Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014
Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014
Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?
Y
học phương Tây, hay y học hiện đại hình thành từ thực nghiệm, phân
tích, chứng minh. Thí dụ mổ phanh ra xem có những cơ quan gì, rồi mô tả
vị trí, kích thước các cơ quan đó: Hình thành bộ môn giải phẫu. Dùng
thực nghiệm để tìm hiểu chức năng từng cơ quan khi nó hoạt động bình
thường hay khi bị bệnh. Từ đó hình thành bộ môn sinh lý thường và sinh
lý bệnh.
Khi bị bệnh, nhận xét các triệu chứng thể hiện ra ngoài như ho, sốt,
khó thở, vàng da.v.v… Rồi lại mổ để phân tích tổn thương các cơ quan xem
tim, gan, phổi… khác với bình thường thế nào từ đó hình thành bộ môn
giải phẫu bệnh. Dùng vị thuốc diệt con ký sinh trùng, diệt con vi trùng
đều có làm thực nghiệm xem thuốc đó tác động tới ký sinh trùng (giun,
sán) hay vi trùng như thế nào. Từ đó mới sản sinh ra thuốc, hình thành
bộ môn dược lý. Cũng qua thực nghiệm, người ta giải thích tại sao bị
bệnh gọi là cơ chế bệnh sinh.
Lúc đầu còn sơ khai, sau này khoa học phát triển, y học
được thừa hưởng cũng phát triển theo con người, khám phá sâu về con
người, biết sâu về bệnh tật, tìm ra nhiều cách chữa, cứu chữa được nhiều
bệnh hiểm nghèo. Đó là Y học hiện đại của các nước phương Tây (Tây bán
cầu) hay còn gọi là Tây y. Có trường lớp, có chương trình để đào tạo
thầy thuốc.
Y học phương Đông hình thành từ thực tiễn cuộc sống. Con người phải sống, lao động, chịu tác động của môi trường thiên nhiên như không khí, đất, thực phẩm, nước. Có lẽ lúc đầu từ lao động nhiều, mệt mỏi, con người biết vươn vai, xoa xoa bóp bóp thấy đỡ mệt, đỡ đau. Khi đói cần tìm lá, quả, củ để ăn. Có thứ ăn lăn ra chết, có thứ ăn vào bị nôn nao, có thứ ăn vào thấy khoẻ và lớn lên. Qua hàng ngàn đời truyền lại và tổng kết thứ gì tốt, thứ gì độc, thứ gì ăn hết đau, thứ gì uống hết sốt.v.v… Cứ như thế, đời trước truyền cho đời sau để duy trì và phát triển nòi giống. Khi phát hiện ra lửa, con người biết nấu chín, dần biết chế biến thức ăn, uống, chế biến thuốc, bảo vệ nòi giống. Cũng từ thực tiễn, nhận xét thấy lạnh sinh bệnh gì, nóng sinh bệnh gì, ẩm thấp ảnh hưởng đến sức khoẻ ra sao. Từ tổng kết tác động của thiên nhiên, của ăn uống, mặt trái của lao động và thực phẩm mà phát hiện ra các nguyên nhân gây bệnh…
Khi con người có chữ viết, đã phát hiện ra các học thuyết: Âm dương – Ngũ hành, Kinh dịch… thì y học phương Đông có lý luận. Vậy là hình thành Y học phương Đông. Y học phương Đông được một số người tự tìm tòi trong cuộc sống, khám chữa bệnh, tự chế thuốc gọi là ông bà lang vườn. Có người được học giỏi Nho – Y – Lý số rồi khám chữa bệnh, hình thành các lương y. Khoảng 100 năm gần đây, những lương y mở trường đào tạo và cũng đã đào tạo các lương y thực thụ. Vậy ở xã hội ta có hai loại: một là người được đào tạo có lý luận của y học phương Đông, một loại từ lượm lặt kinh nghiệm, từ gia truyền cũng gọi là thầy thuốc, là lương y. Do vậy, đã đến lúc các nhà quản lý nên tìm các tên thích hợp cho các đối tượng trên kẻo xã hội dễ bị hiểu lầm, nhất là thời buổi kinh tế thị trường như ngày nay. (Trong từ điển: Lương y được định nghĩa là thầy thuốc giỏi, chứ không phải ai, cứ chữa bệnh gọi là lương y). Y lý của Đông y quá sâu sắc, nhất là khi kết hợp với Kinh Dịch, thì số người hiểu để vận dụng hành nghề có thể nói chỉ đếm trên đầu ngón tay dám cho mình là người hiểu biết y lý. Cách khám bệnh là một ví dụ.
Y học phương Đông khám bệnh như thế nào?
