Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Bài trị viêm đường tiết niệu theo đông y

 Viêm đường tiết niệu 

là hiện tượng nhiễm trùng ở hệ thống bài tiết nước tiểu. Viêm đường niệu thuộc phạm vi chứng lâm trong Đông y.

Các triệu chứng của bệnh thường gặp bao gồm đi tiểu gấp, đi tiểu bị đau, đi tiểu ra máu, đau buốt ở vùng sinh dục... Bệnh không chỉ ảnh hưởng xấu đến tâm lý, đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn gây nhiều biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe, chức năng sinh sản, thậm chí tính mạng của người bệnh.

Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của Viêm đường tiết niệu ,

 chủ yếu do thận hư và bàng quang thấp nhiệt, gặp phải các tác nhân làm suy giảm chính khí quá mức như phòng lao quá độ, tình dục không điều hòa, giận dữ, ăn uống thái quá, thiếu khoa học... làm cho bàng quang không khí hóa được, bên trong vừa hư, vừa bị tích tụ sinh ra nội thấp kiêm nhiệt. 

 Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt: 

Đái nhiều lần, cảm giác đái nóng, đau buốt, nhỏ giọt, nước tiểu vàng, đỏ, đục, bụng dưới đau cứng hoặc đau chướng, sốt hoặc ớn lạnh, miệng đắng, đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch sác.

Pháp điều trị  Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt

Thanh nhiệt tả hỏa, lợi thấp thông lâm.

Viêm đường tiết niệu Can đởm uất nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Can đởm uất nhiệt:

 Đái nhiều lần, cảm giác đau buốt, nước tiểu vàng, đỏ, bụng dưới chướng đau, hàn nhiệt vãng lai, miệng đắng, đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch huyền sác.

Pháp điều trị Viêm đường tiết niệu do Can đởm uất nhiệt:

 Thanh tả can đởm thấp nhiệt.

 Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt

Ớn lạnh, sốt, nhiệt độ tăng cao về chiều, thân thể nặng nề, tức ngực, không đói, khô miệng nhưng không muốn uống, bụng đau chướng, tức bụng buồn nôn, nước tiểu đục, lưỡi đỏ rêu vàng dày, mạch nhu sác hoặc huyền sác.

Pháp điều trị Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt :

 Thanh lợi tam tiêu, thanh nhiệt hóa thấp.


Bài trị nhức đầu do đàm trọc, huyết ứ

 Chứng đau nhức đầu là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh, là cảm giác chủ quan chịu ảnh hưởng do tác nhân bên ngoài (ngoại cảm) hay bên trong cơ thể (nội thương). Theo y học cổ truyền, đau đầu gồm nhiều thể: can khí nghịch lên, đàm trọc, huyết ứ, thận khí suy tổn và khí huyết hư... Sau đây là một số bài thuốc trị đau nhức đầu do đàm trọc, huyết ứ.

Đau đầu do đàm trọc uất kết: 

Do tỳ yếu kém ảnh hưởng đến công năng vận hóa của tỳ, làm đàm thấp ứ đọng và không sinh được khí huyết.  Đàm thấp gây trở ngại thăng giáng làm thanh không thăng và trọc không giáng dẫn tới đau đầu.

Biểu hiện Đau đầu do đàm trọc uất kết

 nhức đầu, mặt mày xây xẩm, ngực bụng đầy tức, nôn ra đờm dãi, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền hoạt.

 Phép chữa Đau đầu do đàm trọc uất kết: 

Táo thấp hóa đờm (làm ráo thấp và hết đờm). 

Đau đầu do huyết ứ:

 Tỳ có công năng nhiếp huyết dịch nên tỳ yếu kém gây các bệnh xuất huyết, ứ huyết sinh đau.

Triệu chứng Đau đầu do huyết ứ:

 Đau đầu lâu ngày chữa nhiều không khỏi, đau như dùi châm, chỗ đau cố định, đau tăng khi trời râm hoặc chập tối, có tiền sử ngoại thương phần đầu, sắc mặt ám trệ, chất lưỡi tía tối hoặc có ban ứ, mạch tế hoặc tế sáp.

 Phép chữa Đau đầu do huyết ứ

hoạt huyết hóa ứ. 

Ngũ vị trong đông y

 Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người.

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu.

Tác dụng của các vị trong đông y

Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó.

Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được:

Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa).

Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim).
Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc).
Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm hỏng tỳ vị (hành thổ).
Vị ngọt đi vào dạ dày, tuyến tụy (tỳ, vị - hành thổ), nhưng ngọt quá sẽ hại thận và bàng quang (hành thủy).

Ngũ vị

Theo y học cổ truyền, mỗi loại thức ăn đều có những tính chất riêng, được người xưa chia ra “tứ khí” và “ngũ vị”. Tứ khí: nóng, lạnh, ấm, mát. Nóng và ấm là dương. Lạnh và mát là âm. Trong số các thức ăn hằng ngày, như các loại thịt: thịt dê có tính nóng (nhiệt), thịt chó có tính ấm (ôn), còn thịt vịt tính mát (lương).

Điều lý thú là đối với các thứ rau quả có thể thông qua màu sắc mà biết được đặc tính nóng lạnh của chúng. Các thứ rau quả có màu sắc nhạt phần nhiều là lạnh và mát, các thứ thẫm màu thường là ấm, nóng. Củ cải, lê, chuối tiêu có tính mát, còn táo, đậu đen, đậu đỏ có tính ấm. Đối với thủy sản thì đại đa số những thứ có vỏ cứng như cua, ốc, rùa... thường có tính lạnh hoặc mát; các thứ như: lươn, tôm, cá trắm... có tính ấm hoặc nóng.

Thức ăn có thể nuôi sống người và có thể hại người, cho nên cần chủ động lợi dụng các đặc tính về hàn nhiệt của thức ăn để điều chỉnh lại sự cân bằng của âm dương trong cơ thể. Người ta tuy béo gầy, cao thấp khác nhau, song để bồi bổ, có thể chia ra 2 loại lớn, đó là: “âm hư” và “dương hư”.

Người âm hư: thường thấy lòng bàn chân, bàn tay nóng, trong người bứt rứt không yên, miệng khô, chất lưỡi đỏ, mạch đập nhanh, đại tiện táo... Người thuộc tạng này nên ăn các thứ như: mộc nhĩ, hạt sen, bí đao, dưa chuột, đậu phụ, chuối tiêu, dưa hấu, thịt vịt, thịt ngỗng, trứng gà, cá diếc, cá trắm đen, ếch... Những thứ như tỏi, ớt, thịt dê không nên dùng; thịt bò, thịt chó, quả nhãn, quả vải không nên dùng nhiều.

Người dương hư: nét mặt xanh nhợt, sợ lạnh, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão nát, mạch trầm tế (mạch chìm sâu và nhỏ yếu), chất lưỡi nhạt... Người thuộc tạng này nên ăn các thức ăn hỗ trợ dương khí như: thịt dê, thịt chim sẻ...; nên ăn hoa quả như: đào, hạnh, vải, nhãn, mít, dứa...; không nên dùng quá nhiều những thứ thịt, cá và rau quả có tính lạnh.

Ngũ vị: kết quả khí hóa của âm dương. “Ngũ vị” là 5 thứ vị: cay - ngọt - chua - đắng - mặn (tân - cam - toan - khổ - hàm). Nói chi tiết thì phải kể đến cả vị nhạt (đạm), song nó thường được xếp cùng vị ngọt, cho nên thường chỉ nói đến 5 vị. Ngũ vị liên quan đến thành phần, tác dụng dinh dưỡng và tác dụng điều trị của thức ăn. Thành phần khác nhau thì vị sẽ khác nhau, giá trị dinh dưỡng và tác dụng điều trị cũng sẽ khác. Điều hòa ngũ vị không những là điều hòa sự quân bình về âm dương trong nội bộ cơ thể, mà còn là sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. Một năm có 4 mùa, phải điều hòa ngũ vị sao cho cơ thể hòa hợp được với khí 4 mùa trong trời đất. Cụ thể: mùa Xuân cần hạn chế vị chua và tăng thêm vị ngọt, mùa Hạ nên ăn ít các thứ đắng, mặn và ăn nhiều các thứ cay ấm; mùa Thu cần “giảm cay tăng chua”; mùa Đông nên hạn chế vị mặn và tăng cường vị đắng. Sự điều tiết ngũ vị trong 4 mùa cũng không ngoài mục đích là làm cho âm dương và ngũ hành trong cơ thể vận hành đồng bộ phù hợp với tứ khí 4 mùa trong trời đất. Thuận theo trời đất mà điều hòa thân thể cũng là bí quyết lớn nhất của thuật dưỡng sinh phương Đông.

