn có thể do huyết ứ, huyết hư và can thận bất túc.

Huyết ứ: Theo YHCT,  khi khí huyết cơ thể không lưu thông, bị tắc trệ hoặc trở trệ; phần lớn do can khí uất kết hoặc ngoại tà xâm nhập lâu ngày khiến khí cơ thể rối loạn dẫn đến khí trệ huyết ứ mà gây nên bệnh ngoài da. Người bệnh có biểu hiện đau tức mạng sườn, hoặc stress, hay cáu gắt, bực bội. Bệnh phát ra ngoài da thành ban ứ huyết (nổi nốt đỏ thẫm), sắc da vùng bệnh đỏ tối hoặc xanh tía, tổn thương ngoài da dày lên, có nốt cục, lưỡi bệnh bệnh nhân có mầu đỏ tối, có điểm ứ huyết, mạch huyền sác …

Bệnh về da do can thận âm hư

Huyết hư phong táo: Khi mắc bệnh lâu ngày, hoặc tỳ vị hư nhược dẫn tới huyết không đủ nuôi dưỡng da (thường gặp ở bệnh nhân bị bệnh ngoài da mãn tính). Huyết hư cũng không đủ nuôi dưỡng can, can âm hư, can dương thịnh tiết ra ngoài da mà hệ quả là bệnh phát ra ngoài da.

Những bệnh ngoài da do huyết hư phong táo có đặc điểm là bệnh kéo dài, da khô, dày lên nứt nẻ, tróc vảy. Người bệnh còn gặp thêm một loạt triệu chứng như hoa mắt, chóng mặt, sắc mặt tái nhợt, hoặc sốt âm ỉ kéo dài, ngày nhẹ bệnh nặng về ban đêm, hoặc nặng nhẹ thay đổi theo trạng thái tinh thần, tâm trạng bứt rứt dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác (chứng huyết hư can vượng).

Can Thận bất túc: Một số bệnh ngoài da phát sinh do can thận bất túc, là bệnh ngoài da do can và thận không đủ sức điều hòa cơ thể. Khi huyết hư thì không cấp đủ dưỡng chất cho can, dẫn tới can suy nhược, biểu hiện là móng khô, mòn, dễ gãy, mủn móng, chân móng dày lên. Can hư huyết táo bệnh phát ra ngoài da hình thành mụn cóc, mụn cơm. Can kinh uất hỏa huyết ứ sinh mụn huyết. Can Thận đồng nguyên nên thận tinh bất túc còn gây rụng tóc, tóc dễ gãy. Bệnh ngoài da trong trường hợp này thường kèm theo các triệu chứng chóng mặt, ù tai, lưng gối mỏi đau, mất ngủ, mộng tinh, di tinh, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác. Trường hợp sắc mặt tái nhợt, chân tay lạnh, lưng gối mỏi, chóng mặt, ù tai, liệt dương, lưỡi bệu nhợt, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế là chứng Thận dương hư.

Theo YHCT có 8 nguyên nhân gây nên bệnh về da, nhưng bệnh lại thường do 2 hoặc nhiều nguyên nhân kết hợp mà thành. Các yếu tố như trạng thái tinh thần, chế độ ăn uống, nghề nghiệp, khí hậu, tính lây truyền của độc tà (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm…) đều có liên quan mật thiết tới bệnh về da. Thầy thuốc YHCT phải xác định được căn nguyên mới điều trị hiệu quả được các bệnh về da.

Trị các bệnh ngoài da theo y học cổ truyền

 Tùy theo hiện trạng vùng da bị tổn thương, hoặc giai đoạn bệnh, người bệnh có thể điều trị ngoại khoa- dùng thuốc điều trị tại vùng da bị bệnh, cũng có thể điều trị nội khoa. Y học cổ truyền (YHCT) có hàng chục bài thuốc giúp giải quyết tận gốc bệnh ngoài da, đưa cơ thể con người đạt đến trạng thái cân bằng với tự nhiên.

