Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Bài buồng trứng đa nang theo y học cổ truyền

  Bệnh đa nang buồng trứng có thể phát sinh ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Người bệnh thường có kinh nguyệt không đều, không có thai, đa mao (nhiều lông, béo phì, phì đại buồng trứng.

Kinh nguyệt không đều là dấu hiệu thường gặp nhất của người mắc Bệnh đa nang buồng trứng  , đa số biểu hiện bế kinh liên tục, trước khi bế kinh biểu hiện kinh nguyệt loãng hoặc quá ít.

Đối với y học cổ truyền, theo các tài liệu và thư tịch không có bệnh danh nào là đa nang buồng trứng. Căn cứ vào triệu chứng và nguyên nhân bệnh lý của đa nang buồng trứng cho thấy bệnh này có liên quan đến thận hư, đàm ẩm và can uất.

 Đa nang buồng trứng Thể thận hư

Triệu chứng Đa nang buồng trứng Thể thận hư

thường phát hiện ở thời kỳ dậy thì, tuổi xuất hiện kinh nguyệt bị chậm lại, thậm chí tắt kinh. Thận khí hư suy không thể sinh tinh huyết, gây nên bệnh.

Đa nang buồng trứng Thể đàm thấp

Triệu chứng Đa nang buồng trứng Thể đàm thấp

béo, đôi lúc bị chứng béo phì. Tỳ thận âm hư, đờm thấp trì trệ, vận khí, cơ năng sinh hóa không đủ, kinh nguyệt không đều.

Đa nang buồng trứng Thể can uất

Triệu chứng Đa nang buồng trứng Thể can uất

thương tổn tình chí bên trong, bên ngoài là do lục dâm chi phối, hoặc khí huyết hưng thịnh, âm dương tương thừa gây ra. Nếu vì thất tình lục dục phân ưu, khiến cho gan khí uất kết lại, sự điều tiết thất thường, khí trì huyết đọng, xung nhâm không thể tương tu, tử cung ra máu, hành kinh không điều hòa

Phương pháp trị liệu Cứu theo y học cổ truyền

 Ngày nay, hầu như mọi người quên mất rằng cụm từ “châm cứu” có nghĩa là “châm” và “cứu”, với đa số cách hiểu của mọi người chỉ biết đến phần “châm” mà quên đi hoặc không biết đến phần “cứu” mà hiệu quả của nó trong nhiều trường hợp còn tốt hơn phương pháp châm bằng kim.

Cứu (đốt cứu = đốt ngải cứu) :

là đưa sức nóng tác động vào huyệt, là phương pháp trị liệu và ngăn ngừa các chứng bệnh bằng cách dẫn truyền sức nóng vào các huyệt đạo hoặc các vùng nhất định của cơ thể con người. Vật liệu chủ yếu là bột ngải cứu ép thành điếu (điếu ngải cứu) hay các viên nhỏ hình chóp hoặc trụ (mồi ngải cứu).

Cách chế ngải để đốt cứu: 

bột ngải cứu làm bằng lá ngải cứu khô, tán nhuyễn, lọc hết phần cọng, xơ, chỉ lấy phần thịt lá. Phần bột ngải cứu này được dùng để tạo hình các đốt cứu có hình dạng và kích thước khác nhau: hình trụ dài như điếu xì gà, viên nhỏ để gắn đầu kim, hạt đậu... Có thể dùng bột ngải cứu đơn thuần hoặc pha thêm bột dược liệu khác như xạ hương, quế...

Phương pháp đốt cứu có tác dụng như thế nào?

Ngải cứu khi cháy hơ ấm lên cơ thể tạo cảm giác nóng dịu, đồng thời ngấm sâu vào trong da, tác động đến huyệt tạo cảm giác thoải mái, hiệu quả trong điều trị tỏa ra mùi thơm đặc trưng.