Sáng tạo: ngũ vị hương

Ngũ vị hương là loại gia vị mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông. Đó vừa là sự hòa quyện khéo léo giữa triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu trong văn hóa Việt, vừa là sự phản chiếu chính xác các cung bậc tình cảm của con người. Thành phần của ngũ vị hương không giống nhau. Mỗi vùng miền lại có một cách pha chế khác nhau, phụ thuộc vào khẩu vị và đặc sản địa phương. Nhưng thành phần truyền thống là công thức bao gồm: tiêu, quế, đinh hương, hồi hương và hạt cây thì là. Các đầu bếp xưa đã cố gắng tìm ra loại gia vị “hoàn hảo”, bao gồm đầy đủ 5 yếu tố: chua, cay, mặn, ngọt, đắng. Sau đó, một cách tình cờ, họ đã kết hợp được năm loại gia vị khác nhau thành một, và cảm nhận được sức mạnh của loại gia vị mới này trong việc làm các món ăn trở nên sinh động, đậm đà.

Ngũ vị

Tiêu: đúng nguồn gốc thì phải là loại tiêu Szechwan. Gọi là “tiêu” nhưng Szechwan thuộc họ chanh, không cay, vị mạnh tựa mùi long não. Người ta chỉ dùng vỏ ngoài màu đỏ sẫm xay thành bột sau khi phơi khô. Vì không dễ kiếm trên thị trường, nên tiêu Szechwan thường được thay bằng tiêu hột. Tiêu có tác dụng kích thích tiêu hóa, ấm bụng, giảm đau, chống nôn.

Hồi hương: quả của cây hồi, có hình năm cánh xòe ra. Cây trồng được 6 năm thì bắt đầu thu hoạch và thời gian thu hoạch có thể kéo dài suốt cả tuổi thọ của cây, gần trăm năm. Quả được hái khi chưa chín và để phơi cho chín trên các phên mắt cáo, cho đến khi có màu nâu gỉ sắt. Ngoài ra, hạt cây hồi còn dùng cho bánh ngọt, bánh mì, các đồ ngọt và thức uống như trà. Hồi hương có thể chữa họng, ho.

Đinh hương: nụ hoa nguyên búp của cây đinh hương được phơi khô trong 3 ngày và có hương thơm, nhiều tinh dầu, hơi vàng nâu và rắn. Nụ đinh hương phải được bảo quản trong tối và mát. Người ta dùng đinh hương để ướp thịt cá, bánh ngọt và thức uống. Đinh hương có thể dùng trong nấu ăn hoặc là ở dạng nguyên vẹn hay ở dạng nghiền thành bột, nhưng do nó tạo mùi rất mạnh cho nên chỉ cần dùng rất ít. Trong Đông y, đinh hương được dùng để trị nấc cụt, thổ tả, đau bụng còn trong Tây y thì nó kích thích tiêu hóa, sát trùng mạnh.

Quế: gia vị lấy từ vỏ quế, hiện diện rất nhiều trong các món ngọt tráng miệng châu Âu, nhưng lại được dùng nhiều trong các món ăn mặn tại châu Á. Trong mọi trường hợp thì quế là loại tương đối đắt tiền từ trước đến nay. Quế giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch, trị các vấn đề về hô hấp, giảm đau cơ khớp, cải thiện hệ miễn dịch.

Thì là: loại cây có thể dùng cả lá, hột hoặc củ rễ để làm gia vị. Tuy có nguồn gốc từ các vùng Địa Trung Hải nhưng cây được người Trung Quốc và Ấn Độ biết đến từ rất sớm. Thì là là vị thuốc hỗ trợ tiêu hóa, giúp điều hòa thể trọng, bổ thận, trị đau bụng, đầy trướng bụng.

Ngoài năm loại gia vị truyền thống nêu trên, còn rất nhiều cách kết hợp khác để tạo nên ngũ vị hương. Một công thức thông dụng bao gồm nhục quế, hồ tiêu, đinh hương, tiểu hồi hương và đại hồi. Một số bột ngũ vị hương bán trên thị trường sẽ có thêm bột ớt hay gừng.

Triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu vào truyền thống văn hóa người Việt nói riêng và người phương Đông nói chung. Đó là triết lý của sự cân bằng, đủ đầy, hài hòa, tượng trưng cho tính cách nghề nông chất phác, thích yên bình, ổn định. Trong ẩm thực cũng thế, người Việt chuộng tính hài hòa giữa các vị, mỗi vị một tí, tạo nên sự đậm đà và dễ chịu hơn là quá nồng ở một vị riêng.

Bài trị chứng tỳ hư

 Tỳ vị là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng để nuôi toàn bộ cơ thể. Vì nguyên nhân nào đó khiến tỳ vị suy yếu, làm cho cơ thể cũng như các phủ tạng khác bị thiếu hụt dinh dưỡng, dẫn đến cơ thể suy kiệt. Tỳ thổ bị nhiễm lạnh, khí lạnh ngưng tụ nên người bệnh ăn không tiêu, bụng đầy, thường xuyên bị rối loạn tiêu hóa, phân lỏng, tiêu chảy nhiều lần, bụng lạnh, chân tay lạnh...

Người bệnh không ăn uống được, kiêng khem lâu ngày khiến cơ thể bị thiếu dinh dưỡng dẫn đến người gầy, da xanh, cơ bắp yếu mềm kèm theo môi và niêm mạc nhợt nhạt, mạch trầm tế vô lực.

Phép điều trị chứng tỳ hư

 ôn trung tán hàn, kiện tỳ dưỡng vị, phục hồi dương khí. 

chứng nhược cơ theo Đông y

 Nhược cơ là tình trạng trương lực cơ bị giảm. 

Tùy mức độ của bệnh mà trương lực cơ giảm nhiều hay ít. Trường hợp nặng người bệnh không nhấc được tay, không làm được những động tác thông thường. Bệnh thường tiến triển nặng dần từ sáng đến cuối ngày hoặc sau khi vận động.

Nguyên nhân chính của Nhược cơ 

do dẫn truyền thần kinh bị trở trệ và do chức năng của tỳ vị bị suy giảm. 

Chữa trị chứng Nhược cơ, 

Đông y thường dùng phương pháp bổ tỳ kiện vị, bổ sung tinh chất và một số vi lượng giúp quá trình thần kinh diễn ra suôn sẻ.

Bài trị Chứng can dương hư trong đông y

  Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương.

Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương. Gọi là thổ âm mà dụng dương, cho nên chứng can hư là do huyết thiếu, huyết không đủ để nuôi cơ thể, cũng có trường hợp do khí suy mà tác dụng của huyết không mạnh, vì khí dẫn huyết đi nuôi cơ thể.

Chứng can dương hư thường biểu hiện các triệu chứng: 

Tình chí u uất, rầu rĩ không vui, hay sợ hãi, mắt tối sầm nhìn mọi vật không rõ, người lạnh sợ lạnh, hạ sườn bên phải đau tức, tay chân lạnh, đầu mình tê dại, mặt tái xanh, móng tay móng chân nhợt mà khô, lãnh cảm với tình dục. Đối với phụ nữ thì bụng dưới lạnh đau, kinh nguyệt kéo dài hoặc kinh nguyệt không đều, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoặc huyền trì.

Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

Triệu chứng Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

người mệt mỏi, hay uất giận, tay chân lạnh, hay lười biếng, thận lạnh hoạt tinh mà không mộng.

Điều trị Do ưu sầu sinh chứng can dương hư: 

tiềm dương ích khí, bổ can thận.

Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

Triệu chứng Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng): 

móng tay móng chân khô, nhợt nhạt, gân bị co rút do bị hàn lạnh, tay chân mỏi rã rời cầm nắm khó khăn, mắt mờ, hay uất ức, bộ phận sinh dục ẩm ướt mà lạnh, lãnh cảm với tình dục, bụng đầy tức, ăn uống kém...

Điều trị Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

ôn dương bổ can ích khí phù tỳ.

Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

Triệu chứng Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

kinh nguyệt không điều hòa vì khí không vận chuyển được huyết để hành kinh, kỳ kinh đến muộn, bế kinh, hai mạn sườn đau nhức, bụng dưới lạnh mà đau, bào cung bị hàn không thể thụ thai, đới hạ ra nhiều trong mà lạnh.

Điều trị Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa: 

ôn bổ khí huyết, điều kinh.


Bài trị Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

 Chứng can mộc khắc tỳ thổ thường gặp trong các bệnh như: tiết tả, hiếp thống, cổ trướng, phúc thống, kinh nguyệt không đều, đới hạ...