Khám theo trình tự: vọng, văn, vấn, thiết. Vọng là nhìn, là quan sát người đến khám bệnh, dáng đi, đứng có gù, vẹo, lệch, có gì bất thường rồi nhận xét thần và sắc của người bệnh. U tối, sáng sủa, đau, buồn, bực tức, lo nghĩ… thần của vẻ mặt sẽ chỉ ra nguyên nhân và bệnh ở đâu. Sắc là màu sắc của da, niêm mạc sáng, đỏ, đen, vàng … mỗi màu là một bệnh. Xem răng, môi, lưỡi… Nhìn lưỡi nhận xét tổng thể lưỡi dày, mỏng, phía trên lưỡi có lớp rêu trắng hay vàng, đen, có dày hay mỏng. Dìa lưỡi có ngấn răng là bệu…. Sau đó xem đầu lưỡi, giữa lưỡi, cuống lưỡi có gì bất thường. Dìa lưỡi bên phải khác dìa lưỡi bên trái… Tất cả các nhận xét trên cho thầy thuốc nhận định bệnh ở nông hay sâu, bệnh ở hàn hay nhiệt, bệnh ở cơ quan tạng phủ nào: tâm, can, tỳ, phế, thận. Ẩm thấp hay khô táo. Bệnh khó hay dễ chữa. Cũng từ nhận xét qua nhìn lưỡi, gợi ý nên chọn thức gì, phối hợp thuốc ra sao.
Vì các triệu chứng nhận xét của thầy thuốc và lời khai của bệnh nhân
(hay gia đình) thường mang tính chủ quan. Vì vậy, người xưa yêu cầu phải
khám rất tỷ mỉ, phải đủ bốn bước, rồi mới được kết luận. Phải so sánh
bốn nhóm triệu chứng qua bốn bước, triệu chứng nào phù hợp, triệu chứng
nào giả. Sau vọng thần sắc là vọng bộ phận bị bệnh. Thí dụ, xem ngực,
bụng, đầu, tóc, móng… xem màu sắc chất thải như đờm, nước tiểu, phân,
kinh nguyệt.
Văn là nghe, ngửi. Nghe tiếng nói, tiếng ho, to hay nhỏ, tiếng rõ hay yếu; Ngửi mùi hơi thở hôi, chua; Mùi chất thải chua, tanh, hôi…
Vấn chẩn là hỏi bệnh. Hỏi nguyên nhân đi khám bệnh: do đau, do sốt, do nôn, do mệt mỏi, do mất ngủ, do ăn uống kém, do gầy sút… Thời gian bị bệnh bao lâu ? Các triệu chứng trên có liên quan đến nóng, lạnh, ẩm thấp (thí dụ: lạnh ho tăng liên quan đến ăn, uống). Cần hỏi các triệu chứng kèm theo. Thí dụ ho có sốt không, ho có khó thở, có táo bón? hoặc đau vai có ho, có hạn chế vận động .v.v…
Thiết là sờ. Sờ da xem lạnh hay nóng, ẩm hay khô, sờ bộ phận bị bệnh: bụng, ngực… Sờ ấn các huyệt vị, đường kinh xem có gì bất thường, cuối cùng mới bắt mạch. Người bệnh và thầy thuốc phải ngồi thoải mái, có bàn, có gối kê tay. Khi khám, thầy thuốc phải bình tĩnh… Nhận xét 6 bộ mạch ở hai tay liên quan đến các tạng phủ. Xem tính chất của mạch: phù, trầm, căng, nhũn, đều hay loạn… Có 36 loại mạch, mỗi mạch ứng với một bệnh và bệnh thuộc tạng phủ nào.
Sau khi qua bốn bước khám bệnh (vọng, văn, vấn, thiết), thày thuốc
tập hợp và suy luận để đưa ra kết luận: Bệnh còn ở nông hay đã sâu vào
tạng phủ, bệnh thuộc hàn hay nhiệt, bệnh mắc đã lâu hay mới, sức người
bệnh còn khoẻ hay yếu, cuối cùng bệnh thuộc loại âm hay dương. Bệnh ở
tạng phủ nào? (Tâm, can, tỳ, phế, thận…).
TÌm nguyên nhân gây ra bệnh :
Thời tiết, khí hậu trái thường. Do trạng thái tâm lý, tình cảm căng thẳng kéo dài. Do trùng, thú vật cắn hay do chấn thương, chiến thương. Do ăn uống no đói thất thường hay do sinh hoạt bừa bãi.
Từ đó thầy thuốc mới gợi ý cách phòng bệnh và cách chữa cho người bệnh. Chữa bằng thuốc hay không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, luyện tập, hoặc phối hợp cả hai).