Bệnh ngoài da và các bài thuốc điều trị nội khoa

Sau tứ chẩn, người thầy thuốc YHCT đã tìm được nguyên nhân gây bệnh. Dựa vào những nguyên nhân như phong tà, trùng độc, hay huyết ứ, huyết hư bác sĩ YHCT sẽ có những pháp đồ điều trị thích hợp với từng bệnh nhân.

Sơ phong tán hàn: dùng trị chứng phong hàn hư như mề đay, luput ban đỏ, …

Sơ phong thanh nhiệt: dùng trị chứng phong nhiệt như phong nhiệt sang, thấp sang…

Thanh nhiệt lợi thấp: dùng trị chứng thấp nhiệt hoặc thử thấp như chàm lở chảy nước (thấp sang), nhọt có mủ (nùng bào sang).

Lương huyết giải độc: Dùng trị chứng nhiệt độc hoặc huyết nhiệt như chứng viêm da do dị ứng thuốc, vảy nến, tử ban,…

Hoạt huyết hoá ứ: dùng trị chứng khí trệ huyết ứ như chứng hồng ban cục, xơ cứng bì,…

Dưỡng huyết nhuận táo: Dùng trị chứng huyết hư phong táo như chứng viêm da thần kinh (ngưu bì tiễn), chàm mạn tính,…

Tư âm giáng hoả: dùng trị chứng can thận âm hư hoả vượng như chứng ban đỏ rải rác, xơ cứng bì,… 

Ôn thận tráng dương: dùng trị chứng tỳ vị thận dương hư như chứng xơ cứng bì, luput ban đỏ rải rác,… 

Theo lý luận của YHCT, YHCT dựa trên nền tảng của triết học Á Đông với Âm – Dương, Ngũ hành. Theo đó mỗi con người đã là một vũ trụ thu nhỏ và phải luôn hài hòa với tự nhiên.

Khi khám chữa bệnh, không hiếm những trường hợp người bệnh có các chứng trạng như hàn nhiệt kết hợp, hư thực đan xen. Điều này bắt buộc người bác sĩ phải Tứ chẩn một cách kỹ lưỡng, thận trọng để tìm được nguyên nhân gây bệnh, từ đó đưa ra phác đồ điều trị thích hợp cho người bệnh.

Suy giãn tĩnh mạch chân theo đông y

 Suy giãn tĩnh mạch chân hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới là tình trạng suy giảm chức năng, đưa máu trở về tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân...

Suy giãn tĩnh mạch chân hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới là tình trạng suy giảm chức năng, đưa máu trở về tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân... Đông y gọi là chứng thanh xà độc, bởi nhìn bên ngoài khối tĩnh mạch ở bắp chân ngoằn nghèo giống như con rắn xanh.

Hình ảnh suy giãn tĩnh mạch.

Hình ảnh suy giãn tĩnh mạch.

Nguyên nhân suy giãn tĩnh mạch chân 

do huyết ứ, khí trệ. Mạch máu lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tư thế làm việc, môi trường ẩm thấp, béo bệu, rối loạn hormon, thoái hóa van tĩnh mạch do tuổi tác...

Biểu hiện suy giãn tĩnh mạch chân :

người bệnh xuất hiện các triệu chứng như cảm giác nhức mỏi, nặng chân, phù, tê bì, hay bị chuột rút về đêm...

 Điều trị suy giãn tĩnh mạch chân :

trục huyết ứ, chống viêm, thông kinh, lợi thấp, giảm đau, thanh nhiệt lương huyết, bổ âm, dưỡng huyết, làm chắc thành mạch, hành khí, lưu thông khí huyết đưa máu về tim.

Bài trị chứng chân tay ra mồ hôi theo đông y

  Tỳ vị là chủ tứ chi cơ nhục, ra mồ hôi ở tay chân là thuộc chứng Dương minh. Tỳ chủ vận hóa thủy thấp, khi mệt nhọc dễ làm tổn thương tỳ vị gây mất chức năng kiện vận, thấp tà dễ xâm phạm, tỳ.

