1. Đại cương:
1.1. Theo quan điểm của YHHĐ Theo YHHĐ, bản chất bệnh
là phản ứng quá mẫn mà nguyên nhân chính là vi khuẩn và độc tố của vi
khuẩn, ký sinh trùng, ăn uống thức ăn lạ và dùng dược vật (thuốc đưa
vào cơ thể) dẫn đến viêm các mao động mạch - tĩnh mạch, viêm các tiểu
huyết quản làm cho tăng tính thấm thành mạch và dãn mạch. Bệnh hay gặp ở
nhi đồng và thanh niên, đa số có triệu chứng ở khớp, ở vùng bụng và ở
thận; tiểu cầu, thời gian máu đông, máu chảy bình thường.
Nghiệm pháp dây thắt (+); sức bền thành mạch giảm, tốc độ máu
lắng nhanh, nước tiểu thường qui có thể thấy hồng cầu hoặc albumin và
hình trụ.
1.2. Theo quan niệm của YHCT.
YHCT cho rằng, bệnh là do ngoại cảm phải tà khí lục dâm, lại gặp
phải lao thương quá độ tổn thương chính khí; tỳ, vị hư nhược mất chức
năng thu nhiếp huyết nên huyết xuất ra ngoài mạch. Đa phần do huyết
nhiệt bức huyết vong hành mà dẫn đến. Ngoài ra,Bệnh còn biểu hiện là
huyết ly kinh lạc thành huyết ứ. Vì vây, đa số bệnh nhân có điểm ban ứ
huyết ở lưỡi làm cho chất lưỡi xám tía, tĩnh mạch dưới lưỡi căng chướng
ngoằn ngoèo, các khớp sưng, đau mỏi; nữ giới có biểu hiện đau bụng và
thống kinh. Như vậy, bản chất bệnh có liên quan mật thiết với huyết ứ.
2. Biện chứng luận trị.
2.1. Nhóm phong nhiệt phát ban: Ban xuất huyết màu tím
tía đơn thuần, thời kỳ đầu đa số có viêm nhiễm đường hô hấp trên, có
phát sốt, đau đầu, đau họng; rêu lưỡi mỏng; mạch phù sác.
- Phương trị: sơ phong thanh nhiệt, lương huyết chỉ huyết.
- Điều trị: “ngân kiều tán” + “tang cúc ẩm” gia giảm.
2.2. Nhóm nhiệt độc phát ban: Đa phần là phát ban, có
kèm theo sốt. Nếu như sau dùng thuốc mà dẫn đến quá mẫn thì thường có
nốt ban đỏ thẫm to, phạm vi rộng, bệnh tiến triển nhanh , có sốt; rêu
lưỡi mỏng vàng nhờn; mạch sác.
- Phương trị: thanh nhiệt - giải độc, lương huyết chỉ huyết.
- Bài thuốc: “thanh doanh thang”, “hoá ban thang”, “thanh ôn bại độc ẩm”, “tê giác địa hoàng thang” gia giảm.
- Các vị thuốc thường được trọng dụng: tê giác, đan bì, xích thược, sơn chi, tử thảo, kim ngân hoa.
2.3. Nhóm thấp nhiệt phát ban: - Phần nhiều ban mầu tía, phân bố ở hạ chi là chính, đa số bệnh nhân có đau khớp; rêu lưỡi nhờn, mạch huyền sác.
- Phương trị: thanh lợi thấp nhiệt, hoạt huyết thông lạc.
- Phương thuốc: dùng “tam hoàng thang” hoặc “độc hoạt tang ký sinh thang” gia giảm.
- Các vị thuốc được trọng dụng: hoàng liên, hoàng bá, độc hoạt, tang ký
sinh, ngưu tất, thương truật, trạch tả... tần cửu, tây thảo căn.
2.4. Âm hư phát ban: - Hay tái phát ban tía, kỳ nhiệt (ngũ tâm phiền nhiệt), ban tía phân bố lưa thưa.
- Phương trị: dưỡng âm thanh nhiệt lương huyết chỉ huyết. ----- Phương
thuốc: bài thuốc thường dùng là “lục vị địa hoàng hoàn” hoặc “đại bổ âm
hoàn”.
-Thuốc thường được trọng dụng: sinh địa, mạch môn, sài hồ, thanh cao,
miết giáp, đan bì, xích thược, bạch thược, qui bản và mao căn tươi.
2.5. Nhóm khí bất nhiếp huyết: - Ban xuất huyết phân bố
không đều , lúc giảm lúc tăng nhưng thường là ban ứ, huyết căng; kèm
theo các triệu chứng: mệt mỏi thiếu lực, chất lưỡi tía, lục mạch tế
nhược.
- Phương trị: ích khí nhiếp huyết.
- Phương thuốc: “qui tỳ thang”.
- Trọng dụng: đương qui, thục địa, đẳng sâm, hoàng kỳ, xuyên khung, viễn trí, phục thần.
2.6. Nhóm huyết ứ khí trệ: Đa phần lần đầu thấy ban
xuất huyết màu hồng tía ở bụng; về sau sắc ban tía xám, lưỡi tía hoặc
có ban ứ huyết ở khắp lưỡi , mạch huyền tế.
- Phương trị: sơ can giải uất - hoạt huyết khư ứ.
- Phương thuốc: “khư ứ thang”, “miết giáp tiễn hoàn”, “đào hồng tứ vật thang”.
- Thuốct thường dùng: đương qui , đan sâm, đào nhân, hồng hoa, sài hồ,
xuyên luyện tử, xuyên khung. Liều lượng từng vị thuốc dùng theo biện
chứng.
2.7. Thể huyết ứ thấp nhiệt:Thường có ban tía, ngứa dưới da vùng
khoeo chân, hai đùi tức mỏi, căng chướng; cảm giác ngứa nhức và đau
khớp; rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch huyền .
- Pháp điều trị phải hoạt huyết - khư ứ - thanh nhiệt - lợi thấp.
- Bài thuốc thường dùng: “tê giác địa hoàng thang”, “tam diệu thang” gia giảm.
- Chủ dược: sinh địa, xích thược, phục linh, trạch tả, ngưu
tất, hoàng bá, sa tiền tử. Liều lượng từng vị thuốc dùng theo biện
chứng.
2.8. Huyết nhiệt thương lạc: Thời kỳ đầu của bệnh, ban
xuất huyết màu tía tập trung ở các huyết quản dãn to; thường nhiều ban
điểm màu đỏ. Tuy nhiên, ở thể này chủ yếu là dãn các mao mạch nhỏ,
triệu chứng toàn thân không rõ ràng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch sác.
- Phương trị: lương nhiệt - thanh huyết, hoạt huyết, chỉ huyết.
- Phương thuốc: “tê giác địa hoàng thang” hợp “thập khôi tán”.
- Thuốc trọng dùng: tê giác, sinh địa, đan bì, thược dược,
quỉ hoa thán (khôi), tiên cước thảo, bồ hoàng. Liều lượng từng vị thuốc
dùng theo biện chứng.
2.9. Thể huyết ứ hiệp phong: Ban xuất huyết sắc tía
mỏng không căng, nhưng ngứa nhiều hoặc trên nền ban tía sắc lúc rõ lúc
mờ, có ban tía ngoài da ngứa gãi gây tổn thương da, có đám và mảng xuất
huyết.
- Phương trị: trừ phong - hoạt huyết.
- Phương thuốc: đương qui, tây thảo căn sinh địa, xích thược,
đan sâm, tàm sa... . Liều lượng từng vị thuốc dùng theo biện chứng.
hồng ban lang sang
(Luput ban đỏ hệ thống)
1. Đại cương:
1.1. Theo quan điểm của YHHĐ.
+ Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh khá phổ biến, tiên lượng
nặng, nguyên nhân chưa thật rõ, nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ và do rối
loạn điều hoà miễn dịch gây ra.
+ Đặc điểm: bệnh phát sinh đột ngột, có triệu chứng mệt mỏi kéo dài không rõ nguyên nhân.
- Đau bụng, đau khớp, đau ngực.
- Khởi phát đột ngột, sốt kéo dài không rõ nguyên nhân.
- 50 - 80% có tổn thương ở da mặt từng mảng đỏ hình cánh bướm.
- Tổn thương tạng phủ đa dạng (tim, phổi, thận, thần kinh...) nên còn có tên là luput ban đỏ rải rác.
Người ta tìm thấy trong huyết thanh bệnh nhân một yếu tố đặc
biệt gọi là yếu tố LE. Yếu tố này làm tan nhân bạch cầu nên còn gọi là
yếu tố kháng nhân. Các mảnh nhân bị vỡ, được một bạch cầu trung tính
khác ăn vào, chụp được qua kính hiển vi gọi là tế bào Hargraves (do
Hagraves tìm ra). Yếu tố kháng nhân là một loại globulin miễn dịch kiểu
IgG, phá vỡ các AND kiểu chuỗi kép .Người ta tìm được nhiều AND tự do
trong máu bệnh nhân bị bệnh luput ban đỏ. Ngoài ra còn thấy kháng thể
chống lại hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu; kháng thể kháng cơ quan trong
bệnh luput ban đỏ hệ thống.
Như vậy, tự kháng nguyên là AND của nhân tế bào, hồng cầu, bạch cầu,
tiểu cầu. Tự kháng thể là một globulin miễn dịch kiểu IgG phá các kháng
nguyên nói trên. Phức hợp kháng nguyên – kháng thể tạo ra lắng đọng
trên thành mạch của nhiều cơ quan nhất là thận (gây ra protein niệu),
khớp (gây viêm khớp). Một số tác giả cho rằng, bệnh có liên quan đến
dùng một số thuốc: penixilin, isoniazid, procainamid, hydralazin… và
thuốc tránh thai; hoặc do thuốc gây bệnh là điều kiện để phát bệnh thì
còn đang nghiên cứu. Ngoài ra, bệnh còn liên quan đến yếu tố di truyền,
đến nội tiết và tác động của môi trường.
Xét nghiệm: tìm tế bào luput, tìm kháng thể kháng nhân (ANA), phức hợp miễn dịch (PHMD), bổ thể (C3 - C4), giảm lắng đọng Ig và bổ thể trong mô; ngoài ra còn tìm thấy một số tự kháng thể khác.
1.2. Chẩn đoán : dựa vào 11 tiêu chuẩn (theo phân loại của Mỹ, 1982)- Ban đỏ hình cánh bướm ở mặt.
- Ban dạng đĩa ngoài da (Discoid rash).
- Da nhạy cảm với ánh sáng.
- Mồm có vết loét.
- Viêm khớp.
- Viêm các màng (phổi, tim).
- Viêm thận (protein niệu, đái máu, trụ niệu).
- Rối loạn tâm thần kinh (hưng phấn, u ám).
- Rối loạn máu, thiếu máu, tan máu, giảm bạch cầu, giảm limpho, giảm tiểu cầu.
- Rối loạn miễn dịch: có tế bào luput kháng thể kháng DNA, kháng Smith (Sm).
- Có kháng thể kháng nhân.
Chẩn đoán (+) khi có 4 triệu chứng trở lên.
1.3. Theo Y học Cổ truyền.
Theo YHCT, bệnh thường dựa vào tổn thương da, phát sốt, mệt mỏi, đau
khớp, mà đặt tên bệnh. Bệnh được mô tả trong các phạm trù: hồng hồ
điệp sang, thù du đan, mã nhiếp đan, nhật tây sang, âm - dương độc,
huyết phong sang, diện du phong... Khi bệnh ảnh hưởng đến nội tạng thì
thường thấy thủy thũng, hư tổn, suyễn tức, huyết chứng, quan cách.
- Nguyên nhân bệnh là do tiên thiên bẩm thụ bất túc lại nhận
cảm phải lục dâm ngoại tà hoặc nhân do tình trí dẫn đến ẩm thực thất
tiết, lao thương quá độ dẫn đến âm - dương thất điều, khí - huyết hao
hư, vận hành không thông, khí trệ huyết ứ, kinh lạc thụ trở mà luỵ đến
ngũ tạng lục phủ, tứ chi bách hạch, cơ phu cân cốt diễn biến nhiều
chứng trạng phức tạp. Bệnh diễn biến kéo dài khó khỏi, nhiệt độc vào
huyết phận làm thiêu đốt âm huyết, tý trở kinh mạch, thường đến tạng
phủ, cân cốt cơ phu. Ngoài ra, còn do dùng thuốc quá mẫn, cảm thụ vi
khuẩn bệnh độc, thức ăn quá mẫn.
- Trương Trọng Cảnh (trong Kim quĩ yếu lược) đã nêu trong
“thời độc âm - dương” trong biện chứng luận trị đã lấy “dương độc vi
bệnh” (mặt đỏ nổi ban, đau họng hầu, thường có nùng huyết (mủ máu))
thì trọng dụng “thăng ma miết giáp thang” làm chủ. Nếu “âm độc vi
bệnh”( mặt đỏ, toàn thân như bì tượng, hầu họng đau ) thì trọng dụng
“thăng ma miết giáp thang” bỏ vị thuốc hùng hoàng. Nếu thế bệnh thuộc
loại “âm - dương độc vi bệnh” thì bản chất chính là bệnh thuộc về âm -
dương thịnh suy.
2. Biện chứng luận trị:
Hiện nay y học hiện đại không có phương pháp nào điều trị đặc
hiệu mà chủ yếu là điều trị bằng thuốc kích thích tố và thuốc ức chế
miễn dịch nhưng hiệu quả không mỹ mãn mà có nhiều tác dụng phụ. Hiện
nay, đa số các tác giả đều thừa nhận điều trị kết hợp giữa Đông y và
Tây y trong biện chứng biện bệnh sẽ đạt được hiệu quả tối ưu, giảm
được tác dụng phụ đến mức tối đa, giảm lượng thuốc, rút ngắn thời gian
sử dụng; ổn định và khống chế được bệnh, giảm thấp được tỷ lệ tái phát,
được đại bộ phận bệnh nhân tín nhiệm.
2.1. Thể nhiệt tà tích thịnh .
- Triệu chứng: đột nhiên sốt cao liên tục không lui, vùng
mặt và da xuất hiện ban đỏ (hồng ban) hoặc ban đỏ phù nề , thậm chí
mọng to ứ huyết (ra ánh sáng thì bệnh nặng lên hoặc tái phát), toàn
thân vô lực, cơ nhục khớp xương đau nhức, phiền táo bất miên, tinh thần
mệt mỏi hoặc thần hôn, loạn ngôn hay co giật, đại tiện táo kết, tiểu
tiện ngắn đỏ; miệng khát, thích uống nước mát; mắt đỏ, môi đỏ; có thể
thấy thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, xuất huyết hoặc mồm và lưỡi sinh
mụn, hầu họng sưng đau; lưỡi đỏ tía hoặc giáng đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn
hoặc vàng khô hoặc là vàng trắng xen kẽ, nhờn hoặc xám bóng; mạch
huyền, sác.
- Pháp điều trị: thanh nhiệt - giải độc, lương huyết dưỡng âm - hoá ứ tiêu ban.
- Phương thuốc: “thanh ôn bại độc ẩm” gia giảm:
Sinh thạch cao (sắc trước) 60g Tri mẫu
Hoàng liên 15g Thuỷ ngưu giác 30g
Hoàng cầm 15g Chi tử 15g
Liên kiều 15g Huyền sâm 15g
Sinh địa 20g Đan bì 20g
Xích thược 20g Đương qui 20g
Trúc diệp 10g Cát cánh 10g.