Y học phương Đông hình thành từ thực tiễn cuộc sống. Con người phải sống, lao động, chịu tác động của môi trường thiên nhiên như không khí, đất, thực phẩm, nước. Có lẽ lúc đầu từ lao động nhiều, mệt mỏi, con người biết vươn vai, xoa xoa bóp bóp thấy đỡ mệt, đỡ đau. Khi đói cần tìm lá, quả, củ để ăn. Có thứ ăn lăn ra chết, có thứ ăn vào bị nôn nao, có thứ ăn vào thấy khoẻ và lớn lên. Qua hàng ngàn đời truyền lại và tổng kết thứ gì tốt, thứ gì độc, thứ gì ăn hết đau, thứ gì uống hết sốt.v.v… Cứ như thế, đời trước truyền cho đời sau để duy trì và phát triển nòi giống. Khi phát hiện ra lửa, con người biết nấu chín, dần biết chế biến thức ăn, uống, chế biến thuốc, bảo vệ nòi giống. Cũng từ thực tiễn, nhận xét thấy lạnh sinh bệnh gì, nóng sinh bệnh gì, ẩm thấp ảnh hưởng đến sức khoẻ ra sao. Từ tổng kết tác động của thiên nhiên, của ăn uống, mặt trái của lao động và thực phẩm mà phát hiện ra các nguyên nhân gây bệnh…
Khi con người có chữ viết, đã phát hiện ra các học thuyết: Âm dương – Ngũ hành, Kinh dịch… thì y học phương Đông có lý luận. Vậy là hình thành Y học phương Đông. Y học phương Đông được một số người tự tìm tòi trong cuộc sống, khám chữa bệnh, tự chế thuốc gọi là ông bà lang vườn. Có người được học giỏi Nho – Y – Lý số rồi khám chữa bệnh, hình thành các lương y. Khoảng 100 năm gần đây, những lương y mở trường đào tạo và cũng đã đào tạo các lương y thực thụ. Vậy ở xã hội ta có hai loại: một là người được đào tạo có lý luận của y học phương Đông, một loại từ lượm lặt kinh nghiệm, từ gia truyền cũng gọi là thầy thuốc, là lương y. Do vậy, đã đến lúc các nhà quản lý nên tìm các tên thích hợp cho các đối tượng trên kẻo xã hội dễ bị hiểu lầm, nhất là thời buổi kinh tế thị trường như ngày nay. (Trong từ điển: Lương y được định nghĩa là thầy thuốc giỏi, chứ không phải ai, cứ chữa bệnh gọi là lương y). Y lý của Đông y quá sâu sắc, nhất là khi kết hợp với Kinh Dịch, thì số người hiểu để vận dụng hành nghề có thể nói chỉ đếm trên đầu ngón tay dám cho mình là người hiểu biết y lý. Cách khám bệnh là một ví dụ.
Y học phương Đông khám bệnh như thế nào?
Khám theo trình tự: vọng, văn, vấn, thiết. Vọng là nhìn, là quan sát người đến khám bệnh, dáng đi, đứng có gù, vẹo, lệch, có gì bất thường rồi nhận xét thần và sắc của người bệnh. U tối, sáng sủa, đau, buồn, bực tức, lo nghĩ… thần của vẻ mặt sẽ chỉ ra nguyên nhân và bệnh ở đâu. Sắc là màu sắc của da, niêm mạc sáng, đỏ, đen, vàng … mỗi màu là một bệnh. Xem răng, môi, lưỡi… Nhìn lưỡi nhận xét tổng thể lưỡi dày, mỏng, phía trên lưỡi có lớp rêu trắng hay vàng, đen, có dày hay mỏng. Dìa lưỡi có ngấn răng là bệu…. Sau đó xem đầu lưỡi, giữa lưỡi, cuống lưỡi có gì bất thường. Dìa lưỡi bên phải khác dìa lưỡi bên trái… Tất cả các nhận xét trên cho thầy thuốc nhận định bệnh ở nông hay sâu, bệnh ở hàn hay nhiệt, bệnh ở cơ quan tạng phủ nào: tâm, can, tỳ, phế, thận. Ẩm thấp hay khô táo. Bệnh khó hay dễ chữa. Cũng từ nhận xét qua nhìn lưỡi, gợi ý nên chọn thức gì, phối hợp thuốc ra sao.
Văn là nghe, ngửi. Nghe tiếng nói, tiếng ho, to hay nhỏ, tiếng rõ hay yếu; Ngửi mùi hơi thở hôi, chua; Mùi chất thải chua, tanh, hôi…
Vấn chẩn là hỏi bệnh. Hỏi nguyên nhân đi khám bệnh: do đau, do sốt, do nôn, do mệt mỏi, do mất ngủ, do ăn uống kém, do gầy sút… Thời gian bị bệnh bao lâu ? Các triệu chứng trên có liên quan đến nóng, lạnh, ẩm thấp (thí dụ: lạnh ho tăng liên quan đến ăn, uống). Cần hỏi các triệu chứng kèm theo. Thí dụ ho có sốt không, ho có khó thở, có táo bón? hoặc đau vai có ho, có hạn chế vận động .v.v…
Thiết là sờ. Sờ da xem lạnh hay nóng, ẩm hay khô, sờ bộ phận bị bệnh: bụng, ngực… Sờ ấn các huyệt vị, đường kinh xem có gì bất thường, cuối cùng mới bắt mạch. Người bệnh và thầy thuốc phải ngồi thoải mái, có bàn, có gối kê tay. Khi khám, thầy thuốc phải bình tĩnh… Nhận xét 6 bộ mạch ở hai tay liên quan đến các tạng phủ. Xem tính chất của mạch: phù, trầm, căng, nhũn, đều hay loạn… Có 36 loại mạch, mỗi mạch ứng với một bệnh và bệnh thuộc tạng phủ nào.
TÌm nguyên nhân gây ra bệnh :
Thời tiết, khí hậu trái thường. Do trạng thái tâm lý, tình cảm căng thẳng kéo dài. Do trùng, thú vật cắn hay do chấn thương, chiến thương. Do ăn uống no đói thất thường hay do sinh hoạt bừa bãi.
Từ đó thầy thuốc mới gợi ý cách phòng bệnh và cách chữa cho người bệnh. Chữa bằng thuốc hay không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, luyện tập, hoặc phối hợp cả hai).
PGS.TS Dương Trọng Hiếu
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
Đông y kỳ diệu, uyên thâm
Càng học, càng đọc, càng thấy lý luận y học cổ truyền (đông y) thật kỳ diệu và uyên thâm. Lý luận của y học cổ truyền
không chỉ vận dụng vào y học (khám, chữa bệnh) mà suy rộng ra có thể
vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống con người, xã hội.