Cứu: Phương pháp điều trị hiệu quả  và độc đáo

Sức nóng: sử dụng sức nóng (nhiệt) để trị liệu ngày nay rất phổ biến với nhiều cách khác nhau như bức xạ hồng ngoại (từ đèn hồng ngoại), chườm nóng bằng túi nước nóng, ngâm parafin, đông y cũng có phương pháp chườm thảo dược. Nhưng điểm khác của phương pháp đốt cứu với các phương pháp kể trên đó là hiệu quả sức nóng sẽ gia tăng gấp bội nếu tác động làm nóng lên một điểm chính xác rất nhỏ của cơ thể là huyệt đạo, có đặc tính trị bệnh, làm dịu đau đối với nhiều chứng bệnh khác nhau đã được người ta biết đến hàng ngàn năm qua. Tác dụng ở đây đến từ sự kết hợp của sức nóng và hiệu quả phản xạ trị liệu của châm cứu. Như vậy, việc sử dụng sức nóng tại một điểm chính xác gọi là huyệt thay vì sử dụng sức nóng trên một diện tích rộng như đèn hồng ngoại sẽ tăng cường tác dụng gấp nhiều lần.Theo các nguyên lý của thần kinh, những kích thích bên ngoài khi tới da đều được những dây thần kinh ở nơi bị kích thích đưa về não. Kích thích bởi nhiệt cũng vậy. Ngải cứu khi cháy đỏ tạo ra sức nóng từ 500 - 6000C, thuộc thành phần tia hồng ngoại trong dải quang phổ. Khi được giữ ở khoảng cách phù hợp bên trên làn da thì mồi ngải không tạo ra bất cứ cảm giác khó chịu nào, không để lại dấu vết gì trên da.

Y học cổ truyền coi hai phương pháp châm và cứu có tầm quan trọng ngang nhau. Châm thường sử dụng trong điều trị bệnh thuộc thực (mới bị bệnh), bệnh thuộc nhiệt (nóng); cứu thường sử dụng trong bệnh lý thuộc hư (bệnh đã lâu), bệnh thuộc hàn (lạnh). Theo học thuyết âm dương, nếu gọi châm là dương thì cứu là âm, cho nên cứu chịu nửa phần trách nhiệm trong việc trị bệnh. Từ thời thượng cổ, việc đốt cứu đã phát triển mạnh tại Á châu: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn quốc. Trong nhiều thời đại lịch sử Trung Quốc, việc trị bệnh bằng châm kim nhiều khi phải nhường bước cho việc trị bệnh bằng đốt cứu.

Các cách sử dụng của cứu

Cứu điếu ngải:

 ngải cứu được chế thành điếu hình trụ dài, khi đốt cháy một đầu, tay thầy thuốc cầm điếu ngải hơ trên huyệt đạo của người bệnh. Có 4 cách đốt điếu ngải chữa bệnh như sau:

Cứu điếu ngải để yên (cứu ấm): 

đốt đầu điếu ngải, hơ trên huyệt, cách da độ 2cm. Khi người bệnh thấy nóng thì cách xa dần ra, đến mức nào người bệnh thấy nóng ấm và dễ chịu thì giữ nguyên khoảng cách đó cho đến khi vùng da được cứu hồng lên là được (thường 1  - 3 phút cho 1 huyệt và khoảng 15 -20 phút cho 1 lần điều trị). Khi cứu nên dùng ngón tay út, đặt lên da làm điểm tựa để cố định khoảng cách đầu điếu ngải với da. Cách cứu này dùng cho mọi chỉ định của cứu.

Cứu xoay tròn:

 đặt diếu ngải cách da 2cm khoảng đủ thấy nóng ấm, rồi từ từ di chuyển điếu ngải theo vòng tròn, từ hẹp tới rộng. Khi người bệnh thấy nóng đều vùng định cứu là được. Thường kéo dài khoảng 20 phút/ lần điều trị. Cách cứu này hay dùng để chữa các bệnh ngoài da.

Cứu điếu ngải lên xuống (cứu mổ cò): 

đưa đầu điếu ngải lại gần sát da (người bệnh có cảm giác nóng rát) rồi lại kéo điếu ngải xa ra, làm như thế nhiều lần, thường cứu trong khoảng 1-3 phút/ huyệt và 20 phút cho lần điều trị. Cách cứu này thường dùng cho chứng thực và trong chữa bệnh cho trẻ em.

Cứu: Phương pháp điều trị hiệu quả  và độc đáo

Cứu mồi ngải:

Viên trên da: đặt viên ngải cứu hình chóp trên da và đốt trực tiếp, khi bệnh nhân cảm thấy nóng và ngải chưa cháy hết đến phần chân thì lấy ra, phần da hơi đỏ ửng lên là được, không để người bệnh bị phỏng. Thầy thuốc cần theo dõi sát người bệnh và lấy viên ngải ra đúng lúc.