Cam thảo 10g
- Gia giảm:
. Nếu đại tiện táo kết thì gia thêm đại hoàng 10g (sắc sau).
. Nếu sốt cao không lui hoặc thấy thần chí bất minh thì gia thêm linh dương giác 0,3 - 0,5g (xung phục).
. Sốt hư nhiệt (kỳ nhiệt) thì gia thêm: ngân sài hồ, địa cốt bì mỗi thứ đều 15g.
. Nếu ban xuất huyết nhiều thì gia thêm: bạch mao căn, tử thảo mỗi thứ đều 20g.
. Nếu thấp nhiệt rõ, rêu lưỡi dày nhờn thì gia thêm : thương
truật, thạch xương bồ mỗi thứ đều 10g và bỏ đi: sinh địa, huyền sâm,
chi mẫu.
2.2. Nhiệt thương khí âm: - Triệu chứng: phiền nhiệt tự
hãn; tâm quí, ngực bí; khí đoản, khái thấu; hư phiền bất miên hoặc
phiền táo tương đối nặng hoặc mồm môi xanh tím, sắc mặt bạch sang (lở
trắng); tứ chi nghịch lạnh, tứ chi phạp lực; tinh thần mệt mỏi; mạch tế
nhược hoặc kết đại; lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng. Thể này phần nhiều
có tâm - phế tổn hại hoặc là trung khu thần kinh trung ương tổn hại.
- Phương trị: thanh nhiệt dưỡng âm - ích khí an thần.
- Phương thuốc: “chích cam thảo thang” hợp phương “tả tâm thang” gia giảm:
Nhân sâm 15g Đại táo 20g
Sinh địa 50g Chích cam thảo 15g
A giao 10g Mạch đông 10g
Sinh khương 10g Quế chi 10g
Ma nhân 10g Hoàng liên 10g
Hoàng cầm 10g Đại hoàng 10g.
- Gia giảm:
Nếu khí hư nặng thì gia thêm hoàng kỳ 30 - 100g (toại triết gia đại).
Nếu tỳ hư rõ mà tiện lỏng ăn kém thì gia thêm phục linh, bạch truật, tiêu tam tiên mỗi thứ đều 10g.
Âm hư rõ mà dẫn đến miệng khô họng ráo, ho khan thì gia thêm: sa sâm 20g, thiên môn 10g, mạch môn 10g.
Nếu hư phiền, khó ngủ thì gia thêm : hợp bì, dạ giao đằng, toan táo nhân mỗi thứ đều 10g.
Nếu phiền táo nặng thì gia thêm : trúc diệp 5g, liên kiều 10g, địa cốt bì 10g.
Nếu khí cấp khái thấu, ho khan không long đờm thì gia thêm: tang bạch
bì, ngư tinh thảo, tử uyển khoản đồng hoa mỗi thứ đều 10g, bạch hoa xà
thiệt thảo 15g.
Nếu có sắc mặt trắng sang, sợ hàn chi lạnh thì gia thêm : phụ tử, nhục quế, tiên linh tỳ mỗi thứ đều 10g.
2.3. Can kinh uất nhiệt.
Vùng gan đau tức, hoặc là ngực sườn quản phúc bĩ mãn
chướng đau, tâm phiền dễ giận dữ hoặc uất ức bất thư, da lở loét sắc
hồng hoặc tía xám, phụ nữ đa phần là thống kinh, bế kinh hoặc kinh
nguyệt không đều. Ngoài ra có thể sợ lạnh, phát sốt; ăn kém, phạp lực;
đầu choáng, thất miên; lưỡi đỏ giáng, có ban điểm ứ huyết, rêu lưỡi
trắng mỏng hoặc vàng khô; mạch khẩn tế hoặc huyền sác; thường có huyết
áp tăng cao và can tỳ thũng đại công năng thương tổn.
- Phương trị: sơ can thanh nhiệt, hoạt huyết hóa ứ.
- Phương thuốc: “nhất quán tiễn “ hợp” tứ diệu dũng an thang” gia giảm.
Đương qui 30g Sinh địa 30g
Huyền sâm 20g Kỷ tử 20g
Kim ngân hoa 15g Bắc sa sâm 10g
Mạch đông 10g Xuyên luyện tử 10g .
Sinh cam thảo 10g
- Gia giảm:
. Nếu gan lách đều to, vùng gan đau tức thì gia thêm:
qui bản, miết giáp mỗi thứ đều 30g; hương phụ, uất kim mỗi thứ đều 15g.
. Nếu huyết ứ nặng thì thêm : tam lăng 15g, nga truật 15g, xích thược10g, đan bì 10g.
. Nếu tỳ hư rõ thì gia thêm: nhân sâm 10g, phục linh 20g, bạch truật 10g.
. Nếu nhiệt độc thiên thịnh thì gia thêm: đại hoàng, long đởm thảo, sài hồ, kỷ tử, chi tử mỗi thứ đều 10g.
2.4. Âm hư hoả vượng Sốt kéo dài, ngũ tâm phiền nhiệt,
mặt đỏ, gò má đỏ, tự hãn, phạp lực; bì chẩn sắc hồng hoặc hồng nhợt,
phát ban mới; khớp đau mỏi, đầu choáng, mắt hoa, tai ù; tóc rụng, họng
khô miệng ráo; nước tiểu đỏ, đại tiện bế; lưỡi đỏ, lưỡi ít rêu; mạch
huyền tế sác; nếu là phụ nữ thì kinh nguyệt không đều. Nhóm này đa phần
cấp tính.
- Phương trị: tư thận, dưỡng âm, thanh nhiệt.
- Phương thuốc: “đại bổ âm hoàn” hợp phương “tứ vật thang” gia giảm:
Qui bản 30g Miết giáp 30g
Sinh địa 20g Thục địa 20g
Hoàng bá 20g Tri mẫu 20g
Đương qui 20g Bạch thược 10g.
Xuyên khung 10g
- Gia giảm:
. Khí hư nặng thì gia thêm: hoàng kỳ 20g, tây dương sâm 10g.
. Nếu tự hãn rõ phải gia thêm: long cốt, mẫu lệ mỗi thứ đều 10g.
. Nếu tỳ hư , ăn kém thì gia thêm: hoài sơn, phục linh mỗi thứ đều 20g, bạch truật 10g.
. Nếu triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt phải gia thêm: sơn
dược, phục linh mỗi thứ đều 20g; đan bì, sơn thù, trạch tả mỗi thứ đều
10g và địa cốt bì, huyền sâm, hoa phấn, thanh cao mỗi thứ đều 10 - 15g.
. Nếu huyết hư, bì chẩn rõ thì gia thêm: hồng hoa, đào nhân
mỗi thứ đều 10g; đan sâm, xích thược mỗi thứ đều 15g; bạch mao căn,
ngân tiết mỗi thứ đều 20g.
. Thận hư rõ, lưng đau, gối mỏi, đầu choáng, tai ù thì gia
thêm: kỷ tử, thỏ ty tử, nhục thung dung, ngưu tất, hà thủ ô mỗi thứ đều
10g.
2.5. Thể khí trệ huyết ứ .
Đoạn chi xanh tía, thương bạc (sang bạch), xanh tía xen
kẽ, bì phu tía ban, cơ phu khô thô, khớp và cơ nhục đau mỏi, tình chí
uất ức; chất lưỡi hồng tía, tĩnh mạch dưới lưỡi nổi rõ ứ huyết xanh
tía. Bệnh nhân là nữ thì kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc thống
kinh. Thời kỳ này, viêm các huyết quản nổi bật.
- Phương trị: hoạt huyết hóa ứ - lý khí thông lạc.
- Phương thuốc: “huyết phụ trục ứ thang” gia giảm
Sinh địa 20g Đào nhân 20g
Hồng hoa 20g Xích thược 20g
Ngưu tất 20g Sài hồ 10g
Xuyên khung 10g Chỉ thực 10g.
- Gia giảm:
. Nếu tình chí uất ức thì gia thêm: uất kim, hương phụ, thanh bì mỗi thứ đều 10g.
. Đoạn chi đau đớn, khớp đau phải gia thêm: tang chi, quế
chi, tần cửu, kê huyết đằng, thông tây đằng mỗi thứ đều 10 - 15g.
. Thiên về huyết ứ, chi đoạn cơ phu xanh tía, khi nặng khi
nhẹ, thời gian tương đối dài phải gia thêm: Xuyên khung 20g;Tam thất,
toàn qui mỗi thứ đều 15g; Nhũ hương, một dược, mộc thông, tam lăng, nga
truật, thảo ô, xuyên ô mỗi thứ đều 10g; Tế tân 3g.
- Khớp chi đau mỏi thì gia thêm: bạch hoa xà, toàn yết, ngô công mỗi thứ đều 10g.
2.6. Thể tỳ thận lưỡng hao .
Hình hàn, chi lạnh, kỳ nhiệt hoặc triều nhiệt, mệt mỏi vô
lực, đoản khí loạn ngôn, vận động thì bệnh nặng lên; ăn kém, bụng
chướng, có thể nôn mửa hoặc tiết tả; mặt sang bạch hoặc vàng; lưng gối
đau mỏi, khớp sưng đau; chi thể phù thũng, tiểu tiện bất lợi; b chẩn
không rõ hoặc có màu tía xám; lưỡi nhợt bệu hoặc xám nhợt có hằn răng,
rêu lưỡi mỏng trắng; mạch nhu tế hoặc trầm tế (tương ứng vớ những bệnh
nhân có tổn thương thận, dùng kích tố thượng thận kéo dài).
- Phương trị: bổ thận - kiện tỳ, ôn - dương lợi thủy.
- Phương dược: “thận khí hoàn” hợp “tứ quân tử thang” gia giảm
Nhục quế 15g Phụ tử
08g Sơn dược 20g
Phục linh 30g
Nhân sâm 10g Bạch truật 10g
Sơn thù nhục 10g Đan bì 12g
Chích Cam thảo 6g Trạch tả 12g.
- Gia giảm:
. Nôn khan nặng thì gia thêm: sinh khương 20g; trần bì, bán hạ, hậu phác, thạch xương bồ mỗi thứ đều 10g.
. Thận hư thì gia thêm: thỏ ty tử, tiên mao, tiên linh tỳ,
tang ký sinh, xuyên tục đoạn, kỷ tử, đỗ trọng, hà thủ ô, nhục dung mỗi
thứ đều 10 - 15g.
. Tiểu tiện bất lợi thủy thũng phải gia thêm: đại phúc bì,
trư linh, bạch mao căn, xích biển đậu mỗi thứ đều 10 - 15g.
. Nếu đại tiện tiết tả thì gia thêm: sơn dược 30g, bạch truật sao 20g; nhục khấu, sa nhân mỗi thứ đều 10g.
3. Các phương pháp điều trị khác và tinh hoa lâm sàng:
3.1. Bài thuốc hạch tâm:
“Tứ diệu dũng an thang” hợp phương “đại bổ âm hoàn” gia giảm:
Huyền sâm 40 - 20g Qui bản 20g
Sinh địa 30g Kim ngân hoa
Ngải tượng 6g Cam thảo 20g
Miết giáp 20g Mạch môn 20g
Ngũ vị tử 8g.
3.2. Chọn lọc một số bài thuốc:Một số bài thuốc có tác dụng
tiêu viêm thoái mẫn: “sơ phong thanh nhiệt ẩm”, “tần cửu ngưu bàng
thang”, :long đởm thảo tả can thang”, “ngân kiều tán”, “trừ thấp vị
linh thang”, “lương huyết giải độc thang”…. Một số bài thuốc kích thích
cơ thể sinh kháng thể: “tứ quân tử thang”, “đương qui bổ huyết thang”,
“ma hạnh thạch cam thang”.Nếu phối hợp trị liệu thu được kết quả tốt.
Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014
Thoát cốt thư (viêm tắc động mạch chi)
1. Đại cương:
1.1. Định nghĩa.
Viêm tắc động mạch chi là bệnh thuộc hệ thống thần kinh - mạch máu toàn thân, tiến triển mãn tính. Y học Cổ truyền thường mô tả chứng bệnh này trong chứng “thoát thống, thoát thư, thoát cốt thư, thập chỉ ly lạc...” Bệnh thường khởi phát ở tứ chi nhưng chi dưới bị nhiều hơn. Đặc điểm lâm sàng thời kỳ đầu là các ngón chân hoặc ngón tay giá lạnh, tê nhức, dần dần đau buốt dữ dội. Đau kéo dài dẫn đến tím tái và hoại tử, loét nát các đầu chi, thậm chí rụng và cụt các đầu chi do hoại tử. Bệnh thường phát ở tuổi thanh niên và trung niên; hiếm thấy ở nữ giới (tại Viện Y học Cổ truyền - Hà nội, Nguyễn Văn Thang thống kê 1000 bệnh án của bệnh nhân bị bệnh này nhưng chưa thấy nữ giới) hay gặp nhiều ở miền Bắc, vùng lạnh.
1.2. Nguyên nhân cơ chế theo Y học hiện đại.
+ Viêm tắc động mạch chi thực chất là viêm nội mạc các động mạch. Màng nội mạc các động mạch có xu hướng dày lên dẫn đến tình trạng tắc lòng động mạch gây hoại tử vùng chi tương ứng được động mạch nuôi dưỡng. Thường gặp ở nam giới và ở chi dưới nhưng cũng có khi thấy ở động mạch chi trên, động mạch ruột, động mạch vành và động mạch não...
+ Có nhiều giả thuyết để giải thích.
- theo Winiwarter thì chủ yếu do xơ vữa động mạch (atheros cletosis). Thuyết này ít được công nhận vì vữa xơ hay ở những người tuổi cao, khởi phát không ở đầu chi.
- Giả thuyết tăng adrenalin hay xuất hiện ở bệnh lý tuyến thượng thận của Oppel do sau khi ông xét nghiệm thấy trong máu bệnh nhân bị viêm tắc động mạch chi có adrenalin tăng .
- Giả thuyết của Silbert cho rằng bệnh do tăng độ quánh của máu.
- Giả thuyết của G.P.Zai Xep cho rằng , rối loạn chức năng thần kinh thực vật phân bổ ở các mạch máu do tác động của các kích thích ngoại cảnh.
- Kết luận của Hội nghị Ngoại khoa toàn liên bang Nga (27/5/1960): do kích thích ngoại cảnh hay nội sinh (riêng biệt hoặc tổng hợp) ảnh hưởng đến trung tâm thần kinh thực vật từ từ và lâu dài làm biến đổi liên tục và ngày càng tăng trong hệ thống mạch máu. Tùy theo phản ứng trả lời của cơ thể đối với những biến đổi trong hệ thống mạch máu mà thể hiện ra bằng các mức độ co thắt mạch máu khác nhau, điều này có liên quan trực tiếp đến mức độ lạnh, ấm. Kích thích lạnh và nóng có ý nghĩa rất lớn trong nguyên nhân và trong sự kịch phát của bệnh. Ngoài ra sự nóng , lạnh các đầu chi, dù chỉ có 1 lần cũng có thể gây ra rối loạn thần kinh - mạch máu.