Lấy học thuyết tạng tượng của y học cổ truyền là một ví dụ: “Tạng” theo nghĩa gốc tạng, là chứa đựng bên trong, ở đây chỉ các cơ quan nội tạng trong cơ thể. “Tượng” lý giải theo nghĩa là biểu tượng, hình tượng hay những trạng thái biểu hiện ra bên ngoài. Thông qua các biểu hiện và trạng thái bên ngoài, cái mà người ta có thể cảm nhận, quan sát được (tượng), mà nắm bắt, hiểu được cái bên trong tàng ẩn không quan sát, nhận biết được (tạng). Phương pháp tư duy này của y học cổ truyền rất logic, uyên thâm, phù hợp với quy luật của nhận thức và được vận dụng một cách diệu kỳ không chỉ trong chẩn đoán, điều trị bệnh mà cả trong cuộc sống nói chung.
Sở dĩ quan sát, nhận biết cái bên ngoài (tượng) để hiểu được và nắm bắt được cái bên trong (tạng), người xưa đã sớm phát hiện quy luật “hữu ư chung tất hình ư ngoại” (có ở bên trong ắt phải hiện ra bên ngoài) và trên cơ sở quan sát, nhận biết những biểu hiện, biến đổi bên ngoài để hiểu được nội dung bên trong. Ví dụ: thấy da dẻ mát lạnh hay nóng sốt biết là cơ thể đang bị cảm mạo do phong hàn hay phong nhiệt, sẽ xuất hiện các chứng tắc mũi, chảy nước mũi, ho….qua đó người ta biết được giữa da, lông, lỗ mũi và phế (phổi) có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Y học cổ truyền chỉ ra rằng: không có cái gì giấu kín ở trong mà không hề biểu hiện ra bên ngoài, từ sinh lý đến tâm lý. Bởi thực tế cho thấy “cái kim trong bọc, lâu ngày cũng lòi ra” hay “nhìn mặt mà bắt hình dong….”
Từ những lý luận kỳ diệu, uyên
thâm của y học cổ truyền vận dụng trong chẩn đoán, điều trị và phòng
ngừa bệnh tật có kết quả….tôi suy ngẫm và thấy các học thuyết, lý luận
của y học cổ truyền không chỉ vận dụng trong việc chẩn đoán, điều trị
phòng ngừa bệnh tật mà rộng hơn nó còn có ý nghĩa sâu xa đối với đời
sống con người và xã hội. Ví dụ: nhìn diện mạo, phong thái, cách ăn nói,
của một con người, ta có thể đoán biết được người thiện, kẻ ác, người
chính, kẻ tà… như người xưa thường nói: “nhìn mặt mà bắt hình dong”, hay
“khôn ngoan hiện ra mặt”.
Vậy hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người, đừng giấu kín suy nghĩ của mình hoặc hành động sai trái của mình, vì cổ nhân đã dạy: “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”.
“Hư thực” là một cặp phạm trù trong bát cương của y học cổ truyền. Hư là chỉ chính khí của cơ thể bất túc, sức đề kháng suy yếu. Thực là chỉ chính khí của cơ thể hữu dư, sức đề kháng của cơ thể mạnh mẽ. Nếu chính khí đầy đủ, mạnh mẽ thì tà khí không thể xâm nhập, gây bệnh cho con người. Suy rộng ra trong cuộc sống nếu cái thiện mạnh sẽ át được cái ác, cái tốt đẩy lùi cái xấu… vì vậy mỗi con người phải rèn luyện để cái thiện, cái tốt trong mình đầy đủ sẽ không sợ cái ác, cái xấu lấn áp như hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Trong thực tế cuộc sống nhận biết được đâu là hư, đâu là thực không phải dễ dàng, nên mới có hiện tượng “chân hư giả thực” hay “chân thực giả hư” là những khái niệm rất sâu xa của y học cổ truyền.
“Chân hư giả thực” là để chỉ chính khí bị hư nhược, nhưng lại biểu
hiện giả như thực chứng, dễ làm người thầy thuốc bị nhầm lẫn. Ngược lại
“chân thực giả hư” chỉ bệnh thực tà kết tụ, nhưng lại biểu hiện giả
giống như hư chứng.
Để điều trị được bệnh, đòi hỏi người thầy thuốc phải phân biệt được đâu là “chân” (bản chất), đâu là “giả” (hiện tượng) nếu không sẽ bị nhầm lẫn giữa chân và giả. Suy rộng ra trong cuộc sống thực tế cũng vậy không được nhầm lẫn giữa bản chất (chân) và hiện tượng (giả) như người xưa từng cảnh báo: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”.
“Phù chính khu tà” là khái niệm rất độc đáo của y học cổ truyền. "Phù chính" là phù trợ, giúp đỡ chính khí, tăng cường chính khí để tiêu trừ bệnh tà. "Khu tà" là khu trừ bệnh tà, cũng là nhằm phù trợ cho chính khí. Suy rộng ra trong cuộc sống muốn cho mọi việc tốt đẹp hoàn mỹ, phải luôn luôn ủng hộ những điều tốt đẹp, hoàn mỹ đồng thời phải chung tay tiêu trừ những điều xấu.