Thấp ứ lâu hóa nhiệt uất hóa lại hun đốt tỳ vị làm tân dịch trong vị đạt ra chân tay ra mồ hôi, bụng trướng đầy chán ăn, thân thể nặng nề.

Nếu tỳ vị khí hư (do đói no, mệt nhọc hại tỳ) thì thấy mệt nhọc đoản hơi yếu sức, chân tay không ấm. biếng ăn, đại tiện lỏng. Còn nếu do nhiệt lâu tỳ vị làm thương âm làm họng khô, không muốn ăn, hay nôn... Sau đây là một số bài thuốc trị ra mồ hôi tay chân theo từng thể lâm sàng.

Chân tay ra mồ hôi do tỳ vị thấp nhiệt

Người bệnh biểu hiện chân tay ra mồ hôi, ngực bụng trướng đầy, biếng ăn, thân thể nặng nề, tiểu tiện sẻn vàng đỏ, ra mồ hôi chân tay. Rêu lưỡi vàng nhớt mạch nhu sác hay nhu hoạt.

 Phép điều trị Chân tay ra mồ hôi do tỳ vị thấp nhiệt 

Thanh nhiệt táo thấp hòa trung. Dùng bài thuốc:

Chân tay ra mồ hôi do tỳ vị khí hư

Người bệnh mệt nhọc, đoản hơi biếng nói, chân tay không ấm, đại tiện có khi không thành khuôn, ra mồ hôi chân tay, lưỡi nhợt mạch hư nhược. 

Phép điều trị chân tay ra mồ hôi do tỳ vị thấp nhiệt :

 bổ ích tỳ khí. 

Chân tay ra mồ hôi do tỳ vị âm hư

Người bệnh biểu hiện họng ráo, không muốn ăn, nôn khan hay nấc, miệng khô, đại tiện không đều, lưỡi đỏ ít rêu, ra mồ hôi chân tay. 

Phép điều trị chân tay ra mồ hôi do tỳ vị âm hư

 tư dưỡng vị âm. 

Đánh gió theo y học cổ truyền

 Bệnh theo y học cổ truyền được biện chứng theo bát cương, trị bệnh theo bát pháp (gồm: hãn, thổ, hạ, hòa, ôn, tiêu, bổ). Đánh gió là phương pháp thuộc nhóm trị nhiệt bệnh chủ yếu do ngoại tà xâm nhập; bài xuất nhiệt độc trong cơ thể.

Đánh gió hay cạo gió là một trong những phương pháp trị bệnh lưu truyền trong dân gian với ưu điểm dễ thực hiện, an toàn, hiệu quả tức thì. Đánh gió vận dụng lý luận bì phu, học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền, qua thời gian thâm nhập vào dân gian, cách vận dụng được giản lược để các tầng lớp trong xã hội đều có thể thực hiện được.

Cơ chế trị bệnh của đánh gió trong y học cổ truyền

Khi cơ thể bị cảm mạo, hoặc tà khí còn nằm ở phần biểu, tà khí vít tắc làm vệ khí lưu thông không được tắc lại sinh ra các chứng đau nhức nóng. Đánh gió làm sơ thông lạc mạch ở biểu, dinh vệ khí lưu thông, khí hành thì huyết hành dẫn đến hoạt huyết hóa ứ, đồng thời tuyên phát khí ở bì mao nên sơ tán được ngoại tà.

Đánh gió được vận dụng trong các pháp trị như: sơ thông kinh lạc, thư cân lý khí, khu phong tán hàn, thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyết, hóa ứ, tiêu thũng, chỉ thống. Đây cũng là cơ sở chính để mang đánh gió từ dân gian trở về nguyên bản y học cổ truyền là một phương pháp trị liệu không dùng thuốc.

Hệ thống kinh lạc bao gồm các kinh lạc nổi, kinh lạc chìm và hệ thống kinh cân. Phương pháp đánh gió tác động chủ yếu lên phần kinh lạc nổi và kinh cân mà biểu hiện trực quan thông qua phần da, các mô dưới da và cơ. Khác với châm cứu tập trung điều chỉnh lên các huyệt cần sự chính xác gần như tuyệt đối, đối tượng đánh gió tác động là vùng cơ thể.

