Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

Bài chữa đau tức hông sườn ở thai phụ theo đông y

 Đau tức ngực sườn, khó thở (Đông y gọi tử huyền) rất thường gặp ở người mang thai, nhất là người hay lo lắng, căng thẳng thái quá.

Chị em có biểu hiện phần hông ngực sườn đầy trướng khó thở, bụng như no đầy căng tức, khi căng thẳng, xúc động, bệnh tăng. 

Nguyên nhân Đau tức ngực sườn, khó thở :

phần lớn do can khí uất nghịch, liên quan đến huyết hư, can uất tỳ hư, can uất đàm nghịch...

Phép trị Đau tức ngực sườn, khó thở:

 chủ yếu bình can khai uất, dưỡng can ích thận kiện tỳ hóa đàm, thông trệ... Ngoài ra, nên ăn uống vị bổ mát, tránh vị khô, cay nóng, thức ăn có dầu mỡ khó tiêu, tránh căng thẳng. Tử huyền không được điều trị kịp thời không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ mà rủi ro đến thai nhi.

Dưới đây là 3 phương trị tử huyền rất hiệu quả :

Có thai đau tức ngực sườn do can uất huyết hư:

 Chị em tinh thần không thoải mái, mệt mỏi chóng mặt. 

Phép trị Có thai đau tức ngực sườn do can uất huyết hư : 

Giải uất, kiện tỳ, dưỡng huyết, bình can...

Có thai đau tức ngực sườn do can uất tỳ hư: 

Chị em thần sắc thất thường, hay đau tức hông sườn, ợ chua, ợ hơi.

Phép trị Có thai đau tức ngực sườn do can uất tỳ hư: 

Kiện tỳ hòa trung, hóa trệ, an thai...

Có thai đau tức ngực sườn do can uất đờm trệ:

 Chị em bụng hông sườn đầy tức, nằm xuống thì khó thở. 

Phép trị Có thai đau tức ngực sườn do can uất đờm trệ:

Hành khí khai uất, dưỡng huyết điều hòa can tỳ... 

Phương pháp ức chế cơn giận theo y học cổ truyền

 Cuộc sống có những khó khăn, có những bất đồng trong vô vàn các mối quan hệ khiến con người không thể tránh khỏi có những lúc giận dữ. điều quan trọng là giải tỏa cơn giận như thế nào.

Giận là gì?

Theo Michael Kent, giận có thể được xem như là “một hình thức phản ứng và đối phó được sinh khởi để giúp con người có thể ứng phó trước những sự đe dọa”.

Theo Từ điển bách khoa về Tâm lý học của Gale: “Tức giận là một trong những xúc cảm chính của con người. Tức giận thường phát sinh bởi sự thất vọng về những cố gắng để đạt được một múc đích nào đó, hay bởi những hành động đạt được một mục đích nào đó, hay bởi những hành động chống đối hoặc gây phiền phức, chẳng hạn như những lời sỉ nhục, những sự tổn thương hay những sự đe dọa không xuất phát từ một nguồn đáng sợ. Những nguyên nhân gây ra tức giận đối với mỗi người vào những thời điểm khác nhau là không giống nhau trong cuộc sống của họ”.

Trong y học cổ truyền, giận (hay “nộ”) là một trong bảy loại tình chí gây ra bệnh tật cho con người, phát sinh từ chính bản thân người bệnh. Đó là nguyên nhân xuất phát từ tâm lý gây ra các triệu chứng khó chịu lên cơ thể.

Tác hại của giận lên sức khỏe

Giận là tình chí của tạng Can, 

khi giận dữ quá mức sẽ làm hại đến công năng của Can. Ngược lại khi chức năng Can bị rối loạn thì cũng dễ làm con người hay giận, dễ cáu gắt.

Can có chức năng chủ sơ tiết, điều này có liên hệ chính đến trạng thái tâm lý của cơ thể, nếu Can bình thường thì tâm trạng sẽ sảng khoái, thoải mái.

Khi công năng của Can rối loạn sẽ dẫn đến các biểu hiện sau: khó dỗ giấc ngủ, ngủ không yên, hay giật mình trong giấc ngủ do Can có chức năng tàng huyết, điều huyết. Hay mỏi mắt, đau mắt, giảm thị lực do Can khai khiếu ra mắt. Khi giận, chúng ta cũng khó tập trung suy nghĩ, phán đoán thiếu chính xác, như ông bà ta hay nói “giận quá mất khôn”, điều này là do Can chủ mưu lự, giúp chúng ta suy nghĩ chính chắn, khả năng phán đoán sự việc tinh tế. Có đôi khi sau cơn giận cực điểm, một số người rơi vào trạng thái trầm cảm, ấy là vì chức năng Can tàng hồn bị rối loạn, gây ra rối loạn cảm xúc, bi quan.