Trong thực tế cuộc sống rất phong phú và đa dạng, nếu biết nắm bắt và vận dụng các học thuyết và lý luận của y học cổ truyền sẽ thấy được những điều kỳ diệu và uyên thâm của nó. Đó là bài học lớn mà tôi rút ra được và chiêm nghiệm trong cuộc sống cũng như cuộc đời hành nghề của mình.
Lấy học thuyết tạng tượng là một ví dụ: cái gì có bên trong rồi cũng phải thể hiện (lộ) ra bên ngoài. Vậy sao lại giấu kín những ý nghĩa hành động của mình để làm gì? Hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người. Bởi vì không thể nào giấu được.
Cũng như vậy, nếu suy ngẫm sâu xa, các học thuyết về âm dương, ngũ hành, con người là tiểu vũ trụ của y học cổ truyền không chỉ là các học thuyết, lý luận thuần túy về y học mà mang ý nghĩa sâu xa và rất rộng.
Lấy học thuyết tạng tượng của y học cổ truyền là một ví dụ: “Tạng” theo nghĩa gốc tạng, là chứa đựng bên trong, ở đây chỉ các cơ quan nội tạng trong cơ thể. “Tượng” lý giải theo nghĩa là biểu tượng, hình tượng hay những trạng thái biểu hiện ra bên ngoài. Thông qua các biểu hiện và trạng thái bên ngoài, cái mà người ta có thể cảm nhận, quan sát được (tượng), mà nắm bắt, hiểu được cái bên trong tàng ẩn không quan sát, nhận biết được (tạng). Phương pháp tư duy này của y học cổ truyền rất logic, uyên thâm, phù hợp với quy luật của nhận thức và được vận dụng một cách diệu kỳ không chỉ trong chẩn đoán, điều trị bệnh mà cả trong cuộc sống nói chung.
Sở dĩ quan sát, nhận biết cái bên ngoài (tượng) để hiểu được và nắm bắt được cái bên trong (tạng), người xưa đã sớm phát hiện quy luật “hữu ư chung tất hình ư ngoại” (có ở bên trong ắt phải hiện ra bên ngoài) và trên cơ sở quan sát, nhận biết những biểu hiện, biến đổi bên ngoài để hiểu được nội dung bên trong. Ví dụ: thấy da dẻ mát lạnh hay nóng sốt biết là cơ thể đang bị cảm mạo do phong hàn hay phong nhiệt, sẽ xuất hiện các chứng tắc mũi, chảy nước mũi, ho….qua đó người ta biết được giữa da, lông, lỗ mũi và phế (phổi) có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Y học cổ truyền chỉ ra rằng: không có cái gì giấu kín ở trong mà không hề biểu hiện ra bên ngoài, từ sinh lý đến tâm lý. Bởi thực tế cho thấy “cái kim trong bọc, lâu ngày cũng lòi ra” hay “nhìn mặt mà bắt hình dong….”
Nhiều học thuyết, lý luận của đông y được áp dụng cả trong cuộc sống
Vậy hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người, đừng giấu kín suy nghĩ của mình hoặc hành động sai trái của mình, vì cổ nhân đã dạy: “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”.
“Hư thực” là một cặp phạm trù trong bát cương của y học cổ truyền. Hư là chỉ chính khí của cơ thể bất túc, sức đề kháng suy yếu. Thực là chỉ chính khí của cơ thể hữu dư, sức đề kháng của cơ thể mạnh mẽ. Nếu chính khí đầy đủ, mạnh mẽ thì tà khí không thể xâm nhập, gây bệnh cho con người. Suy rộng ra trong cuộc sống nếu cái thiện mạnh sẽ át được cái ác, cái tốt đẩy lùi cái xấu… vì vậy mỗi con người phải rèn luyện để cái thiện, cái tốt trong mình đầy đủ sẽ không sợ cái ác, cái xấu lấn áp như hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Trong thực tế cuộc sống nhận biết được đâu là hư, đâu là thực không phải dễ dàng, nên mới có hiện tượng “chân hư giả thực” hay “chân thực giả hư” là những khái niệm rất sâu xa của y học cổ truyền.
Khám bệnh tại Bệnh viện Y học cổ truyền Ninh Bình
Để điều trị được bệnh, đòi hỏi người thầy thuốc phải phân biệt được đâu là “chân” (bản chất), đâu là “giả” (hiện tượng) nếu không sẽ bị nhầm lẫn giữa chân và giả. Suy rộng ra trong cuộc sống thực tế cũng vậy không được nhầm lẫn giữa bản chất (chân) và hiện tượng (giả) như người xưa từng cảnh báo: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”.
“Phù chính khu tà” là khái niệm rất độc đáo của y học cổ truyền. "Phù chính" là phù trợ, giúp đỡ chính khí, tăng cường chính khí để tiêu trừ bệnh tà. "Khu tà" là khu trừ bệnh tà, cũng là nhằm phù trợ cho chính khí. Suy rộng ra trong cuộc sống muốn cho mọi việc tốt đẹp hoàn mỹ, phải luôn luôn ủng hộ những điều tốt đẹp, hoàn mỹ đồng thời phải chung tay tiêu trừ những điều xấu.