Cách gừng, cách muối, cách tỏi: đặt một lát gừng hoặc rải một lớp muối, một lát tỏi lên da người bệnh rồi đặt mồi ngải lên trên. Mồi ngải cháy rạo ra sức nóng thấm qua muối, tỏi, gừng rồi mới tới da người bệnh. Phương pháp này an toàn hơn đặt viên ngải trực tiếp lên da. Thầy thuốc cần theo dõi sát người bệnh. Cứu cách gừng áp dụng cho bệnh lý ngoại cảm, khu phong tán hàn; cứu cách muối thường ôn trung tán hàn hoặc hồi dương cứu nghịch thường sử dụng ở rốn, cứu cách tỏi thuồng sử dụng ở vùng da bị viêm: khu phong, thanh nhiệt (tại chỗ).

Trên đuôi cây kim: sức nóng lan theo cây kim vào chính xác huyệt đạo, tác dụng tại huyệt đạo vừa do tác dụng của châm kim vừa do sức nóng của ngải cứu. Các bệnh đau nhức do phong thấp kinh niên (khu phong trừ thấp) và các chứng đau mạn khác như thoái hóa khớp rất hiệu quả sau vài lần điều trị.

Thời gian: thời gian cứu trên một huyệt đạo từ 1 - 3 phút; cứu 1 lần 15 - 20 phút. Cứu 1 - 2 lần/ngày, liệu trình 10 - 12 ngày hoặc lâu hơn tùy thuộc sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Hầu như không có có hiện tượng bị lờn, nghiện đối với phương pháp cứu, cứu hỗ trợ cơ thể lập lại sự quân bình âm dương.

Tóm lại: nếu châm giải quyết các bệnh cấp tính, mới mắc, bệnh về nhiệt thì hiệu quả của cứu thiên về bệnh lý đã lâu (hư), thiên về bệnh lý hàn (lạnh)  hiệu.

Một số bệnh lý cứu rất hiệu quả

- Đau cột sống: Đốc du, A thị huyệt...

- Suy nhược thần kinh: Bách hội, Nội quan, Túc tam lý, Thần môn, Tâm du…

- Nấc cụt: Cách du, Nội quan...

- Mất ngủ: Ngoại lăng, Thất miên...

- Thiếu sữa: Đản trung, Nhũ căn, Thiếu trạch...

- Đau thắt lưng do thoái hóa cột sống, do tư thế: A thị huyệt.

- Khó tiêu hóa: Trung quản, Thần khuyết, Túc tam lý.

- Liệt dây VII ngoại biên:  Nhân trung, Ấn đường, Địa thương, Giáp xa, Ế phong, Phong trì…

- Côn trùng chích: cứu xoay tròn trên vùng bị chích.

- Cảm sổ mũi: Nghinh hương, Bách hội, Phong trì, Thần đình, Phế du, Cao hoang, Kinh cự.

- Mụn trứng cá: cứu cách tỏi vùng mụn,

- Mất tiếng: cứu các huyệt Khổng tối, Thiên đột, Ngoại kim tân, Ngoại ngọc dịch...

- Đau bụng do bị lạnh bụng: cứu ngay rốn (Thần khuyết).

Trên lâm sàng cứu có thể sử dụng đơn độc hoặc kết hợp một liệu trình gồm:  châm  kết hợp với cứu; hoặc cứu ấm kết hợp xoa bóp vùng; hoặc cứu kết hợp day ấn huyệt. Nhiều trường hợp không thể hoặc khó châm do tâm lý ngại hoặc sợ châm thì cứu tỏ ra hiệu quả trong điều trị. có thể kết hợp rất hiệu quả giữa xoa bóp - bấm huyệt và cứu ấm trong trường hợp phụ nữ có thai, trẻ em...

Ngày nay phương pháp cứu ít được sử dụng vì rất mất thời gian và tốn nhân lực, thầy thuốc phải ngồi cứu liên tục từ 15 - 20 phút trên một bệnh nhân, người ta thích dùng các phương pháp làm ấm khác như đèn hồng ngoại, túi chườm thảo dược… sẽ tiện lợi và nhanh chóng hơn. Hơn nữa khi đốt điếu ngải để cứu sẽ tạo ra khói và mùi đặc trưng của ngải, khó sử dụng trong phòng máy lạnh. Tuy nhiên, cứu là phương pháp cổ truyền độc đáo cần phát huy và duy trì vì có những tính năng riêng và hiệu quả mà không phương pháp nào thay thế được, cần được nhìn nhận đúng thực chất, hiệu quả để cứu có thể sử dụng đơn độc hoặc kết hợp với châm tạo nên phương pháp điều trị là “châm cứu” hoặc cứu có thể thay thế nhiều trường hợp không thích hợp với thể châm mà vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị trong y học cổ truyền.