Ngoài ra, tạng Can còn quan hệ biểu lý với phủ Đởm (Đởm chứa đựng Mật do Can tạo ra) nên khi giận thì miệng đắng, ăn không ngon. Theo ngũ hành sinh khắc, Can Tỳ tương khắc gây nên tình trạng ăn uống khó tiêu, đầy bụng.

Phương pháp thư giãn ức chế cơn giận

Giận là một trạng thái của cảm xúc thì nên được chữa bằng cảm xúc. Phương pháp đơn giản nhất để chăm sóc cảm xúc có lẽ là “thở”. Tập trung vào hơi thở không chỉ khiến cơn giận biến mất mà còn giúp điều hòa khí huyết trong cơ thể, giúp cơ thể lấy lại trạng thái cân bằng âm dương. Kế thừa chủ trương “Nam dược trị Nam nhân” của Tuệ Tĩnh, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng - nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế cũng đã kết hợp các phương pháp lý luận và thực tiễn, sáng tạo ra bài dưỡng sinh riêng. Trong lúc cơn giận lên đến cực đỉnh, chúng ta có thể dùng bài tập 1 - thư giãn để làm giảm cơn giận. Bài tập như sau:

Tư thê: nằm che mắt, nơi yên tĩnh.

Bước 1: ức chế ngũ quan.

Bước 2: tự nhủ cho cơ mềm ra, giãn ra; từng nhóm cơ, từ trên mặt xuống dần đến ngón chân, một cách từ từ chắc chắn. Toàn thân nặng xuống ấm lên.

Bước 3: theo dõi hơi thở 10 lần, thở thật êm, nhẹ, đều, nông.

Khi cơn giận giảm xuống, chúng ta áp dụng bài tập 2. Thở bốn thời có kê mông và giơ chân để lấy lại quân bình hưng phấn và ức chế của thần kinh. Bài tập như sau:

Tư thê: nằm ngửa thẳng, kê một gối ở mông, cao khoảng 5 - 8cm vừa sức, tay trái để trên bụng, tay phải để trên ngực; nhắm mắt, chú ý vào việc tập thở.

Thời 1: hít vào tối đa, ngực nở bụng phình và căng (3”- 6”).

Thời 2: giữ hơi, mở thanh quản bằng cách cố gắng hít thêm, lồng ngực vẫn giữ nguyên ở tình trạng nở tối đa, bụng vẫn phình căng cứng, đồng thời giơ một chân giao động qua lại 4 cái, rồi hạ chân (3”- 6”).

Thời 3: thở ra thoải mái tự nhiên, để lồng ngực và bụng tự nhiên hạ xuống, không kềm không thúc (3” - 6”).

Thời 4: thư giãn chân tay mềm giãn. (3”- 6”); chuẩn bị trở lại thời một, hít vào.

Hai bài tập trên cũng có thể áp dụng tập mỗi ngày, rất tốt cho sức khỏe thể chất cũng như tinh thần. Ngoài ra chúng ta cũng nên tạo ra những thói quen tốt để không còn thời gian dành cho cơn giận nữa như: tập thể dục, đọc sách, trồng cây...

Có nên nổi giận?

Cuộc sống không phải luôn trải thảm hoa nên giận dữ là một phần của cuộc sống, biết giận đúng người, đúng lúc cũng giúp giải quyết những rắc rối. Tuy nhiên, “dĩ hòa vi quý” vẫn là lẽ hơn. Bởi có âm nên có dương, vì có giận nên có “nhẫn”, nhẫn để tạo hòa khí, ấy là “lấy nhu thắng cương”.

Không chỉ giận dữ mà bất cứ điều gì thái quá cũng không tốt. Giữ được cân bằng cho cuộc sống thật sự là một điều cần thiết.

Trẻ ra mồ hôi trộm theo đông y

 Mồ hôi trộm 

là hiện tượng ra mồ hôi không liên quan đến nhiệt độ môi trường và chỉ khi ngủ mới bị.

Trẻ ra mồ hôi trộm nhiều hơn người lớn vì hệ thần kinh thực vật chưa hoàn thiện, dễ rối loạn. 

Nguyên nhân ra mồ hôi trộm 

theo Đông y là do âm hư, không nuôi dưỡng tốt phần lý nên lúc ngủ mồ hôi toát ra. 