Trong thực tế cuộc sống rất phong phú và đa dạng, nếu biết nắm bắt và vận dụng các học thuyết và lý luận của y học cổ truyền sẽ thấy được những điều kỳ diệu và uyên thâm của nó. Đó là bài học lớn mà tôi rút ra được và chiêm nghiệm trong cuộc sống cũng như cuộc đời hành nghề của mình.
Lấy học thuyết tạng tượng là một ví dụ: cái gì có bên trong rồi cũng phải thể hiện (lộ) ra bên ngoài. Vậy sao lại giấu kín những ý nghĩa hành động của mình để làm gì? Hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người. Bởi vì không thể nào giấu được.
Cũng như vậy, nếu suy ngẫm sâu xa, các học thuyết về âm dương, ngũ hành, con người là tiểu vũ trụ của y học cổ truyền không chỉ là các học thuyết, lý luận thuần túy về y học mà mang ý nghĩa sâu xa và rất rộng.
Hoài Vũ
Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014
BẾ KINH, VÔ KINH (Trẫn huyết)
BẾ KINH, VÔ KINH(Trẫn huyết)PGS.TS. Lê Thị HiềnMục tiêu
1. Trình bày được quan niệm vô kinh theo YHHĐ và YHCT.
2. Trình bày được triệu chứng và phương pháp điều trị vô kinh theo thể bệnh bằng YHCT.
1. theo y học hiện đại
1.1. Định nghĩa
Vô kinh là hiện tượng không có kinh nguyệt qua một thời gian quy định. Thời gian ấy là 18 tuổi đối với vô kinh nguyên phát, 3 tháng nếu đã từng có kinh đều, là 6 tháng nếu có kinh không đều.
Người ta còn phân biệt vô kinh sinh lý (xảy ra trong thời kỳ có thai, thời kỳ cho con bú) và vô kinh bệnh lý.
1.2. Điều trị
Gây vòng kinh nhân tạo theo trình tự: giai đoạn đầu chỉ có oestrogen, giai đoạn sau có cả oestrogen và progesteron giống như vòng kinh tự nhiên.
2. theo Y học cổ truyền
Trên thực tế lâm sàng y học cổ truyền chỉ chữa loại vô kinh thứ phát và chứng bế kinh, do 2 nguyên nhân chính:
− Do phần huyết giảm sút gồm: khí hư, huyết hư, lao tổn, vị nhiệt.
− Do phần huyết bị ứ trệ gồm: phong hàn, khí uất, đàm tắc, huyết ứ làm kinh huyết không vận hành gây bế kinh, vô kinh.
2.1. Khí huyết hư tổn
2.1.1. Do huyết hư: hay gặp ở người thiếu máu
− Triệu chứng: kinh nguyệt vài tháng không có, sắc mặt vàng úa, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, hồi hộp, ăn kém, người gầy, da khô, chất lưỡi nhợt, mạch tế sác.
− Phép điều trị: bổ khí huyết.
− Phương:
Sắc uống ngày 1 thang, uống 20- 30 thang.
Bài 1: Đảng sâm 12g Thục địa 12g Bạch truật 12g Hà thủ ô 12g Hoài sơn 12g Kê huyết đằng 12g ý dĩ 12g Ngưu tất 12g Kỷ tử 12g ích mẫu 16g Bài 2: Dùng bài Tứ vật đào hồng Xuyên khung 10g Bạch thược 12g Đương quy 16g Đào nhân 12g Thục địa 12g Hồng hoa 10g
2.1.2. Do tỳ khí hư
− Triệu chứng: bế kinh vài tháng, sắc mặt vàng, tinh Thần mỏi mệt, đầu choáng, hồi hộp, thở gấp, kém ăn, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm.
− Phép điều trị: kiện tỳ, ích khí, sinh huyết.
− Phương: dùng bài Bổ trung ích khí thang gia giảm
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
Đảng sâm 12g Bạch truật 12g Hoàng kỳ 12g Đương quy 12g Thăng ma 12g Sài hồ 12g Trần bì 12g Đan sâm 12g Ngưu tất 12g Bạch thược
Hoặc dùng bài Quy tỳ thang gia giảm12g Đảng sâm 12g Bạch linh 12g Bạch truật 12g Cam thảo 12g Hoàng kỳ 12g Đương quy 12g Táo nhân 10g Mộc hương 6g Viễn chí 4g Thục địa 12g Bạch thược 12g Xuyên khung 8g
2.1.3. Do can thận âm hư
− Triệu chứng: bế kinh vài tháng, người gầy còm, sắc mặt trắng, gò má đỏ, lòng bàn tay bàn chân nóng, miệng khô, tâm phiền, ít ngủ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch tế sác.
− Phép điều trị: tư bổ can thận, hoạt huyết.
Nếu hư lao (lao phổi) thêm bổ phế âm.
− Phương: dùng bài Lục vị gia vị
Sắc uống ngày 1 thang, uống 15-20 thang.
Thục địa 12g Sơn dược 12g Sơn thù 12g Trạch tả 10g Phục linh 12g Đan bì 12g Trạch lan 12g Ngưu tất 12g ích mẫu 12g Đào nhân
Nếu có phế âm hư thì dùng bài Kiếp lao tán10g Bạch thược 12g Bán hạ chế 12g Hoàng kỳ 12g Phục linh 12g Cam thảo 4g Đương quy 12g Ngũ vị tử 10g Sa sâm 12g Agiao 12g Thục địa 12g
2.1.4. Do vị nhiệt: do nhiệt tích ở trung tiêu, không dẫn xuống làm tổn thương tân dịch gây nên bế kinh.
− Triệu chứng: bế kinh, sắc mặt vàng, hai gò má đỏ, tâm phiền, nóng nảy, miệng đắng, họng khô, người gầy, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, có khi loét miệng, mạch tế sác.