- Giả thuyết về kích thích trong vỏ đại não của N.E Vedanski và U - khơ - Tôn Xki: thuyết này cho rằng những phản ứng không bình thường của viêm tắc động mạch là do sự cấu tạo lên hiện tượng “ưu thế trội” hay còn gọi là “ổ kích thích”. Đại não là cơ quan nhạy cảm với tất cả mọi kích thích vào cơ thể qua hệ thống tín hiệu 1 và 2, được trả lời bằng xung động bệnh lý đặc biệt: sớm là dẫn truyền đi thẳng tới kích thích phát sinh phản xạ bệnh lý co thắt mạch; muộn là dẫn truyền còn từ trong ra (vì co thắt mạch gây đau) lại gây co thắt mạch máu nhiều hơn.
Kết quả hoạt động phản xạ là gây co thắt mạch máu kéo dài và tái diễn, gây nên tăng sinh lớp cơ và lớp nội mạc động mạch. Việc biến đổi cơ và nội mạc động mạch dẫn đến thoái hóa bộ phận thần kinh chi phối mạch máu, lòng mạch máu bị hẹp lại và tạo nên cục nghẽn; cuối cùng cục nghẽn bị tổ chức xơ hóa và mạch bị tắc lại hoàn toàn.
Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch. Các đám rối giao cảm quanh thành động mạch bị thoái hóa teo lại, phản ứng liên kết phát triển mạnh có thể là nguyên nhân gây đau trong bệnh này; ngoài ra còn có thể thấy tuần hoàn bằng hệ phát triển. Vi thể thấy hình ảnhviêm mạch vô khuẩn.
Ngoài các quan sát, khám xét như bắt mạch, đo giao động mạch, chụp cản quang động mạch, người ta hy vọng phát hiện sớm bằng soi vi tuần hoàn động mao mạch ở động mạch đầu chi, nền móng tay (vì xem mạch, giao động mạch đôi khi cho kết quả không chắc chắn, có khi đau nhiều mạch lại rõ và không đau lại mất mạch) để đánh gía hình thái, chiều dài các quai mao mạch, số lượng mao mạch trên 1 vi trường, bề rộng của động mạch, tĩnh mạch và khoảng trung gian của mạch máu, tính chất của dòng máu chảy (nhanh, chậm, ngắt quãng); tính chất màu sắc mao mạch trên vi trường (nhợt nhạt, hồng, đỏ thẫm, tím). Phương pháp này hiện nay được nhiều người sử dụng, tuy nhiên có nhược điểm chưa đưa ra được những số liệu để chẩn đoán phân biệt.
Người ta chú ý nhiều đến cách giải thích của tác giả Pháp L.B. Buerger (1908) sau khi nghiên cứu viêm tắc động mạch chi và là người đầu tiên mô tả bệnh này. Ông cho rằng: bệnh sinh do khuyết tật của hệ thống miễn dịch dịch thể làm cho nội mạc động mạch tăng sinh, dày lên và trở thành kháng nguyên kích thích sinh kháng thể; phản ứng kháng nguyên - kháng thể diễn biến không ngừng làm tắc lòng động mạch; Ông hy vọng phát hiện sớm bệnh này bằng những test miễn dịch.
+ Lâm sàng và chẩn đoán phân biệt.
Theo Y học hiện đại , người ta chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn rối loạn chức năng: Có co thắt mạch khi bị lạnh hoặc khi làm việc nặng, cóng buốt chi, đau bắp thịt khi đi lại, nghỉ ngơi thì hết đau, khi bị lạnh ẩm thì đau tăng. Mạch mu chân thường yếu, đôi khi không sờ thấy; “triệu chứng nốt trắng” xuất hiện khi giơ cao chân lên hoặc khi cử động bàn chân.
Thể không điển hình cần chẩn đoán phân biệt với Goutle (đau về đêm), giãn tĩnh mạch sâu, đau thần kinh hông to.
- Giai đoạn rối loạn dinh dưỡng: Đau liên tục đầu chi, thiếu máu thường xuyên, đau kéo dài dai dẳng, đau tăng về đêm và tăng khi giơ chân lên cao, đau giảm phần nào khi hạ chân xuống, ngủ thường thiếp đi từng lúc (trong tư thế ngồi, tay ôm chân), rối loạn tâm tính, da khô, móng dày vẹo 1 bên, dưới móng thường có viêm mủ, đầu ngón xuất hiện các nốt loét nhỏ ướt và đau.
- Giai đoạn hoại tử hay hoại thư: đau không đi lại được, luôn ngồi, tay luôn giữ lấy bàn chân bị bệnh, các ngón xuất hiện loét có hoại tử, phù. Da tím lan lên cả bàn chân và mu chân, có khi xuất hiện đám hoại tử màu đen; XQ thấy xốp các xương bàn chân.
Không sờ thấy mạch và không ghi được giao động mạch đồ của mạch ở bàn chân. Toàn thân suy sụp xanh gầy, sốt nhẹ37,5 – 38oC. Hoại tử khô chuyển thành hoại tử ướt, hôi thối, bội nhiễm , nhiễm độc. Nếu không điều trị phẫu thuật thì nguy cơ tử vong do nhiễm trùng nhiễm độc.
+ Cần chẩn đoán phân biệt với:
- Hoại thư do đái tháo đường.
- Hoại thư do xơ mạch (rối loạn chuyển hóa lipit và can xi).
- Đau trong bệnh Rây - nô (Raynaud).
+Y học hiện đại thường chú ý đến 3 dấu hiệu sắp có hoại thư của L.Buerger - 1908:
- Thiếu máu khi nâng chi lên cao.
- Góc thiểu năng tuần hoàn tái nhợt hoặc tím.
- Dấu hiệu ép ngón cái.
Về tiên lượng bệnh hiện nay rất khó khăn.
Tái phát có tính chất chu kỳ, rối loạn kịch phát cuối cùng trở thành một bệnh không thể chữa khỏi phải phẫu thuật triệt để và chấp nhận tàn phế. Ở giai đoạn 1 và 2 thường dùng các loại thuốc chống co thắt mạch acetylcholin, papaverin hoặc novocain dung dịch 1% truyền động mạch mỗi lần 10 ml ngày 1 - 2 lần , sau 15 - 20 lần đau thường mất.
Ngoại khoa: phương pháp tác động thần kinh giao cảm, cắt bỏ màng thần kinh giao cảm quanh vỏ động mạch, cắt hạch thần kinh giao cảm liên quan đến giao cảm quanh động mạch hoặc cắt hẳn động mạch. Phục hồi hoàn toàn cho vùng bị tắc.
1.3. Nguyên nhân bệnh lý theo Y học dân Cổ truyền.
+ Do khí - huyết vận hành không lưu thông, kinh lạc bị trở tắc làm cho khí – huyết và doanh vệ không điều hoà; tổn thương khí - huyết thận khí suy giảm; nhiễm lạnh thấp kéo dài hoặc dùng thuốc độc kéo dài; uống rượu quá nhiều...
+ Đặc điểm của bệnh qua 3 thời kỳ:
- Thời kỳ đầu do doanh vệ khí - huyết trở tắc không điều hoà, khí - huyết không được lưu thông. Người bệnh thường thấy đầu chi giá lạnh rồi chuyển sang tê nhức, buốt không ngừng.
- Thời kỳ 2 gây khí trệ huyết ứ, kinh mạch bị tắc trở, đầu chi thường xanh tím hoặc hồng tím hoặc đen thẫm, đau đớn dữ dội như kim châm hoặc như dao cứa da thịt và cuối cùng là hoại tử, loét nát lộ xương, hôi thối .
- Thời kỳ sau hàn uất hóa nhiệt thành nhiệt độc, lộ xương nhiều, đầu chi đứt rụng.
1.4. Biện chứng luận trị.
Trên lâm sàng, chủ yếu phải phân định rõ ràng, chính xác trạng thái cơ thể hàn hay nhiệt , hư hay thực.
Trị trong phải nhấn mạnh thông kinh hoạt lạc, hoạt huyết khư ứ, thường dùng “tứ diệu dũng an thang gia vị”. Nếu dương hư có hàn thì phải ôn kinh tán hàn; nếu nhiệt độc tích thịnh phải thanh nhiệt - giải độc; nếu hư chứng thì phải bổ hư. Điều quan trọng là khi dùng thuốc bệnh có chuyển biến chậm phải cho liều cao hơn và liên tục không được gián đoạn. Ngoài ra, phải phối hợp châm cứu hoặc thủy châm, dụng dược chính xác mới ngăn chặn được bệnh và chống được tái phát (bệnh có đặc điểm hay tái phát - tái phát tuyệt vọng , Buergr, 1908).
Khi bệnh có chuyển biến tốt thì vấn đề cơ bản là điều trị củng cố, phải căn cứ vào tình trạng hư hay thực của tạng phủ để ưu tiên bổ huyết, kiện tỳ hay bổ thận ích tinh (khi bị bệnh thường là nam giới và khả năng sinh dục giảm). Sử dụng thuốc phải tinh, phải giải quyết tốt giữa liều lượng thuốc và khối lượng thuốc, cần phải có kết hợp chế hoàn chế tễ; chú ý đề phòng tái phát mà chủ yếu là chống tác nhân lạnh kéo dài. Kinh nghiệm lâm sàng khi bệnh nhân mới tái phát phải dùng thuốc sớm và tích cực tạo được mạng lưới tuần hoàn tân tạo thì bệnh mới có tiên lượng tốt.
2. Lâm sàng và thể bệnh theo YHCT:
2.1. Thể hư hàn. Thân thể gầy gò, sắc mặt trắng nhợt, thích ấm sợ lạnh; chi bệnh tê mỏi , gặp lạnh thì đau, da khô nhợt, sờ vào thấy lạnh. Đi lại vận động hạn chế do đau. Đại tiện lỏng nát, tiểu tiện trong dài. Rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhợt, mạch trầm trì vô lực
- Phương pháp điều trị: thông kinh tán hàn hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc: “quế phụ đào hồng tứ vật thang” gia giảm.
Chế phụ tử 12g Hoàng hoa 16g
Đào nhân 12g Đan sâm 40g
Xích thược 20g Quế chi 20g
Đương qui 30g Ngưu tất 16g
Bạch giới tử 8g Tang ký sinh 30g
Sinh hoàng kỳ 40g Xuyên luyện tử 20g.
Bào khương 8g
Sắc uống ngày 1 thang.
2.2.Thể khí trệ huyết ứ.
Sắc mặt thường u ám đau khổ, da khô trắng nhợt khi giơ chi lên cao và tím tía khi thõng chân xuống, chi lạnh teo nhẽo. Chất lưỡi hồng hoặc xám tía, không có rêu hoặc có rêu trắng mỏng nhợt, mạch trầm huyền hoặc huyền tế.
- Pháp điều trị: hoạt huyết khư ứ hành khí giải uất.
- Bài thuốc: “tứ diệu dũng an thang” gia giảm.
Xích thược 20g Đào nhân 12g
Chỉ xác 12g Cam thảo 15g
Ngưu tất 20g Đan bì 12g
Binh lang 12g Kim ngân hoa 20g
Qua lâu nhân 32g Đan sâm 20g.
Huyền sâm 20g
Nếu thấy bệnh chuyển biến chậm thì dùng “thông mạch hoạt huyết thang” gia giảm.
Đương qui 16g Huyền sâm 20g
Kim ngân hoa 30g Sinh địa hoàng 16g
Hoàng kỳ 16g Đan sâm 20g
Nhũ hương 12g Diên hồ sách 12g
Cam thảo 12g Bồ công anh 20g
Hoàng bá 12g Một dược 12g.
Tử hoa địa đinh 20g.
2.3. Nhiệt độc nội kết (nội uẩn).
Sắc mặt ủ rũ không tươi nhuận, tinh thần trầm mặc uất ức không thư thái; đầu choáng tai ù, đau tăng khi cử động; da đen hoặc tím tái, xung quanh chỗ loét hoại tử phù nề lan toả, mùi hôi thối, chủ yếu là hoại tử ướt có dịch thấm ra, chỗ bội nhiễm mủ nhiều. Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng nhờn; mạch hoạt sác hoặc huyền sác, hay sốt nhẹ về chiều 37,5 - 380.
- Phương pháp điều trị: thanh nhiệt giải độc - hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc: “tứ diệu dũng an thang” gia thêm:
Đan sâm 40g Địa long 24g
Một dược 12g Xích thược 32g
Nhũ hương 12g Ngưu tất 20g.
Thổ miết trùng 16g
2.4. Thể khí - huyết lưỡng hư.
Vẻ mặt (dung nhan) tiều tụy, chi thể gầy gò, vô lực, hoạt động hay vã mồ hôi. Tại chỗ đau sót hơn hoặc không đau nhưng có teo, da khô loét lâu liền, hôi thối, nhiễm giả mạc, xung quanh phù nề, da lạnh giá. Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu trắng mỏng nhờn; mạch trầm , tế, vô lực.
- Pháp điều trị: bổ khí dưỡng huyết hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc cổ phương: “cố bộ thang”.
Cát lâm sâm 8 - 12g Kim ngân hoa 40g
Đương qui 24g Thạch hộc 16g
Hoàng kỳ 32g Ngưu tất 12g.
Có thể dùng thêm “bát trân thang”, “thập toàn đại bổ thang” hoặc “bổ dương hoàn ngũ tạng” gia giảm. Tác dụng bổ khí hoạt huyết sinh huyết khứ ứ thông lạc.
Sinh hoàng kỳ 40 - 160g Đương qui vĩ 8g
Xích thược 6g Địa long 4g
Xuyên khung 4g Đào nhân 4g.
Hồng hoa 4g
Các thể bệnh trên đều có thể dùng thêm “tứ trùng hoàn”: toàn yết, ngô công, địa long, thổ miết trùng. Tất cả cho vào tán bột làm viên hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4g. Tác dụng giải độc trấn kinh, hoạt huyết hóa ứ thông lạc chỉ thống.
3. Thuốc nghiệm phương:
+ Nghiệm phương:
Mao động thanh (Ilexrotunda thumb), câu tất mỗi thứ đều 3 - 5 lượng, gia thêm: trư cước, hoặc trư cốt 1 cái lượng thích hợp. Tất cả cho vào ninh sắc cùng khi nhừ thì chắt lấy nước uống mỗi ngày 1 thang.
+ Bạch hoa xà bỏ nội tạng 1 con, thiềm thừ 1 con, kim ngân hoa 120g, ngưu tất 80g, rượu trắng 650 3 thăng. Trưng cách thủy 1- 1,5h mỗi lần uống 50 - 100ml ngày uống 1 lần.
- Chú ý:
Có thể dùng ngũ bội xà bỏ nội tạng sấy khô, tán bột thay cho bạch hoa xà.
Thiềm tô rất độc nên trước khi dùng phải chế thành thiềm thừ. Không nắm vững cách chế thiềm tô thành thiềm thừ thì không dùng được.
+ “Tang tử ôn kinh thang” chỉ định ở giai đoạn đầu.
Độc hoạt 12g Đương qui 40g
Đan sâm 40g Chế phụ tử 12g
Một dược 12g Đào nhân 8g
Hồng hoa 8g Xuyên sơn giáp 12g
Nhục quế 12g Ngô công 8g
Địa long 12g Cam thảo 8g
Ngưu tất 24g Nhũ hương 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
+ Hoàn nghiệm phương:
Chế phụ tử 20 - 40g Phục linh 40g
Bạch thược 40g Đẳng sâm 40g
Hoàng kỳ 120g Sinh khương 40g
Can khương 40g Quế chi 40g.