Bài trẻ chậm lớn do nội nhiệt theo y học cổ truyền

 Theo y học cổ truyền, chứng nội nhiệt còn gọi lý nhiệt

biểu hiện nóng trong, miệng khô khát, táo bón, tiểu vàng, đỏ, sắc mặt hồng, môi đỏ, nóng bứt rứt, khó ngủ, ho khan, gầy gò. Nguyên nhân phần nhiều do thể chất vốn âm hư lại hay ăn chất bổ béo, khô mặn nóng quá, cũng có khi do cảm sốt không trị mà sinh nội nhiệt.

Trẻ mắc chứng này nếu không điều trị, lâu ngày tân dịch càng tiêu hao khiến trẻ khó lên cân, ảnh hưởng đến phát triển thể lực. Sau đây là một số phép trị chứng này.

Trẻ nội nhiệt sau ngoại cảm, hết sốt mà nóng trong: 

Phép trị Trẻ nội nhiệt sau ngoại cảm, hết sốt mà nóng trong: 

thanh nhiệt sinh tân, giải nhiệt tà. 

Trẻ nội nhiệt có ho khan, đờm vàng: 

Phép trị Trẻ nội nhiệt có ho khan, đờm vàng :

dưỡng âm nhuận phế.

Trẻ nội nhiệt bứt rứt khó ngủ:

Phép trị Trẻ nội nhiệt bứt rứt khó ngủ:

bổ âm dưỡng tâm, thanh nhiệt, an thần.

Trẻ nội nhiệt, hay nổi mụn nhọt:

Phép trị Trẻ nội nhiệt, hay nổi mụn nhọt:

dưỡng âm thanh nhiệt. 

Nếu trẻ nội nhiệt hay đi tiểu vàng, đỏ:

Phép trị: Nếu trẻ nội nhiệt hay đi tiểu vàng, đỏ:

tư âm, thanh thấp nhiệt..

Nếu trẻ nội nhiệt, ăn kém, tiêu chảy lâu ngày: 

Phép trị Nếu trẻ nội nhiệt, ăn kém, tiêu chảy lâu ngày: 

kiện tỳ dưỡng vị âm. 

Suy nhược cơ thể theo đông y

  Suy nhược cơ thể hay gặp ở phụ nữ tiền mãn kinh, tăng huyết áp và xơ cứng động mạch ở người cao tuổi, người bị suy nhược thần kinh.

Biểu hiện Suy nhược cơ thể

hư phiền, khó ngủ,  dễ cáu gắt, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, lưỡi khô, mạch huyền tế sác. 

Theo Đông y, nguyên nhân Suy nhược cơ thể

 do can âm hư, khí huyết kém. 

phương pháp chữa Suy nhược cơ thể

chủ yếu là bổ can âm

Bài xơ gan, gan nhiễm mỡ theo Đông y

 Y học cổ truyền cho rằng gan nhiễm mỡ thuộc về loại tích tụ và đàm ứ. 

Nguyên nhân gan nhiễm mỡ

 phần nhiều do ăn uống không điều độ, tinh thần không thư thái, rượu chè quá mức, sinh ra can khí uất kết, thấp nhiệt đàm ẩm ứ đọng, khí huyết trở trệ dưới mạng sườn.

Gan nhiễm mỡ là tình trạng chất béo trong gan (chủ yếu là triglycerides) vượt quá 5% trọng lượng gan. Gan nhiễm mỡ ở mức độ nhẹ khi lượng mỡ trong gan chiếm từ 5-10%, mức độ trung bình là từ 10-25% và nếu vượt quá 30% là mức độ nặng.

Bệnh gan nhiễm mỡ dưới góc nhìn đông y

Đông y cho rằng, gan nhiễm mỡ không phải một bệnh lý. Mà thực tế nó là biểu hiện của các chứng như: Huyễn vựng, đầu thống, đờm ẩm, hung tý. Căn nguyên của tình trạng này có thể là do:

Bệnh gan nhiễm mỡ Sử dụng các thực phẩm lạnh: 

Từ đó gây hại đến Tỳ. Lúc đó, Tỳ không đủ sức để vận hóa thủy thấp cũng như chuyển hóa các chất dinh dưỡng. Hệ quả làm cho thủy thấp và dưỡng chất đọng lại gây gan nhiễm mỡ.

Các nguyên nhân dẫn đến gan nhiễm mỡ

Bệnh gan nhiễm mỡ do sử dụng nhiều chất béo, đồ ngọt hoặc uống rượu: 

Cũng là lý do gây tác động đến Tỳ và khiến hình thành bệnh.