− Phép điều trị: tiết nhiệt, tồn âm.
− Phương: dùng bài Ngọc trúc tán
Sắc uống ngày 1 thang, uống 15-20 thang hoặc có thể làm thuốc hoàn uống.
Xuyên khung 10g Đương quy 12g Thục địa 12g Bạch thược 12g Đại hoàng 4g Mang tiêu 4g Cam thảo 4g
2.2. Do huyết ứ
2.2.1. Do phong hàn: do phong hàn xâm nhập vào mạch xung và nhâm gây bế kinh.
− Triệu chứng: bế kinh, bụng dưới lạnh, đau, chân tay lạnh, buồn nôn, rêu lưỡi trắng, mạch trầm khẩn.
− Phép điều trị: ôn kinh tán hàn, hành khí hoạt huyết.
− Phương:
Sắc uống ngày 1 thang, uống 7-10 thang.
Bài 1: Quế chi 6g Tô ngạnh 10g Bạch chỉ 8g Đan sâm 12g Xuyên khung 10g Uất kim 8g Ngưu tất 12g Nga truật 10g Bài 2: Lương phương ôn kinh thang Đương quy 12g Ngưu tất 12g Xuyên khung 10g Đảng sâm 12g Bạch thược 12g Cam thảo 4g Nga truật 12g
Quế chi 4gĐan bì 12g
2.2.2. Do can khí uất
− Triệu chứng: bế kinh, tình chí uất ức, hay cáu gắt, phiền táo, sắc mặt vàng, ngực sườn đầy tức, ợ hơi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.
− Phép điều trị: lý khí thư uất, điều kinh.
− Phương:
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
Hương phụ 8g Nga truật 12g Trần bì 8g Uất kim 8g Xuyên khung 12g Ô dược 8g Tô ngạnh 8g Ngưu tất 12g
2.2.3. Do huyết ứ, huyết ngưng
− Triệu chứng: bế kinh, đau vùng hạ vị, cự án, sắc mặt tối, miệng khô nhưng không muốn uống, mạch trầm sác.
− Phép điều trị: hoạt huyết, hoá ứ.
− Phương:
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
Bài 1: ích mẫu 12g Đào nhân 10g Uất kim 12g Ngưu tất 12g Tạo giác thích 8g Hương phụ 8g Bài 2: Thông ứ tiễn Đương quy 12g Huyền hồ 10g Hồng hoa 10g Xích thược 12g Xuyên khung10g Hương phụ 8g
− Châm cứu
+ Tại chỗ: châm bổ các huyệt quan nguyên, khí hải, khúc cốt.
+ Toàn thân: châm tam âm giao, huyết hải, thận du, can du, tỳ du.
+ Nhĩ châm: châm vùng tử cung và nội tiết.
TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống
− Vô kinh là hiện tượng….quy định.
− Thời gian ấy là…vô kinh nguyên phát,…..có kinh đều, …..có kinh không đều.
2. Hãy điền vào chữ Đ cho câu đúng, chữ S cho câu sai
− Vô kinh thể huyết hư, phép điều trị là bổ khí huyết Đ/S − Điều trị vô kinh không nên châm cứu Đ/S
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
ĐỚI HẠ
PGS.TS. Lê Thị Hiền
Mục tiêu 1. Nắm được Đại cương về đới hạ theo YHHĐ và YHCT.
2. Nêu được triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ bằng YHCT.
1. Đại cương
1.1. Theo y học hiện đại
Bình thường âm đạo phụ nữ tiết ra dịch nhầy trong, không hôi, có tác dụng nhu nhuận âm đạo, giữ cho pH của âm đạo ở mức 4,5 (toan) để vi khuẩn gây bệnh không phát triển (glucogen chịu tác dụng trực tiếp của trực khuẩn Doderlein ở âm đạo biến thành acid lactic làm môi trường âm đạo trở nên toan nên vi khuẩn không phát triển được).
Chất dịch được tiết ra từ các tuyến ở cổ tử cung, niêm mạc tử cung, biểu mô âm đạo dưới tác dụng của nội tiết.
Trong trường hợp thiểu năng nội tiết, khí hư ít, hay bị viêm âm đạo và dẫn đến vô sinh.
Trong nhiễm khuẩn đường sinh dục khí hư ra nhiều, bẩn, hôi, ngứa.
Tác dụng của khí hư:
− Bảo vệ âm đạo khỏi viêm nhiễm.
− Hướng cho tinh trùng đi về phía tử cung.
− Phản ánh sự phát triển của nội tiết.
− Phản ánh tình trạng của viêm nhiễm đường sinh dục.
− Dưới tác dụng của estrogen các chất protein kết tinh tạo thành hình ảnh dương xỉ (phản ánh tình trạng rụng trứng và phóng noãn), thường áp dụng để điều trị vô sinh.
1.2. Theo y học cổ truyền
Theo Nội kinh đới hạ bao gồm 2 nghĩa:
− Nghĩa rộng: gồm tất cả các bệnh kinh đới, thai sản vì các bệnh này đều phát sinh phần dưới lưng quần (đới là dây thắt lưng quần, hạ là dưới).