Cam thảo 40g
Tất cả tán bột chế thành viên hoàn, ngày uống 10 - 12g chia 3 lần.
Thuốc nghiệm phương tham khảo chú ý bài thuốc có hắc phụ tử là thuốc có độc không nắm vững không được dùng.
4. Một số thuốc bôi ngoài:
+ Cao sinh cơ.Duyên đơn 2,5g, long não 2,5g , H2CO3 30ml. Tất cả chế thành dạng thuốc nước bôi ngoài. Bài thuốc có độc nên diện tích bôi hẹp; nên bôi nhiều lần, mỗi lần không quá 1 ngón chân, khi đỡ mới bôi sang ngón chân khác.
+ Sinh cơ chỉ thống.
Đương qui 16g Bạch chỉ 12g
Một dược 12g Nhũ hương 8g
Hồng hoa 8g Sinh địa 20g
Ma hoàng 8g Dầu vừng 0,5 lít.
Bôi ngày 1 lần.
+ Cao đởm thiềm.Trư đởm (mật lợn) 10 cái Bột hoàng bá 8g
Thanh đại 8g Mật ong 8g
Khinh phấn 2g Thiềm tô 2g.
Tất cả tán bột. Riêng mật lợn chỉ lấy 1/2 lượng dịch (chỉ lấy 1/2 dịch trong túi mật) cho 1/3 bột này vào trộn đều, sau đó bột còn lại cho mật ong vừa đủ để bôi ngày 1 lần.
+ Châm cứu giảm đau.
Thường chỉ định các huyệt vùng gốc chi, tránh châm ở ngọn chi nơi các động mạch nuôi dưỡng đã bị tắc gây đau đớn và dễ bị bội nhiễm.
1.1. Định nghĩa.
Viêm tắc động mạch chi là bệnh thuộc hệ thống thần kinh - mạch máu toàn thân, tiến triển mãn tính. Y học Cổ truyền thường mô tả chứng bệnh này trong chứng “thoát thống, thoát thư, thoát cốt thư, thập chỉ ly lạc...” Bệnh thường khởi phát ở tứ chi nhưng chi dưới bị nhiều hơn. Đặc điểm lâm sàng thời kỳ đầu là các ngón chân hoặc ngón tay giá lạnh, tê nhức, dần dần đau buốt dữ dội. Đau kéo dài dẫn đến tím tái và hoại tử, loét nát các đầu chi, thậm chí rụng và cụt các đầu chi do hoại tử. Bệnh thường phát ở tuổi thanh niên và trung niên; hiếm thấy ở nữ giới (tại Viện Y học Cổ truyền - Hà nội, Nguyễn Văn Thang thống kê 1000 bệnh án của bệnh nhân bị bệnh này nhưng chưa thấy nữ giới) hay gặp nhiều ở miền Bắc, vùng lạnh.
1.2. Nguyên nhân cơ chế theo Y học hiện đại.
+ Viêm tắc động mạch chi thực chất là viêm nội mạc các động mạch. Màng nội mạc các động mạch có xu hướng dày lên dẫn đến tình trạng tắc lòng động mạch gây hoại tử vùng chi tương ứng được động mạch nuôi dưỡng. Thường gặp ở nam giới và ở chi dưới nhưng cũng có khi thấy ở động mạch chi trên, động mạch ruột, động mạch vành và động mạch não...
+ Có nhiều giả thuyết để giải thích.
- theo Winiwarter thì chủ yếu do xơ vữa động mạch (atheros cletosis). Thuyết này ít được công nhận vì vữa xơ hay ở những người tuổi cao, khởi phát không ở đầu chi.
- Giả thuyết tăng adrenalin hay xuất hiện ở bệnh lý tuyến thượng thận của Oppel do sau khi ông xét nghiệm thấy trong máu bệnh nhân bị viêm tắc động mạch chi có adrenalin tăng .
- Giả thuyết của Silbert cho rằng bệnh do tăng độ quánh của máu.
- Giả thuyết của G.P.Zai Xep cho rằng , rối loạn chức năng thần kinh thực vật phân bổ ở các mạch máu do tác động của các kích thích ngoại cảnh.
- Kết luận của Hội nghị Ngoại khoa toàn liên bang Nga (27/5/1960): do kích thích ngoại cảnh hay nội sinh (riêng biệt hoặc tổng hợp) ảnh hưởng đến trung tâm thần kinh thực vật từ từ và lâu dài làm biến đổi liên tục và ngày càng tăng trong hệ thống mạch máu. Tùy theo phản ứng trả lời của cơ thể đối với những biến đổi trong hệ thống mạch máu mà thể hiện ra bằng các mức độ co thắt mạch máu khác nhau, điều này có liên quan trực tiếp đến mức độ lạnh, ấm. Kích thích lạnh và nóng có ý nghĩa rất lớn trong nguyên nhân và trong sự kịch phát của bệnh. Ngoài ra sự nóng , lạnh các đầu chi, dù chỉ có 1 lần cũng có thể gây ra rối loạn thần kinh - mạch máu.
- Giả thuyết về kích thích trong vỏ đại não của N.E Vedanski và U - khơ - Tôn Xki: thuyết này cho rằng những phản ứng không bình thường của viêm tắc động mạch là do sự cấu tạo lên hiện tượng “ưu thế trội” hay còn gọi là “ổ kích thích”. Đại não là cơ quan nhạy cảm với tất cả mọi kích thích vào cơ thể qua hệ thống tín hiệu 1 và 2, được trả lời bằng xung động bệnh lý đặc biệt: sớm là dẫn truyền đi thẳng tới kích thích phát sinh phản xạ bệnh lý co thắt mạch; muộn là dẫn truyền còn từ trong ra (vì co thắt mạch gây đau) lại gây co thắt mạch máu nhiều hơn.
Kết quả hoạt động phản xạ là gây co thắt mạch máu kéo dài và tái diễn, gây nên tăng sinh lớp cơ và lớp nội mạc động mạch. Việc biến đổi cơ và nội mạc động mạch dẫn đến thoái hóa bộ phận thần kinh chi phối mạch máu, lòng mạch máu bị hẹp lại và tạo nên cục nghẽn; cuối cùng cục nghẽn bị tổ chức xơ hóa và mạch bị tắc lại hoàn toàn.
Giải phẫu bệnh lý: thấy lòng động mạch hẹp, thành dày lên, soi thấy trắng cứng, lớp cơ và nội mạc dày lên, có máu cục dính hay máu cục đã xơ hóa dính chặt vào thành động mạch. Các đám rối giao cảm quanh thành động mạch bị thoái hóa teo lại, phản ứng liên kết phát triển mạnh có thể là nguyên nhân gây đau trong bệnh này; ngoài ra còn có thể thấy tuần hoàn bằng hệ phát triển. Vi thể thấy hình ảnhviêm mạch vô khuẩn.
Ngoài các quan sát, khám xét như bắt mạch, đo giao động mạch, chụp cản quang động mạch, người ta hy vọng phát hiện sớm bằng soi vi tuần hoàn động mao mạch ở động mạch đầu chi, nền móng tay (vì xem mạch, giao động mạch đôi khi cho kết quả không chắc chắn, có khi đau nhiều mạch lại rõ và không đau lại mất mạch) để đánh gía hình thái, chiều dài các quai mao mạch, số lượng mao mạch trên 1 vi trường, bề rộng của động mạch, tĩnh mạch và khoảng trung gian của mạch máu, tính chất của dòng máu chảy (nhanh, chậm, ngắt quãng); tính chất màu sắc mao mạch trên vi trường (nhợt nhạt, hồng, đỏ thẫm, tím). Phương pháp này hiện nay được nhiều người sử dụng, tuy nhiên có nhược điểm chưa đưa ra được những số liệu để chẩn đoán phân biệt.
Người ta chú ý nhiều đến cách giải thích của tác giả Pháp L.B. Buerger (1908) sau khi nghiên cứu viêm tắc động mạch chi và là người đầu tiên mô tả bệnh này. Ông cho rằng: bệnh sinh do khuyết tật của hệ thống miễn dịch dịch thể làm cho nội mạc động mạch tăng sinh, dày lên và trở thành kháng nguyên kích thích sinh kháng thể; phản ứng kháng nguyên - kháng thể diễn biến không ngừng làm tắc lòng động mạch; Ông hy vọng phát hiện sớm bệnh này bằng những test miễn dịch.
+ Lâm sàng và chẩn đoán phân biệt.
Theo Y học hiện đại , người ta chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn rối loạn chức năng: Có co thắt mạch khi bị lạnh hoặc khi làm việc nặng, cóng buốt chi, đau bắp thịt khi đi lại, nghỉ ngơi thì hết đau, khi bị lạnh ẩm thì đau tăng. Mạch mu chân thường yếu, đôi khi không sờ thấy; “triệu chứng nốt trắng” xuất hiện khi giơ cao chân lên hoặc khi cử động bàn chân.
Thể không điển hình cần chẩn đoán phân biệt với Goutle (đau về đêm), giãn tĩnh mạch sâu, đau thần kinh hông to.
- Giai đoạn rối loạn dinh dưỡng: Đau liên tục đầu chi, thiếu máu thường xuyên, đau kéo dài dai dẳng, đau tăng về đêm và tăng khi giơ chân lên cao, đau giảm phần nào khi hạ chân xuống, ngủ thường thiếp đi từng lúc (trong tư thế ngồi, tay ôm chân), rối loạn tâm tính, da khô, móng dày vẹo 1 bên, dưới móng thường có viêm mủ, đầu ngón xuất hiện các nốt loét nhỏ ướt và đau.
- Giai đoạn hoại tử hay hoại thư: đau không đi lại được, luôn ngồi, tay luôn giữ lấy bàn chân bị bệnh, các ngón xuất hiện loét có hoại tử, phù. Da tím lan lên cả bàn chân và mu chân, có khi xuất hiện đám hoại tử màu đen; XQ thấy xốp các xương bàn chân.
Không sờ thấy mạch và không ghi được giao động mạch đồ của mạch ở bàn chân. Toàn thân suy sụp xanh gầy, sốt nhẹ37,5 – 38oC. Hoại tử khô chuyển thành hoại tử ướt, hôi thối, bội nhiễm , nhiễm độc. Nếu không điều trị phẫu thuật thì nguy cơ tử vong do nhiễm trùng nhiễm độc.
+ Cần chẩn đoán phân biệt với:
- Hoại thư do đái tháo đường.
- Hoại thư do xơ mạch (rối loạn chuyển hóa lipit và can xi).
- Đau trong bệnh Rây - nô (Raynaud).
+Y học hiện đại thường chú ý đến 3 dấu hiệu sắp có hoại thư của L.Buerger - 1908:
- Thiếu máu khi nâng chi lên cao.
- Góc thiểu năng tuần hoàn tái nhợt hoặc tím.
- Dấu hiệu ép ngón cái.
Về tiên lượng bệnh hiện nay rất khó khăn.
Tái phát có tính chất chu kỳ, rối loạn kịch phát cuối cùng trở thành một bệnh không thể chữa khỏi phải phẫu thuật triệt để và chấp nhận tàn phế. Ở giai đoạn 1 và 2 thường dùng các loại thuốc chống co thắt mạch acetylcholin, papaverin hoặc novocain dung dịch 1% truyền động mạch mỗi lần 10 ml ngày 1 - 2 lần , sau 15 - 20 lần đau thường mất.
Ngoại khoa: phương pháp tác động thần kinh giao cảm, cắt bỏ màng thần kinh giao cảm quanh vỏ động mạch, cắt hạch thần kinh giao cảm liên quan đến giao cảm quanh động mạch hoặc cắt hẳn động mạch. Phục hồi hoàn toàn cho vùng bị tắc.
1.3. Nguyên nhân bệnh lý theo Y học dân Cổ truyền.
+ Do khí - huyết vận hành không lưu thông, kinh lạc bị trở tắc làm cho khí – huyết và doanh vệ không điều hoà; tổn thương khí - huyết thận khí suy giảm; nhiễm lạnh thấp kéo dài hoặc dùng thuốc độc kéo dài; uống rượu quá nhiều...
+ Đặc điểm của bệnh qua 3 thời kỳ:
- Thời kỳ đầu do doanh vệ khí - huyết trở tắc không điều hoà, khí - huyết không được lưu thông. Người bệnh thường thấy đầu chi giá lạnh rồi chuyển sang tê nhức, buốt không ngừng.
- Thời kỳ 2 gây khí trệ huyết ứ, kinh mạch bị tắc trở, đầu chi thường xanh tím hoặc hồng tím hoặc đen thẫm, đau đớn dữ dội như kim châm hoặc như dao cứa da thịt và cuối cùng là hoại tử, loét nát lộ xương, hôi thối .
- Thời kỳ sau hàn uất hóa nhiệt thành nhiệt độc, lộ xương nhiều, đầu chi đứt rụng.
1.4. Biện chứng luận trị.
Trên lâm sàng, chủ yếu phải phân định rõ ràng, chính xác trạng thái cơ thể hàn hay nhiệt , hư hay thực.
Trị trong phải nhấn mạnh thông kinh hoạt lạc, hoạt huyết khư ứ, thường dùng “tứ diệu dũng an thang gia vị”. Nếu dương hư có hàn thì phải ôn kinh tán hàn; nếu nhiệt độc tích thịnh phải thanh nhiệt - giải độc; nếu hư chứng thì phải bổ hư. Điều quan trọng là khi dùng thuốc bệnh có chuyển biến chậm phải cho liều cao hơn và liên tục không được gián đoạn. Ngoài ra, phải phối hợp châm cứu hoặc thủy châm, dụng dược chính xác mới ngăn chặn được bệnh và chống được tái phát (bệnh có đặc điểm hay tái phát - tái phát tuyệt vọng , Buergr, 1908).
Khi bệnh có chuyển biến tốt thì vấn đề cơ bản là điều trị củng cố, phải căn cứ vào tình trạng hư hay thực của tạng phủ để ưu tiên bổ huyết, kiện tỳ hay bổ thận ích tinh (khi bị bệnh thường là nam giới và khả năng sinh dục giảm). Sử dụng thuốc phải tinh, phải giải quyết tốt giữa liều lượng thuốc và khối lượng thuốc, cần phải có kết hợp chế hoàn chế tễ; chú ý đề phòng tái phát mà chủ yếu là chống tác nhân lạnh kéo dài. Kinh nghiệm lâm sàng khi bệnh nhân mới tái phát phải dùng thuốc sớm và tích cực tạo được mạng lưới tuần hoàn tân tạo thì bệnh mới có tiên lượng tốt.
2. Lâm sàng và thể bệnh theo YHCT:
2.1. Thể hư hàn. Thân thể gầy gò, sắc mặt trắng nhợt, thích ấm sợ lạnh; chi bệnh tê mỏi , gặp lạnh thì đau, da khô nhợt, sờ vào thấy lạnh. Đi lại vận động hạn chế do đau. Đại tiện lỏng nát, tiểu tiện trong dài. Rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhợt, mạch trầm trì vô lực
- Phương pháp điều trị: thông kinh tán hàn hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc: “quế phụ đào hồng tứ vật thang” gia giảm.
Chế phụ tử 12g Hoàng hoa 16g
Đào nhân 12g Đan sâm 40g
Xích thược 20g Quế chi 20g
Đương qui 30g Ngưu tất 16g
Bạch giới tử 8g Tang ký sinh 30g
Sinh hoàng kỳ 40g Xuyên luyện tử 20g.