Bài trị thiểu năng tuần hoàn não theo y học cổ truyền

 Thiểu năng tuần hoàn não :

là một bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi, có nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau: nhức đầu, chóng mặt, rối loạn về giấc ngủ... nhưng có cùng chung một cơ chế bệnh sinh là thiếu máu nuôi não.

Nguyên nhân  Thiểu năng tuần hoàn não :

do vữa xơ động mạch, nghĩa là thành động mạch có lắng đọng mảng vữa, gồm chủ yếu chất mỡ và tổ chức xơ... Bên cạnh các thuốc điều trị của YHHĐ, YHCT cũng có nhiều hiệu quả trong điều trị thiểu năng tuần hoàn não.

Trong Y học cổ truyền, bệnh này nằm trong phạm vi các chứng đầu thống, huyễn vựng, thất miên... Theo YHCT, cơ chế bệnh sinh do nhiều nguyên nhân: tuổi cao làm chức năng của tạng phủ bị suy giảm, do chế độ ăn uống và sinh hoạt không hợp lý, ăn nhiều thức ăn béo, dầu mỡ… hay ăn uống thiếu thốn kéo dài... đều làm ảnh hưởng đến chức năng của các tạng phủ, làm khí huyết hư sinh ra các chứng đầu thống, huyễn vựng, thất miên…

 Thiểu năng tuần hoàn não Thể tỳ hư đàm thấp

Triệu chứng Thiểu năng tuần hoàn não Thể tỳ hư đàm thấp: 

Chóng mặt, nhất là khi thay đổi tư thế, đầu luôn có cảm giác căng nặng, ngực bụng đầy tức, ăn có cảm giác dễ buồn nôn, người mệt mỏi, nặng nề. Chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch trầm hoạt hoặc nhu hoạt.

Điều trị Thiểu năng tuần hoàn não Thể tỳ hư đàm thấp:

kiện tỳ, hóa đàm, hoà vị.

 Thiểu năng tuần hoàn não Thể khí huyết lưỡng hư

Triệu chứng Thiểu năng tuần hoàn não Thể khí huyết lưỡng hư: 

Người bệnh thường chóng mặt, hoa mắt, váng đầu hay hồi hộp, mất ngủ, người mệt mỏi, ăn kém, bụng đầy tức, khi lao lực thì các triệu chứng này lại nặng lên. Chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.

Điều trị Thiểu năng tuần hoàn não Thể khí huyết lưỡng hư: 

 bổ dưỡng khí huyết, kiện tỳ.

bài suy nhược do thận dương hư

 Suy nhược cơ thể do thận dương hư 

thường gặp ở người cao tuổi, đại tiện lỏng mạn tính, suy nhược thần kinh, hưng phấn giảm. Người bệnh thường sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng gối mỏi yếu, răng lung lay, di tinh, hoạt tinh, liệt dương, tiểu tiện nhiều lần, suyễn, tai ù, đại tiện lỏng về buổi sáng (ngũ canh tả), mạch trầm trì nhược. 

Phương pháp chữa Suy nhược cơ thể do thận dương hư :

 ôn bổ thận dương. 

Bài chữa thấp khớp theo y học cổ truyền

 Bệnh thấp khớp y học cổ truyền gọi là “chứng tý”

 hiện nay là một loại bệnh rất hay gặp, biểu hiện của bệnh là đau nhức sưng tấy hoặc nóng đỏ ở các khớp xương hay cơ gân; nhiều chỗ hay một chỗ, có khi kiêm cả tê dại nặng nề, bệnh thường liên miên khi khí hậu thay đổi (lạnh) thường phát nặng hơn.

Khác với bệnh phong, hàn và thấp đơn thuần, đặc điểm của bệnh thấp khớp là đủ cả 3 khí phong, hàn và thấp kết hợp lại thành bệnh, cho nên người xưa biện chứng nhận xét trong 3 khí, khí nào nhiều hơn, để chia ra 3 loại mà điều trị, như: Bệnh di chuyển từ nơi này qua nơi khác, là do phong khí nhiều, nên gọi là phong ý (hành tý). Đau nhức kịch liệt và liên tục là do hàn khí nhiều, nên gọi là hàn tý (thống tý). Đau cố định một chỗ mà kèm có nặng nề tê dại là do thấp khí nhiều, nên gọi là thấp tý (trước tý). Lâu ngày, phong hàn thấp hóa nhiệt kết hợp với âm hư gây nên thể “nhiệt tý” là những đợt cấp diễn của thấp khớp kinh. Tổng hợp cả 4 thể trên quy nạp lại có 2 loại chính như sau:

 Bệnh thấp khớp Loại cấp tính:

Phát bệnh đột ngột sưng tấy nóng đỏ, đau nhức kịch liệt hoặc phát sốt hoặc có khát nước, buồn bực khó chịu, rêu lưỡi nhờn mỏng, mạch phù sác hoặc khẩn.