− Nghĩa hẹp: trong âm đạo có dịch chảy xuống lai rai gọi là đới hạ. Bao gồm bạch đới, xích đới, hoàng đới, hắc đới, thanh đới, ngũ sắc đới, bạch dâm (giống di tinh ở nam giới), bạch trọc (viêm đường tiết niệu).
Đới hạ thuộc âm dịch. Trong cơ thể âm dịch do tỳ vận hoá, thận bế tàng, liên quan đến xung nhâm. Khi tỳ vận hoá tốt, thận khí thịnh, xung - nhâm điều hoà, đới mạch kiên cố… thì âm dịch có tác dụng nhu nhuận âm hộ và âm đạo “tân tân thường nhuận, bản phi bệnh giả”.
Nếu thận khí bất túc, tỳ vận hoá kém hoặc nhâm mạch hư yếu, đới mạch bất cố gây khí hư ra nhiều, sắc màu có tính chất thay đổi gọi là bệnh đới hạ.
2. Nguyên nhân gây bệnh đới hạ
2.1. Nội nhân
− Do tỳ hư thấp đình trệ.
− Do can khí uất, nhiệt theo kinh can dồn xuống xung - nhâm.
− Do thận hư, xung - nhâm thương tổn gây nên đới hạ.
2.2. Ngoại nhân
Do phong hàn thấp nhiệt nhân lúc bào cung hư yếu xâm nhập vào gây nên bệnh đới hạ.
2.3. Bất nội ngoại nhân
Do chửa đẻ, phòng dục quá độ, nạo sẩy nhiều lần.
3. Điều trị
3.1. Thể do tỳ hư
− Triệu chứng: đới hạ nhiều, trắng loãng như nước, không hôi, đau lưng, trướng bụng, da vàng nhạt, tinh Thần mệt mỏi, chân tay lạnh, đại tiện táo, chất lưỡi nhợt, mạch trầm nhược.
− Phép điều trị: kiện tỳ, trừ thấp.
− Phương: dùng bài Hoàng đới thang
Bạch truật | 12g | Sa tiền tử | 8g |
Hoài sơn | 12g | Thương truật | 8g |
Đảng sâm | 12g | Trần bì | 8g |
Bạch thược | 12g | Cam thảo | 4g |
Sài hồ | 12g | Bạch giới tử sao | 4g |
Đảng sâm | 12g | Hoài sơn | 12g |
ý dĩ | 12g | Bạch truật | 12g |
Thương truật | 8g | Hoàng bá | 8g |
Khiếm thực | 12g | Hương phụ | 8g |
Cam thảo | 4g |
3.2. Thể do thận hư
− Triệu chứng: đới hạ nhiều, màu vàng, mệt mỏi, đau lưng, mỏi gối, tiểu tiện nhiều lần, lạnh bụng dưới, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng dày, mạch trầm tế.
− Phép điều trị: bổ thận, cố xung nhâm.
− Phương:
Nếu thận dương hư dùng bài Bát vị.
Nếu thận âm hư dùng bài Lục vị tri bá hoặc bài Thủ ô câu kỷ thang
Hà thủ ô 12g | Câu kỷ tử | 12g |
Thỏ ty tử 12g | Tang phiêu tiêu | 12g |
Xích thạch chi 12g | Cẩu tích | 12g |
Đỗ trọng 12g | Thục địa | 12g |
Hoắc hương 4g | Sa nhân | 4g |
3.3. Thể do can uất
− Triệu chứng: đới hạ lờ đờ máu cá, nhầy dính, kinh nguyệt trước sau không định kỳ, u uất, ngực sườn đầy tức, miệng khô đắng, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ, mạch huyền hoạt.
− Phép điều trị: điều can, giải uất, thanh nhiệt.
− Phương: dùng bài Long đởm tả can thang
Long đởm thảo | 12g | Đương quy | 12g |
Bạch thược | 12g | Sài hồ | 12g |
Trạch tả | 10g | Mộc thông | 10g |
Sa tiền | 8g | Cam thảo | 4g |
3.4. Thể do thấp nhiệt
− Triệu chứng: đới hạ nhiều, màu vàng như mủ, hôi, ngứa âm hộ, âm đạo, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
− Phép điều trị: thanh trừ nhiệt thấp.
− Phương: dùng bài Chỉ đới hoàng
Trư linh 12g Nhân trần | 12g |
Phục linh 12g Xích thược | 12g |
Sa tiền 10g Đan bì | 12g |
Trạch tả 10g Chi tử | 12g |
Hoàng bá 8g Ngưu tất Sắc uống ngày một thang, uống 10-15 thang. Hoặc có thể dùng bài Long đởm tả can thang. |
12g |
TỰ LƯỢNG GIÁ
− Khí hư phản ánh tình trạng viêm nhiễm đường sinh dục Đ/S
− Đới hạ thuộc âm dịch Đ/S
2. Điền vào chỗ trống cụm từ thích hợp
− Đới hạ bao gồm…ngũ sắc đới.
− Nguyên nhân gây ra đới hạ là…..và bất nội ngoại nhân.
3. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể tỳ hư.
4. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể thận hư.
5. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể can uất.
6. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể thấp nhiệt.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)