Bào khương 8g
Sắc uống ngày 1 thang.
2.2.Thể khí trệ huyết ứ.
Sắc mặt thường u ám đau khổ, da khô trắng nhợt khi giơ chi lên cao và tím tía khi thõng chân xuống, chi lạnh teo nhẽo. Chất lưỡi hồng hoặc xám tía, không có rêu hoặc có rêu trắng mỏng nhợt, mạch trầm huyền hoặc huyền tế.
- Pháp điều trị: hoạt huyết khư ứ hành khí giải uất.
- Bài thuốc: “tứ diệu dũng an thang” gia giảm.
Xích thược 20g Đào nhân 12g
Chỉ xác 12g Cam thảo 15g
Ngưu tất 20g Đan bì 12g
Binh lang 12g Kim ngân hoa 20g
Qua lâu nhân 32g Đan sâm 20g.
Huyền sâm 20g
Nếu thấy bệnh chuyển biến chậm thì dùng “thông mạch hoạt huyết thang” gia giảm.
Đương qui 16g Huyền sâm 20g
Kim ngân hoa 30g Sinh địa hoàng 16g
Hoàng kỳ 16g Đan sâm 20g
Nhũ hương 12g Diên hồ sách 12g
Cam thảo 12g Bồ công anh 20g
Hoàng bá 12g Một dược 12g.
Tử hoa địa đinh 20g.
2.3. Nhiệt độc nội kết (nội uẩn).
Sắc mặt ủ rũ không tươi nhuận, tinh thần trầm mặc uất ức không thư thái; đầu choáng tai ù, đau tăng khi cử động; da đen hoặc tím tái, xung quanh chỗ loét hoại tử phù nề lan toả, mùi hôi thối, chủ yếu là hoại tử ướt có dịch thấm ra, chỗ bội nhiễm mủ nhiều. Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng nhờn; mạch hoạt sác hoặc huyền sác, hay sốt nhẹ về chiều 37,5 - 380.
- Phương pháp điều trị: thanh nhiệt giải độc - hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc: “tứ diệu dũng an thang” gia thêm:
Đan sâm 40g Địa long 24g
Một dược 12g Xích thược 32g
Nhũ hương 12g Ngưu tất 20g.
Thổ miết trùng 16g
2.4. Thể khí - huyết lưỡng hư.
Vẻ mặt (dung nhan) tiều tụy, chi thể gầy gò, vô lực, hoạt động hay vã mồ hôi. Tại chỗ đau sót hơn hoặc không đau nhưng có teo, da khô loét lâu liền, hôi thối, nhiễm giả mạc, xung quanh phù nề, da lạnh giá. Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu trắng mỏng nhờn; mạch trầm , tế, vô lực.
- Pháp điều trị: bổ khí dưỡng huyết hoạt huyết thông lạc.
- Bài thuốc cổ phương: “cố bộ thang”.
Cát lâm sâm 8 - 12g Kim ngân hoa 40g
Đương qui 24g Thạch hộc 16g
Hoàng kỳ 32g Ngưu tất 12g.
Có thể dùng thêm “bát trân thang”, “thập toàn đại bổ thang” hoặc “bổ dương hoàn ngũ tạng” gia giảm. Tác dụng bổ khí hoạt huyết sinh huyết khứ ứ thông lạc.
Sinh hoàng kỳ 40 - 160g Đương qui vĩ 8g
Xích thược 6g Địa long 4g
Xuyên khung 4g Đào nhân 4g.
Hồng hoa 4g
Các thể bệnh trên đều có thể dùng thêm “tứ trùng hoàn”: toàn yết, ngô công, địa long, thổ miết trùng. Tất cả cho vào tán bột làm viên hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4g. Tác dụng giải độc trấn kinh, hoạt huyết hóa ứ thông lạc chỉ thống.
3. Thuốc nghiệm phương:
+ Nghiệm phương:
Mao động thanh (Ilexrotunda thumb), câu tất mỗi thứ đều 3 - 5 lượng, gia thêm: trư cước, hoặc trư cốt 1 cái lượng thích hợp. Tất cả cho vào ninh sắc cùng khi nhừ thì chắt lấy nước uống mỗi ngày 1 thang.
+ Bạch hoa xà bỏ nội tạng 1 con, thiềm thừ 1 con, kim ngân hoa 120g, ngưu tất 80g, rượu trắng 650 3 thăng. Trưng cách thủy 1- 1,5h mỗi lần uống 50 - 100ml ngày uống 1 lần.
- Chú ý:
Có thể dùng ngũ bội xà bỏ nội tạng sấy khô, tán bột thay cho bạch hoa xà.
Thiềm tô rất độc nên trước khi dùng phải chế thành thiềm thừ. Không nắm vững cách chế thiềm tô thành thiềm thừ thì không dùng được.
+ “Tang tử ôn kinh thang” chỉ định ở giai đoạn đầu.
Độc hoạt 12g Đương qui 40g
Đan sâm 40g Chế phụ tử 12g
Một dược 12g Đào nhân 8g
Hồng hoa 8g Xuyên sơn giáp 12g
Nhục quế 12g Ngô công 8g
Địa long 12g Cam thảo 8g
Ngưu tất 24g Nhũ hương 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
+ Hoàn nghiệm phương:
Chế phụ tử 20 - 40g Phục linh 40g
Bạch thược 40g Đẳng sâm 40g
Hoàng kỳ 120g Sinh khương 40g
Can khương 40g Quế chi 40g.
Cam thảo 40g
Tất cả tán bột chế thành viên hoàn, ngày uống 10 - 12g chia 3 lần.
Thuốc nghiệm phương tham khảo chú ý bài thuốc có hắc phụ tử là thuốc có độc không nắm vững không được dùng.
4. Một số thuốc bôi ngoài:
+ Cao sinh cơ.Duyên đơn 2,5g, long não 2,5g , H2CO3 30ml. Tất cả chế thành dạng thuốc nước bôi ngoài. Bài thuốc có độc nên diện tích bôi hẹp; nên bôi nhiều lần, mỗi lần không quá 1 ngón chân, khi đỡ mới bôi sang ngón chân khác.
+ Sinh cơ chỉ thống.
Đương qui 16g Bạch chỉ 12g
Một dược 12g Nhũ hương 8g
Hồng hoa 8g Sinh địa 20g
Ma hoàng 8g Dầu vừng 0,5 lít.
Bôi ngày 1 lần.
+ Cao đởm thiềm.Trư đởm (mật lợn) 10 cái Bột hoàng bá 8g
Thanh đại 8g Mật ong 8g
Khinh phấn 2g Thiềm tô 2g.
Tất cả tán bột. Riêng mật lợn chỉ lấy 1/2 lượng dịch (chỉ lấy 1/2 dịch trong túi mật) cho 1/3 bột này vào trộn đều, sau đó bột còn lại cho mật ong vừa đủ để bôi ngày 1 lần.
+ Châm cứu giảm đau.
Thường chỉ định các huyệt vùng gốc chi, tránh châm ở ngọn chi nơi các động mạch nuôi dưỡng đã bị tắc gây đau đớn và dễ bị bội nhiễm.
Thiếu máu huyết tán miễn dịch
1. Đại cương:
1.1. Theo quan niệm của YHHĐ.
Thiếu máu huyết tán miễn dịch là hiện tượng giảm ngắn đời sống hồng cầu do bị biến dạng hoặc tổn thương. Dù cho nguyên nhân bẩm sinh hay mắc phải, bệnh thiếu máu huyết tán đều có một số triệu chứng lâm sàng chủ yếu: sắc mặt trắng bệch , mệt mỏi, ăn kém, phát sốt không có qui luật, thắt lưng đau mỏi, vàng da và đái máu rõ rệt, thường gặp ở tuổi thanh thiếu niên, cả nam và nữ đều có thể mắc bệnh.
Đặc điểm quá trình phát bệnh từ từ, kéo dài và hay tái phát.
Nguyên nhân chính là rối loạn miễn dịch của cơ thể. Cơ thể sản sinh kháng thể kháng hồng cầu làm cho hồng cầu bị phá vỡ, dẫn đến thiếu máu huyết tán. Bản chất bệnh do phản ứng nhiệt kháng thể hoặc hoà kháng thể mà dẫn đến, cũng có thể do thứ phát sau viêm nhiễm, hệ thống limpho ác tính tăng sinh, hoặc phản ứng quá mẫn do thuốc (dược vật quá mẫn), bệnh tổ chức liên kết.Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và nguyên nhân phát bệnh, người ta chia 2 thể:
- Thiếu máu huyết tán nguyên phát.
- Thiếu máu huyết tán thứ phát.
1.2. Theo quan niệm của Y học Cổ truyền.YHCT cho rằng, bệnh phát sinh có quan hệ mật thiết với tỳ, thận; được mô tả trong phạm trù: hoàng đản, nuy hoàng và hư lao.
Nguyên nhân chủ yếu là tiên thiên bất túc lại phục cảm thấp nhiệt (thấp nhiệt có phục tà, có tân cảm), ngoại tà hoặc do tỳ vị hư tổn thấp trọc nội sinh, uất mà hóa ứ, thấp nhiệt uẩn trưng dẫn đến thương khí bại huyết. Bệnh lâu ngày sẽ làm khí trệ huyết ứ ảnh hưởng đến chức năng tạng phủ và dẫn đến hoàng đản thiếu máu.
1.3. Triệu chứng lâm sàng.
1.3.1. Cơn huyết tán cấp tính:
- Thiếu máu đột nhiên tăng lên, sốt cao, đau bụng, vàng da tăng lên rõ rệt, lách to hơn.
- Xét nghiệm huyết đồ: số lượng hồng cầu giảm, nhiều hồng cầu non trong máu ngoại vi, hồng cầu lưới tăng cao.
- Huyết sắc tố niệu tăng cao, có thể gây suy thận cấp, đau ngang thắt lưng, nước tiểu màu đen sẫm.
- Hapto - globulin giảm (bình thường hapto – globulin 10 – 128mg/lít).
- Tìm methé - albumin trong máu là một xét nghiệm có giá trị chẩn đoán.
1.3.2. Các triệu chứng khác. Tất cả các trường hợp đều có vàng da, gan và lách thường to, mức độ lách to không giống nhau, rất ít khi lỗ rốn phẳng; có thể thấy tim to nghe có tiếng bệnh lý, đa số bệnh nhân có nốt xuất huyết tím dưới da.
1.3.3. Xét nghiệm kiểm tra.
+ Các triệu chứng do tiêu huỷ hồng cầu quá mức:
- Bilirubin gián tiếp tăng, stercobilirubin ở phân tăng.
- urobilin nước tiểu tăng.
- Sắt huyết thanh tăng.
+ Triệu chứng xét nghiệm do tái tạo tuỷ xương:- Hồng cầu lưới, hồng cầu non và hồng cầu đa sắc đều xuất hiện; có thể có bạch cầu và tiểu cầu tăng; cá biệt thấy giảm bạch cầu và tiểu cầu do bị huỷ hoại quá mức trong lách.
- Kháng thể kháng nhân (+).
2. Biện chứng luận trị:
2.1. Thấp nhiệt nội uẩn: Hoàng đản xuất hiện nhanh hoặc phát sốt, miệng khát không muốn uống, nôn hoặc nôn khan, đau lưng quản bĩ phúc chướng, tiện bế hoặc đình trệ, tiểu tiện ngắn, nước tiểu vàng đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.
- Pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp, kiện tỳ, thoái hoàng.
- Phương thuốc: “nhân trần ngũ linh tán” gia giảm.
Nhân trần 20g Phục linh 15g
Trạch tả 10g Bạch truật 10g
Đại hoàng 10g Liên kiều 10g
Đan sâm 15g
- Gia giảm:
. Da và mắt vàng tối chuyển sang vàng xám thì dùng “nhân trần tứ nghịch thang” gia giảm.
Nhân trần 15g Can khương 10g
Chế phụ phiến 10g Đẳng sâm 15g Hoàng kỳ 15g Bạch truật 10g.
Cam thảo 6g
. Nôn mửa nhiều thì gia thêm: trúc nhự 10g, hoàng liên 5g.
. Nhiệt thịnh miệng khát thì gia thêm: lô căn 20g, thạch hộc 20g.
2.2. Khí - huyết lưỡng hư: Đầu choáng, mắt hoa, khí đoản, phạp lực, diện sắc bất hoa, tâm quí, tự hãn, loạn ngôn, thần quyện (mệt mỏi); lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng; mạch tế nhược.
- Phương trị: bổ ích khí - huyết, tư bổ tâm - tỳ.
- Phương thuốc: “qui tỳ thang” gia giảm.
Đẳng sâm 10g Hoàng kỳ 15g
Bạch truật 10g Đương qui 10g
Phục linh 10g Thục địa 15g
Sa nhân 3g Kỷ tử 10g
A giao 10 Cam thảo 6g.
- Gia giảm:
. Nếu ăn kém, bụng chướng; đại tiện lỏng nát thì bỏ đi: thục địa, a giao; gia thêm: mộc hương 10g, trần bì 10g, bào khương 10g.
. Nếu xuất huyết thì gia thêm: tiên cước thảo 15g, quỉ hoa 10g.
. Nếu có hoàng đản thì gia thêm: nhân trần 15g, trạch tả 10g.
2.3. Tỳ thận lưỡng hư: Đầu choáng, tai ù; lưng đau mỏi; ăn kém, quản tức, hình hàn chi lạnh, đại tiện lỏng nát; lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng; mạch tế nhược.
- Phương trị: ôn bổ tỳ thận, ích khí dưỡng huyết.
- Phương thuốc: “hữu qui hoàn” gia giảm.
Đẳng sâm 15g Hoàng kỳ 15g
Đương qui 10g Thục địa 15g
Lộc giác phiến 15g Bổ cốt chỉ 10g
Ba kích thiên 10g Tiên linh tỳ 10g .
Thỏ ty tử 10g
- Gia giảm:
. Nếu dương hư nặng, chi lạnh rõ thì gia thêm: phụ tử 10g, nhục quế 10g.
. Nếu xuất huyết thì gia thêm: bào khương thán, tiên cước thảo, long cốt thiêu, mẫu lệ mỗi thứ đều 15g.
. Nếu nhiệt độ thấp, gò má đỏ, tâm phiền; lòng bàn tay , bàn chân ấm, tự hãn, chỉ giáp khô sáp thì dùng “lục vị địa hoàng thang” gia giảm:
Thục địa 15g Hoài sơn dược 10g
Sơn thù nhục 10g Câu kỷ tử 10g
Đan bì 10g Trạch tả 10g
Phục linh 15g Hoàng kỳ 15g.
2.4. Khí trệ huyết ứ: Da và niêm mạc mắt vàng, hơi xám, khô sắc; hạ sườn bĩ chói, bụng chướng đầy; gầy gò, ăn kém, sau khi ăn dễ nôn; đại tiện trắng xám, tiểu tiện ngắn vàng, hoặc bì phu ban ứ nục huyết, sắc môi xám tím, lưỡi có ban điểm ứ, rêu vàng; mạch tế sáp.
- Phương trị: hoạt huyết hóa ứ - lý khí thoái hoàng.
- Phương thuốc: “huyết phụ ứ thang” gia giảm.