Bệnh gan nhiễm mỡ do Thận khí hư suy: 

Với những người lớn tuổi, cơ thể thường bị suy yếu. Khi đó thận khí hư suy cũng sẽ dễ gây gan nhiễm mỡ.

Bệnh gan nhiễm mỡ do Tình chí bị thương tổn gây can khí bị uất trệ, ứ huyết: 

Khi can khí uất kết sẽ lấn sang làm tổn thương Tỳ vị. Hậu quả làm tỳ mất chức năng vận hóa, lượng mỡ sẽ không chuyển hóa được sẽ ứ đọng và dẫn đến bệnh. Khi đó một số bài đông y sẽ có tác dụng giảm quá trình peroxide hóa lipid ở gan. Đồng thời giúp giảm áp lực tới gan, tăng cường chức năng của gan, hỗ trợ gan hồi phục lại nhanh chóng.

Dùng Đông y để loại bỏ bệnh gan nhiễm mỡ đang là một xu thế trong xã hội hiện đại. Đây là hệ quả tất yếu khi có quá nhiều sản phẩm gây nên tác dụng phụ trong quá trình người bệnh sử dụng. Với tâm lý hoang mang, lo sợ, mọi người đều mong muốn tìm đến những sản phẩm được chiết xuất từ thảo dược tự nhiên. Với hi vọng vừa có thể trị dứt điểm bệnh gan nhiễm mỡ lại vừa bảo đảm an toàn cho sức khỏe

Phác đồ loại bỏ gan nhiễm mỡ theo Đông y:

Gan là cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể (sau da). Gan đóng nhiều vai trò quan trọng khác nhau trong việc bảo tồn sức khỏe của chúng ta và được đánh giá như một nhà máy kì diệu của con người. Với một cấu trúc, hệ mạch phức tạp và trên 500 chức năng khác nhau, gan tham gia hầu hết quá trình tổng hợp, lọc và thải độc để cơ thể ngày một khỏe mạnh.
Việc loại bỏ bệnh gan bằng một số sản phẩm trên thị trường chỉ có tác dụng khống chế ngủ đông các con virus,  khi ngừng sử dụng bệnh lại tái phát và còn ảnh hưởng về sau đến hệ miễn dịch, thanh lọc  của gan.

Đối với Đông y chủ yếu mang tính hàn mà bệnh gan thuộc bệnh của nhiệt do đó loại bỏ bệnh gan bằng Đông y giúp: Giải nhiệt, thanh lọc gan, kháng khuẩn, tăng cường miễn dịch tế bào, thúc đẩy tuần hoàn, điều hòa ngũ tạng, dưỡng huyết, bổ can, trừ các bệnh về nhiệt dưỡng huyết giúp đẩy lùi tận gốc và phục hồi chức năng gan trở lại hoạt động tốt nhất.


Viêm quanh khớp vai theo đông y

 Theo Đông y, viêm quanh khớp vai còn gọi là kiên tỷ thống. 

Nguyên nhân viêm quanh khớp vai 

là do phong hàn thấp kết hợp với nhau làm bế tắc sự vận hành khí huyết gây đau; do can thận quá hư tổn và bệnh nội thương làm bế tắc sự vận hành khí huyết mà gây đau hoặc do sang chấn gây huyết ứ lâu ngày mà sinh bệnh.

Viêm quanh khớp vai (viêm bờ vai) 

là tình trạng viêm các tổ chức phần mềm quanh khớp vai như viêm màng hoạt dịch khớp, gân và dây chằng quanh khớp, bao gân cơ nhị đầu... Bệnh thường gặp ở những người tuổi từ 40 – 60, nam giới mắc nhiều.  Theo Đông y, viêm quanh khớp vai còn gọi là kiên tỷ thống. Nguyên nhân là do phong hàn thấp kết hợp với nhau làm bế tắc sự vận hành khí huyết gây đau; do can thận quá hư tổn và bệnh nội thương làm bế tắc sự vận hành khí huyết mà gây đau hoặc do sang chấn gây huyết ứ lâu ngày mà sinh bệnh.

Biểu hiện nổi bật của viêm quanh khớp vai 

là tình trạng đau vùng vai và hạn chế vận động vùng khớp vai, đặc biệt là khó nhấc tay lên cao, khó chải đầu, khó gãi được lưng. Bệnh nhân có thể thấy đau lan lên cổ, xuống cánh tay. Đau nhiều về đêm. Tùy theo từng thể bệnh mà mức độ đau và hạn chế vận động khác nhau.