Đánh gió không đơn giản chỉ là một thủ thuật

 

Bệnh theo y học cổ truyền được biện chứng theo bát cương, trị bệnh theo bát pháp (gồm: hãn, thổ, hạ, hòa,  ôn, tiêu, bổ), đánh gió là phương pháp thuộc nhóm trị nhiệt bệnh chủ yếu do ngoại tà xâm nhập; bài xuất nhiệt độc trong cơ thể. Thông qua quá trình thăm khám và chẩn đoán y học cổ truyền, đánh gió cũng là một phương pháp điều chỉnh cơ thể, tạng phủ thông qua kinh lạc của tạng phủ đi qua vùng trị liệu. Mặc khác, biểu hiện sau khi giác sẽ cung cấp thêm thông tin để củng cố lý luận biện chứng của chẩn đoán. Cụ thể, tổn thương tạng phủ có thể được biểu hiện trong da, vùng đánh gió có những thay đổi màu sắc phản ánh tình trạng bệnh được đề cập trong “Hoàng đế nội kinh tố vấn - bì bộ luận”: vùng da xanh biểu hiện của đau, vùng da đen biểu hiện của tê liệt (tí), vàng hoặc đỏ biểu hiện của nóng, da sắc trắng trong khi đánh gió tức có hàn; do đó cần quan sát tỉ mỉ sự thay đổi màu sắc của da để chẩn đoán bệnh.

Trong những năm gần đây, liệu pháp đánh gió cũng đã nhận được sự chú ý, phạm vi áp dụng liệu pháp cũng dần dần được mở rộng như sốt, nhức đầu, ho, nôn mửa, đầy bụng, đau bụng, tiêu chảy, đau vai, phong hàn thấp tý, di chứng tai biến mạch máu não, bong gân cấp tính, đau thần kinh tọa, thoái hóa đốt sống thắt lưng, suy dinh dưỡng, khó tiêu, mất cảm giác ngon miệng, thậm chí được dùng trong thẩm mỹ, giảm cân.

Đánh gió cũng tương tự như các phương pháp y học cổ truyền khác, chú trọng điều chỉnh cá thể, mỗi người có một thể chất khác nhau. Theo “Linh khu” phân âm dương có 25 dạng thể tạng, mỗi dạng có cấu trúc da dày mỏng, từng vùng các bó cơ nhiều ít, tạng phủ cương nhu khác nhau nên tùy thể trạng, vùng cần đánh gió khác nhau.

Những điều cần lưu ý đánh gió 

Những điều cần lưu ý khi đánh gió như: không lạm dụng đánh gió liên tục, vì sẽ dễ gây tổn hại các cấu trúc mô da, không chỉ không giúp giảm mệt mỏi mà còn làm tăng gánh nặng bệnh trên cơ thể. Đánh gió gây tình trạng sung huyết tùy mức độ ảnh nhìn chung mất thẩm mỹ.

Những đối tượng không nên đánh gió như: da quá mỏng hoặc da mất độ dàn hồi. Da nổi mẩn đỏ, sưng, nóng, đau như viêm da herpes, mụn, nhọt… hoặc nguy cơ tổn thương cấu trúc da như vết trầy xước, lở loét, nhiễm trùng da.

Giãn tĩnh mạch của chi dưới nên hạn chế, hoặc phải thận trọng trong thao tác chú ý lực nhẹ hơn và hướng của đánh gió nên thực hiện từ dưới lên trên.

Bệnh kéo dài, suy kiệt, huyết áp thấp, hạ đường huyết, suy nhược quá mức và căng thẳng sợ đau. Suy tim, suy thận, xơ gan, phù nề nghiêm trọng. Bệnh nhân hemophilia, giảm tiểu cầu.

Gãy xương hoặc trong quá trình liền xương. Sẹo phẫu thuật cũng nên được đánh gió sau hai tháng.

Bụng dưới của phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt bị trầy xước và vùng bụng của thai phụ.