Sài hồ 10g Chỉ xác 10g
Qui 10g Xích thược 10g
Xuyên khung 10g Đào nhân 10g
Hồng hoa 10g Hương phụ 10g
Nga truật 10g Miết giáp 15g.
- Gia giảm:
Nếu hạ sườn có hòn khối thì dùng “miết giáp tiễn hoàn”, “hóa ứ hồi sinh đan”.
Nếu xuất huyết thì gia thêm: tiên cước thảo 15g, sinh địa 10g, tây thảo 10g.
2.5. Lâm sàng tinh hoa.
- Có hai báo cáo của Khương Kỳ, Khương Mai trong tạp chí Trung - Tây y kết hợp (Thượng Hải , 1987) và của Diên Kỳ, Điền Ngọc Cát trong tạp chí Trung - tây y kết hợp (Thiên Tân, 1995) . Cả hai báo cáo trên , các tác giả đều chỉ định truyền huyết thanh miễn dịch, kết hợp truyền các chế phẩm dạng tiêm của thuốc thảo mộc (nhưng không ghi rõ bài thuốc và vị thuốc).
1.1. Theo quan niệm của YHHĐ.
Thiếu máu huyết tán miễn dịch là hiện tượng giảm ngắn đời sống hồng cầu do bị biến dạng hoặc tổn thương. Dù cho nguyên nhân bẩm sinh hay mắc phải, bệnh thiếu máu huyết tán đều có một số triệu chứng lâm sàng chủ yếu: sắc mặt trắng bệch , mệt mỏi, ăn kém, phát sốt không có qui luật, thắt lưng đau mỏi, vàng da và đái máu rõ rệt, thường gặp ở tuổi thanh thiếu niên, cả nam và nữ đều có thể mắc bệnh.
Đặc điểm quá trình phát bệnh từ từ, kéo dài và hay tái phát.
Nguyên nhân chính là rối loạn miễn dịch của cơ thể. Cơ thể sản sinh kháng thể kháng hồng cầu làm cho hồng cầu bị phá vỡ, dẫn đến thiếu máu huyết tán. Bản chất bệnh do phản ứng nhiệt kháng thể hoặc hoà kháng thể mà dẫn đến, cũng có thể do thứ phát sau viêm nhiễm, hệ thống limpho ác tính tăng sinh, hoặc phản ứng quá mẫn do thuốc (dược vật quá mẫn), bệnh tổ chức liên kết.Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và nguyên nhân phát bệnh, người ta chia 2 thể:
- Thiếu máu huyết tán nguyên phát.
- Thiếu máu huyết tán thứ phát.
1.2. Theo quan niệm của Y học Cổ truyền.YHCT cho rằng, bệnh phát sinh có quan hệ mật thiết với tỳ, thận; được mô tả trong phạm trù: hoàng đản, nuy hoàng và hư lao.
Nguyên nhân chủ yếu là tiên thiên bất túc lại phục cảm thấp nhiệt (thấp nhiệt có phục tà, có tân cảm), ngoại tà hoặc do tỳ vị hư tổn thấp trọc nội sinh, uất mà hóa ứ, thấp nhiệt uẩn trưng dẫn đến thương khí bại huyết. Bệnh lâu ngày sẽ làm khí trệ huyết ứ ảnh hưởng đến chức năng tạng phủ và dẫn đến hoàng đản thiếu máu.
1.3. Triệu chứng lâm sàng.
1.3.1. Cơn huyết tán cấp tính:
- Thiếu máu đột nhiên tăng lên, sốt cao, đau bụng, vàng da tăng lên rõ rệt, lách to hơn.
- Xét nghiệm huyết đồ: số lượng hồng cầu giảm, nhiều hồng cầu non trong máu ngoại vi, hồng cầu lưới tăng cao.
- Huyết sắc tố niệu tăng cao, có thể gây suy thận cấp, đau ngang thắt lưng, nước tiểu màu đen sẫm.
- Hapto - globulin giảm (bình thường hapto – globulin 10 – 128mg/lít).
- Tìm methé - albumin trong máu là một xét nghiệm có giá trị chẩn đoán.
1.3.2. Các triệu chứng khác. Tất cả các trường hợp đều có vàng da, gan và lách thường to, mức độ lách to không giống nhau, rất ít khi lỗ rốn phẳng; có thể thấy tim to nghe có tiếng bệnh lý, đa số bệnh nhân có nốt xuất huyết tím dưới da.
1.3.3. Xét nghiệm kiểm tra.
+ Các triệu chứng do tiêu huỷ hồng cầu quá mức:
- Bilirubin gián tiếp tăng, stercobilirubin ở phân tăng.
- urobilin nước tiểu tăng.
- Sắt huyết thanh tăng.
+ Triệu chứng xét nghiệm do tái tạo tuỷ xương:- Hồng cầu lưới, hồng cầu non và hồng cầu đa sắc đều xuất hiện; có thể có bạch cầu và tiểu cầu tăng; cá biệt thấy giảm bạch cầu và tiểu cầu do bị huỷ hoại quá mức trong lách.
- Kháng thể kháng nhân (+).
2. Biện chứng luận trị:
2.1. Thấp nhiệt nội uẩn: Hoàng đản xuất hiện nhanh hoặc phát sốt, miệng khát không muốn uống, nôn hoặc nôn khan, đau lưng quản bĩ phúc chướng, tiện bế hoặc đình trệ, tiểu tiện ngắn, nước tiểu vàng đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.
- Pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp, kiện tỳ, thoái hoàng.
- Phương thuốc: “nhân trần ngũ linh tán” gia giảm.
Nhân trần 20g Phục linh 15g
Trạch tả 10g Bạch truật 10g
Đại hoàng 10g Liên kiều 10g
Đan sâm 15g
- Gia giảm:
. Da và mắt vàng tối chuyển sang vàng xám thì dùng “nhân trần tứ nghịch thang” gia giảm.
Nhân trần 15g Can khương 10g
Chế phụ phiến 10g Đẳng sâm 15g Hoàng kỳ 15g Bạch truật 10g.
Cam thảo 6g
. Nôn mửa nhiều thì gia thêm: trúc nhự 10g, hoàng liên 5g.
. Nhiệt thịnh miệng khát thì gia thêm: lô căn 20g, thạch hộc 20g.
2.2. Khí - huyết lưỡng hư: Đầu choáng, mắt hoa, khí đoản, phạp lực, diện sắc bất hoa, tâm quí, tự hãn, loạn ngôn, thần quyện (mệt mỏi); lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng; mạch tế nhược.
- Phương trị: bổ ích khí - huyết, tư bổ tâm - tỳ.
- Phương thuốc: “qui tỳ thang” gia giảm.
Đẳng sâm 10g Hoàng kỳ 15g
Bạch truật 10g Đương qui 10g
Phục linh 10g Thục địa 15g
Sa nhân 3g Kỷ tử 10g
A giao 10 Cam thảo 6g.
- Gia giảm:
. Nếu ăn kém, bụng chướng; đại tiện lỏng nát thì bỏ đi: thục địa, a giao; gia thêm: mộc hương 10g, trần bì 10g, bào khương 10g.
. Nếu xuất huyết thì gia thêm: tiên cước thảo 15g, quỉ hoa 10g.
. Nếu có hoàng đản thì gia thêm: nhân trần 15g, trạch tả 10g.
2.3. Tỳ thận lưỡng hư: Đầu choáng, tai ù; lưng đau mỏi; ăn kém, quản tức, hình hàn chi lạnh, đại tiện lỏng nát; lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng; mạch tế nhược.
- Phương trị: ôn bổ tỳ thận, ích khí dưỡng huyết.
- Phương thuốc: “hữu qui hoàn” gia giảm.
Đẳng sâm 15g Hoàng kỳ 15g
Đương qui 10g Thục địa 15g
Lộc giác phiến 15g Bổ cốt chỉ 10g
Ba kích thiên 10g Tiên linh tỳ 10g .
Thỏ ty tử 10g
- Gia giảm:
. Nếu dương hư nặng, chi lạnh rõ thì gia thêm: phụ tử 10g, nhục quế 10g.
. Nếu xuất huyết thì gia thêm: bào khương thán, tiên cước thảo, long cốt thiêu, mẫu lệ mỗi thứ đều 15g.
. Nếu nhiệt độ thấp, gò má đỏ, tâm phiền; lòng bàn tay , bàn chân ấm, tự hãn, chỉ giáp khô sáp thì dùng “lục vị địa hoàng thang” gia giảm:
Thục địa 15g Hoài sơn dược 10g
Sơn thù nhục 10g Câu kỷ tử 10g
Đan bì 10g Trạch tả 10g
Phục linh 15g Hoàng kỳ 15g.
2.4. Khí trệ huyết ứ: Da và niêm mạc mắt vàng, hơi xám, khô sắc; hạ sườn bĩ chói, bụng chướng đầy; gầy gò, ăn kém, sau khi ăn dễ nôn; đại tiện trắng xám, tiểu tiện ngắn vàng, hoặc bì phu ban ứ nục huyết, sắc môi xám tím, lưỡi có ban điểm ứ, rêu vàng; mạch tế sáp.
- Phương trị: hoạt huyết hóa ứ - lý khí thoái hoàng.
- Phương thuốc: “huyết phụ ứ thang” gia giảm.
Sài hồ 10g Chỉ xác 10g
Qui 10g Xích thược 10g
Xuyên khung 10g Đào nhân 10g
Hồng hoa 10g Hương phụ 10g
Nga truật 10g Miết giáp 15g.
- Gia giảm:
Nếu hạ sườn có hòn khối thì dùng “miết giáp tiễn hoàn”, “hóa ứ hồi sinh đan”.
Nếu xuất huyết thì gia thêm: tiên cước thảo 15g, sinh địa 10g, tây thảo 10g.
2.5. Lâm sàng tinh hoa.
- Có hai báo cáo của Khương Kỳ, Khương Mai trong tạp chí Trung - Tây y kết hợp (Thượng Hải , 1987) và của Diên Kỳ, Điền Ngọc Cát trong tạp chí Trung - tây y kết hợp (Thiên Tân, 1995) . Cả hai báo cáo trên , các tác giả đều chỉ định truyền huyết thanh miễn dịch, kết hợp truyền các chế phẩm dạng tiêm của thuốc thảo mộc (nhưng không ghi rõ bài thuốc và vị thuốc).
Chứng công năng giáp trạng tuyến khang tiến bệnh GRAVES - BASEDOW
Chứng công năng giáp trạng tuyến khang tiến (bệnh GRAVES - BASEDOW)
1. Đại cương:1.1. Theo quan niệm của YHHĐ:
Chứng công năng giáp trạng khang tiến là bệnh lý cường giáp trạng.Triệu chứng chủ yếu là: tuyến giáp tăng cường chức năng gây nhiễm độc nội tiết tố giáp trạng, lồi mắt, run tay và các dấu hiệu đặc biệt về da.
Trước đây, người ta cho rằng: do rối loạn trục trung não dưới đồi tuyến yên và giáp trạng. Hậu quả là cường tiết TSH, cường tiết thyroxin. Nhân tố khởi phát thường là căng thẳng (stress). Ngày nay, nhờ phương pháp radio - immuno để định lượng TSH trong các giai đoạn hoạt động của bệnh, người ta không thấy TSH tăng. Trong huyết thanh người bị bệnh Basedow, chất kích thích giáp trạng thường xuyên thấy. Đó là chất LATS (long acting thyroid stimulator). Bản chất của LATS là một globulin, là một yếu tố bất thường không chịu kiểm soát của tuyến yên và hạ não. Người ta đã phân lập được trong huyết thanh người bị Basedow loại IgG- chất này được gọi là globulin kích giáp trạng (thyroid stimulating immuno globulin - TSI). Quan niệm của YHHĐ cho rằng: bệnh Basedow có liên quan đến bệnh tự miễn. Bệnh Basedow khác với bướu lành tính tuyến giáp bởi 2 tác dụng khác nhau của TSH. Trong bướu chỉ thấy loại kích thích tăng trưởng tế bào, không thấy loại tác dụng tăng tổng hợp hormon giáp trạng.
1.2. Chẩn đoán xác định.
Dựa vào các hội chứng:
- Hội chứng cường chức năng giáp trạng trên cơ sở một bướu giáp lan toả, các xét nghiệm chứng tỏ cường giáp, (xác định độ tập trung I 131).
- Hội chứng mắt: lồi mắt cả 2 bên, bên có bướu lồi nhiều hơn (xác định độ lồi mắt bằng thước đo độ lồi của Hertel).
- T3, T4 tăng; ISI tăng, TSH giảm có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán sớm cường năng giáp trạng - Basedow.
1.3. Theo Y học Cổ truyền.Thường dựa vào triệu chứng lâm sàng, Y học cổ truyền qui về các phạm trù “trung tiêu, can uất, can hoả”. Bệnh liên quan chủ yếu đến nhân tố tình chí và thể chất. Tình chí căng thẳng, uất ức kéo dài, dẫn đến can khí uất kết, can uất tắc khí trệ. Khí trệ nên tân dịch không vận hành được mà ngưng kết thành đàm, hoặc khí uất lâu ngày hóa hoả, hoả trưng tân thành đàm; hoặc bản âm hư, âm hư hoả vượng, luyện dịch thành đàm ngưng, tụ kết ở trước cổ, khí - huyết vận hành không thông, huyết mạch ứ trở mà thành khí uất, đàm ngưng, huyết ứ, can uất hóa hoả đều có thể tổn thương phần âm của tâm can, hư hoả thượng long tâm thần. Tất cả các nguyên nhân trên có thể gây tâm thần bất định (hốt hoảng), can hoả phạm vị, vị âm bị can thành chứng hậu vị nhiệt tiểu cốc, can hoả phạm vị, tỳ mất kiện vận, can âm bất túc, hạ thấp thận âm, can thận âm hư, thủy bất dưỡng mộc, xuất hiện dương cang phong động. Nếu như thế chắc người bệnh sẵn có âm hư; sau đẻ khí âm đều hao, hoặc thời kỳ phát dục bổ nhũ dễ hao thương âm huyết. Vì vậy, bệnh hay gặp ở tuổi trẻ, ở nữ thanh niên nhiều hơn nam. Mặt khác, âm hư lâu ngày, âm tổn cập dương thành âm - dương lưỡng hư.
Tóm lại, bệnh trong thời kỳ đầu chủ yếu biểu hiện khí uất, can hoả đàm ngưng, huyết ứ đều thuộc thực chứng.
Thời kỳ giữa xuất hiện chứng trạng hư thực thác tạp.
Thời kỳ cuối thường lụy cập đến can thận, tâm tỳ, biểu hiện hư chứng là chính.
2. biện chứng phương trị:
2.1. Thể khí uất, đàm ngưng.
Cổ to lan rộng, uất ức, hay cáu gắt, giận dữ, ngực bĩ khí đoản, phiền táo thất miên, ăn uống giảm, nôn khan hay buồn nôn, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền hoặc huyền hoạt. Thường gặp thể này trong thời kỳ đầu của bệnh.
- Phương điều trị: lý khí giải uất- hóa đàm, tiêu u.
- Phương thuốc: tứ hải thư uất hoàn hoá.
Hải cảo 12g Hải đới 12g
Hải cáp phấn 12g Trần bì 10g
Uất kim 10g Hải phiêu tiêu 10g
Côn bố 10g
- Gia giảm:
Ngực tức, sườn đau thì gia thêm: sài hồ, uất kim, hương phụ đều 10g.