Phép chữa Bệnh thấp khớp Loại cấp tính:

 Khu phong, tán hàn, trừ thấp, thanh nhiệt.

Bệnh thấp khớp Loại mạn tính:

Bệnh phát từ từ hoặc ở cấp tính chuyển qua mạn tính, đau nhức nhẹ, không sưng hoặc có sưng mà da bình thường không tấy đỏ, không nóng, có khi ngoài da có chỗ tê dại, tay chân co duỗi khó khăn hoặc không vận động được, thay đổi thời tiết thì đau hơn, rêu lưỡi trắng nhờn hoặc vàng, mạch có khi trầm hoãn, có khi nhu hoãn.

Phép chữa Bệnh thấp khớp Loại mạn tính

Khu phong, tán hàn, trừ thấp và chú ý đến bồi bổ cơ thể.



Bài lao xương khớp theo y học cổ truyền

 Lao xương khớp, y học cổ truyền gọi là “cốt cao” hoặc “lưu đàm”. 

Nguyên nhân Lao xương khớp:

do tiên thiên bất túc, tinh huyết của can thận bị hao tổn, xương bị yếu, đàm độc nhân thể xâm phạm làm khí huyết ngưng trệ mà gây nên bệnh.

Lao xương khớp Thể đàm trọc ngưng tụ

Biểu hiện Lao xương khớp Thể đàm trọc ngưng tụ:

 Khớp xương đau ê ẩm nhưng lúc đau lúc không. Vận động đau tăng lên, hơi sưng hoặc không sưng. Không nóng, không đỏ.

Lao xương khớp Thể âm hư hỏa vượng

Biểu hiện Lao xương khớp Thể âm hư hỏa vượng :  

các chứng trạng tại khớp xương bị lao rõ ràng kèm theo sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, ăn uống kém, miệng khô, lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Lao xương khớp Thể khí huyết đều hư

Biểu hiện Lao xương khớp Thể khí huyết đều hư:

 Các chứng trạng ở khớp, xương, cơ rõ ràng biến dạng các khớp và xương, rò mủ lao, tinh thần mệt mỏi, sức khỏe yếu, sốt, ăn uống kém, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, sắc lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Bài trị nhiệt miệng theo đông y

 Nhiệt miệng là chứng bệnh thường phát về mùa hè với những vết viêm loét ở đầu lưỡi hoặc ở niêm mạc trong khoang miệng, kèm theo viêm lợi, ngứa lợi, lợi có màu đỏ, hơi sưng nề, dễ chảy máu, sốt, mất ngủ, tâm phiền, có những cơn bốc hỏa toát mồ hôi, ăn uống kém, táo bón kéo dài, căng thẳng thần kinh. 

Theo Ðông y, nguyên nhân chính Nhiệt miệng :

 do tâm hỏa cang thịnh và do tỳ vị bị tích nhiệt.

Nhiệt miệng do tâm hỏa cang thịnh:

 Người bệnh có những nốt loét ở đầu hoặc thân lưỡi, gây đau rát, xót, vì vậy người bệnh nhiều khi bỏ ăn vì sợ đau, uống nước nguội thấy dễ chịu. Kèm theo đau đầu, sốt, đại tiện thường táo, tiểu tiện đỏ lượng ít, mất ngủ, nếu là nam giới dễ bị di hoạt tinh, cơ thể suy nhược. 

Phép trị Nhiệt miệng do tâm hỏa cang thịnh

 là tả tâm hỏa, bổ thận thủy kèm chống viêm thanh nhiệt. 

Nhiệt miệng do tỳ vị tích nhiệt:

 Người bệnh có biểu hiện lợi sưng đau, dễ chảy máu, lưỡi đỏ, có những nốt loét trong khoang miệng, người bệnh đau đớn không ăn uống được kèm theo đại tiện táo kết, bụng đầy trướng, hơi thở nóng, tâm rạo rực, thích uống đồ mát...

 Phép trị Nhiệt miệng do tỳ vị tích nhiệt:

 thanh nhiệt lương huyết, chống viêm kết hợp dưỡng tâm tỳ.