Nguyên nhân chính Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

do can uất khí trệ, can khí lấn tỳ thổ, tỳ mất sự kiện vận, hoặc do tỳ hư thấp tà ấp ủ, làm cho thổ ủng tắc. Mộc bị uất, dẫn đến công năng của hai tạng can và tỳ không điều hòa mà sinh bệnh. Bệnh phần nhiều do uất ức, cáu giận làm tổn hại đến can, dẫn đến ăn uống kém, mệt nhọc, tư lự quá độ làm tổn thương tỳ mà sinh ra bệnh.

Biểu hiện Chứng can mộc khắc tỳ thổ : 

Bệnh nhân hay thở dài, tinh thần ức chế, ngực sườn trướng đầy đau, hay thở dài, hoặc tâm phiền dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, ăn uống kém, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão, sôi bụng, hay trung tiện, hoặc đau bụng tiêu chảy, rêu lưỡi trắng hoặc nhớt, mạch huyền. Tùy từng chứng trạng mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ (tích trệ của thức ăn)

Triệu chứng Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ: 

Bệnh nhân ngực sườn bí đầy, ợ hơi, ăn kém, hay cáu giận, uất ức, tinh thần bị căng thẳng sinh chứng đau bụng tiêu chảy.

Phép  trị Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ:

 Ức can phù tỳ.

Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết 

mà sinh bệnh hiếp thống (đau hai bên mạng sườn)

Triệu chứng Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết: 

Khi đau ở mạng sườn chủ yếu là trướng đau, đau xiên suốt cả vùng ngực. Cơn đau xuất hiện khi cáu giận, uất ức thì bệnh nặng thêm, nếu bệnh lâu ngày không được điều trị thì can khí lấn tỳ thổ,  ngoài các chứng đau còn kèm chứng ăn kém, mắt và mặt phù nhẹ, tay chân bứt rứt khó chịu.

Điều trị Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết

Sơ can lý khí kiện tỳ.

Do cơ thể bị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận, 

thủy thấp ứ đọng can, khí huyết ngưng trệ, mạch lạc ứ nghẽn, dần dần phát sinh cổ trướng

Triệu chứng cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Trên lâm sàng nghiêng về khí trệ thấp nghẽn, cho nên bụng to ấn vào không rắn, da bụng căng, dưới sườn trướng đầy, đau, ăn kém, sau khi ăn thì bụng đầy trướng, ợ hơi khó chịu, tiểu tiện sẻn, ít, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền.

Phép trị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Sơ can lý khí, trừ thấp tiêu đầy.

Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận 

mà gây nên bệnh phúc thống (đau bụng).

Triệu chứng Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

 Bệnh nhân ăn kém, bụng trướng đầy, có khi đau lan tỏa xuống bụng dưới, hoặc đau không cố định, khi ợ hơi hoặc trung tiện thì đỡ đau.

Phép trị Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

Sơ can lý khí.

Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn,

 làm mất chức năng sơ tiết, hai mạch xung nhâm không điều hòa, can uất lấn tỳ, tỳ hư không thống huyết, huyết hải tràn ứ thất thường mà sinh bệnh kinh nguyệt không đều.

Triệu chứng Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn:

 Bệnh nhân ra kinh trước kỳ, hoặc sau kỳ, lượng kinh có thể nhiều, có thể ít, hành kinh khó khăn, sắc kinh tối, có hòn cục, ngực sườn và hai bầu vú căng cứng, bụng dưới trướng nặng và đau, có khi phiền táo, giận giữ, biếng ăn...

Phép trị Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn: 

Sơ can kiện tỳ, dưỡng huyết điều kinh.

Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can. 

Can khí hoành nghịch phạm tỳ, tỳ mất chức năng vận hóa, sinh ra thấp trọc, thấp nhiệt uất lâu ngày hóa nhiệt, thấp nhiệt dồn xuống, làm tổn thương mạch xung và mạch đới mà sinh chứng đới hạ (khí hư ra nhiều)...

Triệu chứng Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can:

 Bệnh nhân hoàng đới (khí hư có màu vàng) ra liên miên không dứt, keo dính có mùi hôi, hoặc chảy ra nước vàng có kèm theo huyết dịch. Bộ phận sinh dục nóng rát hoặc ngứa, miệng đắng họng khô, tâm phiền hay cáu giận, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão.

Điều trị Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can: 

Sơ can thanh nhiệt lợi thấp.