Buồn nôn hoặc nôn khan thì gia thêm: bán hạ, sinh khương đều 12g.
Bụng chướng, tiện lỏng thì gia thêm: hoài sơn 30g, biển đậu 10g.
Bướu giáp sưng to lan toả, tương đối chắc thì gia thêm: hoàng dược tử 10g.
2.2.Thể đàm ứ phối kết.
Vùng cổ xuất hiện nề, sưng to, thở vướng, khó nuốt, âm thanh trở ngại, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc trắng nhờn, mạch huyền hoặc sáp .
- Phương điều trị: lý khí - hoạt huyết - hóa ứ - tiêu u.
- Phương thuốc:
Hải cảo ngọc 10g Xuyên bối mẫu 10g
Côn bố 10g Xuyên khung 10g
Pháp bán hạ 10g Tam lăng 10g
Đương qui 10g Hải đới 10g
Trần bì 10g Nga truật 10g.
Thanh bì 10g
- Gia giảm:
. Nếu bướu to, xơ thì gia thêm: đào nhân, hồng hoa, bào giáp chân đều 10g.
. Thở khó gia thêm: toàn qua lâu, cát cánh 10g.
. Thanh âm trở ngại, gia thêm: mộc hồ diệp, xạ can đều 10g.
. Nuốt không lợi, gia thêm: đại xích thạch 20g, phương phức hoa 10g.
2.3. Thể can hoả phạm vị.
Bướu to, lồi mắt, mắt sáng không linh hoạt (bất lực các cơ vận nhãn), hình thể gầy gò, tính tình cáu gắt, dễ giận dữ, tiêu cốc phổ cơ, mặt đỏ bức nhiệt, đa hãn, tâm quí phiền táo, miệng khô, muốn uống, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền sác. Thể này gặp nhiều trên lâm sàng.
- Phương điều trị: thanh can tả vị, tán kết, tiêu bướu.
- Phương thuốc:
Sơn chi 10g Sài hồ 10g
Đan bì 10g Phục linh 10g
Xuyên khung 6g Bạch thược 15g
Đương qui 10g Cam thảo 5g
Ngưu bàng tử 10g Côn bố 10g
Thạch cao 30g Tri mẫu 10g.
- Gia giảm:
. Can hoả thiên vượng thì gia thêm: long đờm thảo 9g, hạ khô thảo 15g.
. Bệnh lâu thương âm, miệng đắng khô, lưỡi đỏ, ít tân thì gia thêm: sinh địa, huyền sâm, mạch đông đều 10g.
. Đa hãn thì gia thêm: sinh long cốt, sinh mẫu lệ đều 15g, ngũ vị tử 10g.
. Đại tiện táo kết thì gia thêm: sinh đại hoàng, toàn qua lâu đều 10g.
. Mất ngủ thì gia thêm: toan táo nhân 15, dạ giao đằng 10g.
2.4. Thể âm hư dương vượng.
Bướu sưng to hoặc nhỏ, đầu choáng mắt hoa, tâm quí, thất miên, tính tình cáu gắt, hư phiền đa mộng, nuốt vướng, gầy gò, đa hãn, mắt lồi, tay run, chất lưỡi hồng, giáng đỏ, rêu ít hoặc vàng mỏng; mạch tế sác hoặc kèm theo huyền.
- Phương điều trị: tư âm tiềm dương, tán kết - tiêu biếu.
- Phương thuốc: “thiên vương bổ tâm đan” gia giảm.
Thái tử sâm 15g Huyền sâm 10g
Đan sâm 15g Vân lịch 12g
Ngũ vị tử 10g Viễn trí 10g
Cát cánh 10g Qui thân 10g
Thiên đông 10g Mạch đông 10g
Bá tử nhân 10g Toan táo nhân 10g.
Sinh địa 15g
- Gia giảm:
Nếu âm hư nặng thì gia thêm: câu kỷ tử, hà thủ ô, qui bản đều 12g.
Nếu mắt lồi, tay run thì gia thêm: câu đằng sao 15g, bạch tật lê 10g, bạch thược 10g.
Nếu bướu lâu điều trị không mềm thì gia thêm: hạ khô thảo, hoàng dược tử, xuyên bối mẫu đều 10g.
2.5. Thể khí âm lưỡng hư.
Bướu thũng, tâm quí, khí đoản, gầy gò, mệt mỏi, phạp lực, đa hãn, ăn khó nuốt, phúc tả tiện nát (lỏng), rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế hoặc tế sác vô lực. Thể này hay gặp trên lâm sàng.
- Phương điều trị: ích khí - dưỡng âm, tán kết tiêu bướu.
- Phương thuốc: “sinh mạch tán” hợp “cao, thược long mẫu thang”.
Nhân sâm 10g Mạch môn 15g
Ngũ vị tử 10g Thạch cao 10g
Bạch thược 10g Long cốt 15g
Mẫu lệ 15g Bạch truật 10g .
Chích cam thảo 6g
- Gia giảm:
. Phúc tả tiện nát thì gia thêm: hoài sơn dược, ý dĩ nhân, biển đậu đều 15g.
. Khí đoản, phạp lực nặng thì gia thêm: hoàng kỳ 15g.
. Đa hãn thì gia thêm: phù tiểu mạch 10g.
2.6. Tỳ thận dương hư.
Bướu to mềm, xanh nhợt, tinh thần mệt mỏi, phạp lực, sợ lạnh, chi lạnh, ăn kém, bụng chướng, tiểu tiện nát, đầu choáng, mắt hoa, lưng gối đau mỏi, mặt phù, chân sưng, chất lưỡi nhợt bệu, rìa lưỡi có hằn răng, rêu trắng mỏng hoặc trắng nhờn, mạch trầm tế nhược hoặc trầm tư. Nhóm này tương đối hiếm gặp.
- Phương điều trị: ôn bổ tỳ thận – tán kết tiêu bướu.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” gia vị.
Phụ tử chế 10g Can khương 10g Nhục quế 6g Thỏ ty tử 15g Thục địa 15g Sơn thục địa 10g
Hoài sơn 10g Hoàng dược tử 15g Phục linh 10g Trạch tả 10g. Bạch truật 10g
- Gia giảm:
. Bụng chướng nặng thì gia thêm: mộc hương 10g, sa nhân sao 6g.
. Phù thũng nặng thì gia thêm: dâm dương hoắc, ba kích thiên đều 10g.
. Lưng gối đau mỏi thì gia thêm: tang ký sinh, đỗ trọng đều 10g.
. Cổ to thì gia thêm: triết bối mẫu 10g, đào nhân 10g, hồng hoa 10g.
3. Các phương pháp điều trị khác:
+ Châm cứu: - Nếu khí uất đàm trở thì châm huyệt: can du, phong trì, thủy đột, nội quan, túc tam lý là chính. Tuỳ chứng gia giảm, thường dùng tả pháp kích thích mạnh, lưu châm 30’.
- Nếu can hoả phạm vị thì châm huyệt: thái xung, thái khê, tam âm giao, túc tam lý, nội đình. Dùng tả pháp.
- Nếu âm hư hoả vượng thì châm huyệt: tâm du, can du, nội quan, tam âm giao, thái xung. Tuỳ chứng mà gia giảm: thận du, tam âm giao. Dùng bổ pháp ,tâm du, nội quan, can du, thái xung. Dùng tả pháp thời gian lưu châm khoảng 20 - 30 phút.
- Nếu khí âm lưỡng hư thì châm huyệt: nội quan, túc tam lý, quan nguyên, tam âm giao, phục lưu, chiếu hải. Bình bổ bình tả ,lưu châm 30’.
- Nếu tỳ thận dương hư thì châm huyệt: tỳ du, thận du, túc tam lý, thái khê, quan nguyên; dùng ôn châm (thủ pháp ôn bổ kích thích mạnh), lưu châm 30’ hoặc thêm cứu.
Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)
Tâm giao thống (xơ vữa động mạch vành)
1.Đại cương:
1.1. Định nghĩa.
Trung y mô tả những cơn đau đột nhiên xuất hiện trước tim và sau xương ức trong các chứng “tâm thống, tâm quí, hung tý...”. Đau ở ngực trái thường lan đến cổ, mặt trong cánh tay, có khi kèm theo tím tái, tứ chi quyết lạnh, mạch vi tế, thường gặp ở tuổi trên 40, nam nhiều hơn nữ.
1.2. Nguyên nhân bệnh lý.
Những người già cơ thể suy nhược hoặc do ăn nhiều chất béo hoặc do nội nhân (thất tình) mà dẫn đến.
Bản chất bệnh do tâm dương không đầy đủ, tâm dương bất túc, tỳ dương không kiện vận dẫn đến hàn ngưng huyết ứ, đàm trọc nội sinh. Đàm trọc huyết ứ bế trở tâm mạch dẫn đến huyết hành bị trở ngại ở phần trên ngực gây nên cơn đau kịch liệt vùng trước tâm. Nếu nặng thì khí - huyết không thông, xuất hiện tím tái, tứ chi quyết lạnh, mạch vi muốn tuyệt. Cũng có thể do tỳ dương không kiện vận dẫn đến tâm - dương bất túc. Mệnh môn hỏa suy hoặc do tâm huyết không đầy đủ mà dẫn đến. Trên lâm sàng thường do can thận âm hư.
Dựa trên lý luận “Âm dương hỗ căn, âm trưởng ở dương, dương trưởng ở âm, âm tổn cập dương, dương tổn cập âm”. Vì vậy, nếu bệnh nhân lâu ngày không được điều trị hoặc điều trị dự phòng kịp thời sẽ dẫn đến âm - dương đều hư, âm - dương không đầy đủ, khí - huyết ứ trở bên trong. Điều này có liên quan mật thiết với 3 tạng: tỳ, can, thận.
1.3. Biện chứng.
Bệnh hư thực thác tạp, triệu chứng có đàm trọc huyết ứ lại có âm - dương khí - huyết hư.
Trên thực tế lâm sàng là tiêu thực mà bản hư nên khi điều trị cần phải áp dụng nguyên tắc “cấp trị tiêu hoãn trị bản”. Khi phát bệnh thì nên hành khí hoạt huyết hoặc ôn hóa hàn đàm kết hợp củng cố tâm âm, tâm dương; như thế là coi trọng trị tiêu. Sau khi bệnh được cải thiện tốt, lấy bổ hư là chính kèm thêm thuốc trừ đàm thông ứ; như vậy là coi trọng trị bản.
2. Lâm sàng và thể bệnh:
2.1. Thể dương hư do trở tắc.
Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm, rêu trắng nhuận hoặc trơn, mạch trầm hoãn hoặc kết đại.
- Pháp điều trị: ôn dương thông lạc trừ đàm.
- Phương thuốc: “chỉ thực giới bạch quế chi thang” gia giảm.
Chỉ thực 12g Chế bán hạ 12g
Giới bạch 6g Toàn qua lâu 32g Sinh khương 8g Đẳng sâm 16g
Quế chi 16g Tế tân 4g . Đan sâm 16g
Nếu đau nặng thì thêm “tô hợp dương hoàn” 1 hoàn uống với nước ấm.
2.2. Khí trệ huyết ứ.
Ngực đau nhói từng cơn, đau lan lên vai và lưng, tức ngực khó thở, lưỡi xám tím, rìa lưỡi và đầu lưỡi có điểm ứ huyết; mạch trầm, sáp hoặc kết.
- Pháp điều trị: hành khí hoạt huyết, hóa ứ thông lạc.
- Phương thuốc: “trục ứ thang” gia giảm.
Xuyên khung 8g Đào nhân 12g
Sinh địa hoàng 16g Đương qui 12g
Xích thược 12g Quất hồng 12g
Hồng hoa 12g Chỉ xác 8g
Cát cánh 8g Tử hồ 4g .
Cam thảo 4g
Ngày 1 thang sắc uống chia 2 lần, có thể uống kèm “thất tiếu tán” ngày 2g hoặc bột tam thất ngày 9g (chia 3 lần).
2.3. Âm hư bế trở.
Khí uất tức ngực, cơn đau vùng tim nặng về đêm, đầu váng tai ù, miệng khô, mắt mỏi, ngủ không yên giấc, tư hãn (đạo hãn), lưng đau gối mỏi, tiểu tiện nhiều về đêm, chất lưỡi bệu hồng, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc không có rêu; mạch tế sác hoặc vi tế hoặc súc.
- Pháp chữa: tư âm thông lạc.
- Bài thuốc: “dưỡng âm thông tý thang”.
Sinh địa 24g Mạch môn 12g
Nữ trinh tử 20g Qua lâu 12g
Đẳng sâm 12g Quất hồng 8g
Hồng hoa 8g Đào nhân 12g .
Diên hồ sách 12g
Nếu đau nặng thì gia thêm: tam thất 3g, ngày 2 lần uống.
2.4. Âm dương hư tý. Đau ngực vùng trước tim, có khi giữa đêm phải thức giấc vì đau, tâm quí khí đoản, đầu thống tai ù, trằn trọc không yên, ăn kém gầy gò, lưng gối đau mỏi, sợ lạnh sợ gió, chi lạnh; đái đêm nhiều, chất lưỡi xám tím hoặc trắng nhợt, rêu lưỡi ít, mạch tế nhược hoặc kết đại.
- Pháp chữa: điều bổ âm - dương- lý khí hoạt huyết.
- Bài thuốc: “chích cam thảo thang” gia giảm.
Đẳng sâm 24g Nhục quế 4 - 10g
Chích thảo 12g Sinh địa 12g
Mạch đông 12g Phụ tử chế 4 - 12g
Giới bạch 12g Xuyên qui 12g
Toan táo nhân 12g Đẳng sâm 16g.
Sinh khương 3 lát
1.Đại cương:
1.1. Định nghĩa.
Trung y mô tả những cơn đau đột nhiên xuất hiện trước tim và sau xương ức trong các chứng “tâm thống, tâm quí, hung tý...”. Đau ở ngực trái thường lan đến cổ, mặt trong cánh tay, có khi kèm theo tím tái, tứ chi quyết lạnh, mạch vi tế, thường gặp ở tuổi trên 40, nam nhiều hơn nữ.
1.2. Nguyên nhân bệnh lý.
Những người già cơ thể suy nhược hoặc do ăn nhiều chất béo hoặc do nội nhân (thất tình) mà dẫn đến.
Bản chất bệnh do tâm dương không đầy đủ, tâm dương bất túc, tỳ dương không kiện vận dẫn đến hàn ngưng huyết ứ, đàm trọc nội sinh. Đàm trọc huyết ứ bế trở tâm mạch dẫn đến huyết hành bị trở ngại ở phần trên ngực gây nên cơn đau kịch liệt vùng trước tâm. Nếu nặng thì khí - huyết không thông, xuất hiện tím tái, tứ chi quyết lạnh, mạch vi muốn tuyệt. Cũng có thể do tỳ dương không kiện vận dẫn đến tâm - dương bất túc. Mệnh môn hỏa suy hoặc do tâm huyết không đầy đủ mà dẫn đến. Trên lâm sàng thường do can thận âm hư.
Dựa trên lý luận “Âm dương hỗ căn, âm trưởng ở dương, dương trưởng ở âm, âm tổn cập dương, dương tổn cập âm”. Vì vậy, nếu bệnh nhân lâu ngày không được điều trị hoặc điều trị dự phòng kịp thời sẽ dẫn đến âm - dương đều hư, âm - dương không đầy đủ, khí - huyết ứ trở bên trong. Điều này có liên quan mật thiết với 3 tạng: tỳ, can, thận.
1.3. Biện chứng.
Bệnh hư thực thác tạp, triệu chứng có đàm trọc huyết ứ lại có âm - dương khí - huyết hư.
Trên thực tế lâm sàng là tiêu thực mà bản hư nên khi điều trị cần phải áp dụng nguyên tắc “cấp trị tiêu hoãn trị bản”. Khi phát bệnh thì nên hành khí hoạt huyết hoặc ôn hóa hàn đàm kết hợp củng cố tâm âm, tâm dương; như thế là coi trọng trị tiêu. Sau khi bệnh được cải thiện tốt, lấy bổ hư là chính kèm thêm thuốc trừ đàm thông ứ; như vậy là coi trọng trị bản.
2. Lâm sàng và thể bệnh:
2.1. Thể dương hư do trở tắc.
Ngực đầy tức, đau trước ngực tâm quí, đoản khí, sắc mặt nhợt nhạt, gầy gò, vô lực, sợ lạnh, chi lạnh, tự hãn, ngủ không yên, ăn kém, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nát, lưỡi bệu nhợt mềm, rêu trắng nhuận hoặc trơn, mạch trầm hoãn hoặc kết đại.
- Pháp điều trị: ôn dương thông lạc trừ đàm.
- Phương thuốc: “chỉ thực giới bạch quế chi thang” gia giảm.
Chỉ thực 12g Chế bán hạ 12g
Giới bạch 6g Toàn qua lâu 32g Sinh khương 8g Đẳng sâm 16g
Quế chi 16g Tế tân 4g . Đan sâm 16g
Nếu đau nặng thì thêm “tô hợp dương hoàn” 1 hoàn uống với nước ấm.
2.2. Khí trệ huyết ứ.
Ngực đau nhói từng cơn, đau lan lên vai và lưng, tức ngực khó thở, lưỡi xám tím, rìa lưỡi và đầu lưỡi có điểm ứ huyết; mạch trầm, sáp hoặc kết.
- Pháp điều trị: hành khí hoạt huyết, hóa ứ thông lạc.
- Phương thuốc: “trục ứ thang” gia giảm.
Xuyên khung 8g Đào nhân 12g
Sinh địa hoàng 16g Đương qui 12g
Xích thược 12g Quất hồng 12g
Hồng hoa 12g Chỉ xác 8g
Cát cánh 8g Tử hồ 4g .
Cam thảo 4g
Ngày 1 thang sắc uống chia 2 lần, có thể uống kèm “thất tiếu tán” ngày 2g hoặc bột tam thất ngày 9g (chia 3 lần).
2.3. Âm hư bế trở.
Khí uất tức ngực, cơn đau vùng tim nặng về đêm, đầu váng tai ù, miệng khô, mắt mỏi, ngủ không yên giấc, tư hãn (đạo hãn), lưng đau gối mỏi, tiểu tiện nhiều về đêm, chất lưỡi bệu hồng, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc không có rêu; mạch tế sác hoặc vi tế hoặc súc.
- Pháp chữa: tư âm thông lạc.
- Bài thuốc: “dưỡng âm thông tý thang”.
Sinh địa 24g Mạch môn 12g
Nữ trinh tử 20g Qua lâu 12g
Đẳng sâm 12g Quất hồng 8g
Hồng hoa 8g Đào nhân 12g .
Diên hồ sách 12g
Nếu đau nặng thì gia thêm: tam thất 3g, ngày 2 lần uống.
2.4. Âm dương hư tý. Đau ngực vùng trước tim, có khi giữa đêm phải thức giấc vì đau, tâm quí khí đoản, đầu thống tai ù, trằn trọc không yên, ăn kém gầy gò, lưng gối đau mỏi, sợ lạnh sợ gió, chi lạnh; đái đêm nhiều, chất lưỡi xám tím hoặc trắng nhợt, rêu lưỡi ít, mạch tế nhược hoặc kết đại.
- Pháp chữa: điều bổ âm - dương- lý khí hoạt huyết.
- Bài thuốc: “chích cam thảo thang” gia giảm.
Đẳng sâm 24g Nhục quế 4 - 10g
Chích thảo 12g Sinh địa 12g
Mạch đông 12g Phụ tử chế 4 - 12g
Giới bạch 12g Xuyên qui 12g
Toan táo nhân 12g Đẳng sâm 16g.
Sinh khương 3 lát
Bệnh cao huyết áp nguyên phát
Bệnh cao huyết áp nguyên phát (tăng huyết áp nguyên phát)
1. Đại cương:1.1. Khái niệm: Cao huyết áp nguyên phát hay bệnh cao huyết áp, là chỉ một bệnh thường gặp do áp lực tuần hoàn động mạch tăng cao là chủ yếu. Căn cứ vào sự phát bệnh hoãn hay cấp và tiến triển của bệnh mà người ta có thể chia ra thể cấp tính và thể mạn tính. Thể cấp tính, trên lâm sàng gặp 1 - 5% tổng số bệnh cao huyết áp. Đặc điểm lâm sàng của cao huyết áp mạn tính là kín đáo (ẩn tàng), tiến triển chậm; giai đoạn đầu thường biểu hiện triệu chứng: đầu choáng, tai ù và mất ngủ; giai đoạn sau sẽ ảnh hưởng đến chức năng (hoặc biến chứng) ở một số cơ quan ( mắt, não, tim và thận ).
Đặc điểm lâm sàng của nhóm cao huyết áp cấp tính thường nghiêm trọng hơn, phát triển nhanh, huyết áp tăng cao rõ rệt, áp lực động mạch tâm trương có thể lên tới 130 -140 mmHg, hoặc có thể cao hơn. Trong thời gian ngắn sẽ xuất hiện các tổn thương ở đáy mắt, tổn thương thận, tim và não. Trước mắt, điều trị thường dùng 1 số thuốc hạ huyết áp như thuốc tác động giãn cơ trơn huyết quản; thuốc lợi niệu và một số thuốc tác động vào hệ thống renin-angiotensin. Tất cả các thuốc có thể dùng đơn độc hoặc có thể dùng hỗn hợp. Để có thể khống chế được cơn huyết áp tăng, giảm thấp được các biến chứng phát sinh thì bệnh nhân thường phải dùng kéo dài, mà nếu dùng các thuốc hạ huyết áp kéo dài thường gây ra tác dụng phụ nhất định và có những biến chứng nghiêm trọng.
Ví dụ: thuốc lợi niệu hạ áp, ngoài tác dụng phụ hạ thấp kali máu còn làm cho đường máu tăng cao, độ lọc của tiểu cầu thận hạ thấp, ảnh hưởng chức năng của thận làm cho ure hoặc creatinin máu tăng, làm giảm bài tiết, toan hóa nước tiểu, không ít những bệnh nhân sau khi dùng thuốc hạ áp, tuy huyết áp có giảm nhưng triệu chứng cơ năng vẫn tồn tại, thậm chí còn nặng hơn, sức lao động không thể hồi phục được.
1.2. Chẩn đoán theo YHHĐ:+ Theo Tổ chức Y tế thế giới, một người lớn có :
- Huyết áp bình thường nếu huyết áp động mạch tối đa dưới 140mmHg (18,7KPa ) và huyết áp động mạch tối thiểu dưới 90mmHg (12KPa).
-Được gọi là tăng huyết áp, nếu huyết áp động mạch tối đa trên 160mmHg (21,3 KPa) và/hoặc HA động mạch tối thiểu trên 95mmHg (12,7 KPa).
-Được gọi là tăng huyết áp giới hạn nếu HA động mạch tối đa từ 140 - 160 mmHg (18,7 - 21,3KPa) và huyết áp động mạch tối thiểu từ 90 - 95 mmHg (12 - 12,7 KPa).
Lưu ý : HA động mạch tối đa còn gọi là huyết áp tâm thu, HA động mạch tối thiểu còn gọi là huyết áp tâm trương. HA động mạch có thể thay đổi trong ngày (ban đêm thường thấp hơn ban ngày) và thay đổi theo tuổi (người già thường cao hơn trẻ), theo giới (nữ thường thấp hơn nam); con số HA không đánh giá được hoàn toàn mức độ nặng hay nhẹ của bệnh (hai người có cùng một con số huyết áp có thể có tiên lượng bệnh khác nhau).
+ Cao huyết áp triệu chứng hay còn gọi là cao huyết áp thứ phát sau một bệnh mạn tính: viêm thận mạn tính, viêm bể thận - thận, hẹp eo động mạch thận, u thận, phụ nữ có thai, viêm động mạch lớn...
1.3. Các giai đoạn của bệnh tăng huyết áp.
-Giai đoạn I: Bệnh nhân không có dấu hiệu khách quan thực thể.
-Giai đoạn II: bệnh nhân có một trong các dấu hiệu thực tổn dưới đây:
. Dày thất trái phát hiện nhờ XQ, điện tâm đồ, siêu âm.
. Hẹp các động mạch võng mạc lan rộng hay khu trú .
. Protein niệu hoặc/và creatinin huyết tương tăng nhẹ.
-Giai đoạn III: Bệnh tăng huyết áp đã gây ra tổn thương ít nhất ở hai cơ quan khác nhau; thể hiện bằng các triệu chứng cơ năng và dấu hiệu thực thể sau đây: ở tim gây suy thất trái; ở não gây xuất huyết não; ở đáy mắt gây xuất huyết võng mạc, xuất tiết có thể có hoặc không phù gai thị. Các dấu hiệu này đặc trưng cho giai đoạn nặng, tiến triển nhanh. Ngoài ra, trong giai đoạn này còn có biểu hiện khác: cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, huyết khối động mạch trong sọ, phình mạch, viêm tắc động mạch chi, suy thận.
1.4. Cao huyết áp ác tính:Cao huyết áp ác tính chiếm 2 - 5% các trường hợp tăng huyết áp. Tất cả các loại tăng huyết áp do nguyên nhân khác nhau đều có thể chuyển thành cao huyết áp ác tính.
Bệnh xuất hiện nhanh kịch phát. Nổi bật là hội chứng não, nhức đầu dữ dội; biến đổi đáy mắt độ III, độ IV; số đo huyết áp thường rất cao cả tối đa lẫn tối thiểu, tiến triển nhanh, nặng; hay có biến chứng não, tim.
Huyết áp tâm trương ³ 17,3 KPa (130 mmHg) trở lên.
2. Theo quan niệm Y học Cổ truyền:
Y học Cổ truyền không có bệnh danh cao huyết áp nên thường mô tả trong các phạm trù: “Huyền vậng, đầu thống, can phong, can dương, can hoả vượng”. Khi bệnh diễn biến nặng có biến chứng ở não , thì YHCT mô tả trong phạm trù “trúng phong”.
Biện chứng luận trị chủ yếu dựa trên lâm sàng bệnh cao huyết áp.
+ Cao huyết áp giai đoạn I:Trên lâm sàng đa phần biểu hiện can dương thượng nghịch, âm hư dương khang (cang), tâm thận bất giao, xung nhâm bất điều và đàm trọc trung trở... Điều trị phải bình can tiềm dương, tư âm tiềm dương, điều lý xung nhâm và hóa đàm là đại pháp điều trị.
+ Cao huyết áp giai đoạn II:Có thể xuất hiện các triệu chứng như trên. Ngoài ra, do bệnh diễn biến đã lâu, bệnh lâu nhập vào lạc mạch... Lạc mạch ứ trở có thể thấy ngực đau tâm thống, âm tổn cập dương có thể thấy khí âm lưỡng hư . Về điều trị, lấy hoạt huyết hóa ứ, tuyên lý thông lạc, khí âm song bổ là đại pháp.
+ Cao huyết áp giai đoạn III:Thường xuất hiện các triệu chứng công năng của não, tâm thận bị tổn hại. Vì vậy, bệnh diễn biến lâu ngày thường âm tổn cập dương, xuất hiện âm - dương lưỡng hư, tỳ thận dương hư. Điều trị phải âm - dương cùng bổ, lấy ôn dương lợi thủy làm đại pháp. Ngoài ra, phải chú ý điều trị toàn diện điều tiết tình chí, chế độ ăn uống, nghỉ ngơi kết hợp với luyện tập khí công liệu pháp. Nếu huyết áp vẫn cao phải phối hợp thuốc Trung - tây y làm cho huyết áp hạ xuống mức bình thường, đồng thời tăng cường điều trị theo biện chứng luận trị, kết hợp thêm 1 số thuốc hạ áp đã có tác dụng trên thực nghiệm sẽ nâng cao hiệu quả điều trị.
2.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh lý.
- Bệnh nhân cao huyết áp chủ yếu là do thất tình, ẩm thực thất tiết, nội thương hư tổn, bệnh thường ảnh hưởng đến các tạng can thận và luỵ đến tâm tỳ. Cơ chế bệnh chủ yếu là âm - dương của can thận mất điều hoà, tinh thần căng thẳng kéo dài, nhiều tư uất nộ, hay cáu gắt giận dữ làm cho can khí uất trệ, uất lâu hóa hoả dẫn đến can dương thượng cang nên xuất hiện đầu choáng mắt hoa, mắt đỏ, đau đầu, mặt đỏ, tâm phiền, lao thương quá độ. Người mà có cơ thể suy nhược lại bị can dương cang vượng lâu ngày làm cho thận âm hao tổn; mà can âm lại nhờ vào sự tư dưỡng của thận âm, thận âm hư tổn, thủy bất năng dưỡng mộc, xuất hiện can thận âm hư là chứng âm hư dương vượng. Thận âm bất túc, thận thủy bất năng thượng tế ở tâm mà tướng hỏa thiên thịnh, có thể thấy tâm quí thất miên đa mộng, kiện vong... lại ăn nhiều chất béo ngọt vi nặng, uống quá nhiều rượu làm tỳ vị mất kiện vận khiến thấp trọc nội sinh, trở cát khí cơ thanh dương bất thăng, trọc âm bất giáng nên sinh ra đầu choáng mắt hoa, hung quản bĩ tức, rêu lưỡi dày nhờn, can thận âm hư, can dương bạo khang, can phong nội động hiệp với đàm trọc huyết ứ trở trệ kinh lạc, mạch lạc là cơ thể biểu hiện “trúng phong”.
- Cao huyết áp giai đoạn III: bệnh lâu không khỏi, diễn biến kéo dài, âm tổn cập dương, có thể xuất hiện khí âm lưỡng hư, âm - dương đều hư... Thận chủ thuỷ, thận dương hư bất năng trưng hóa thuỷ dịch, thủy khí nội đình, thượng lăng tâm tắc tâm quí bất định thượng phạp vu phế tắc khả kiến suyễn súc bất năng ngoại (không nằm ngửa được) khái thấu lạc đàm. Tỳ thận dương hư, thủy khí nội đình phạp tư cơ phu gây nên thủy thũng.
* Huyền vượng:
Là triệu chứng chủ yếu của bệnh cao huyết áp. Cơ chế chủ yếu là can thận âm hư thất điều, can chủ sơ tiết, căng thẳng nhiều khí uất, uất ức kéo dài, can khí bất thông sướng, khí uất hóa hoả, can âm hao hư, can dương thượng cang, thượng nhiều thanh cung (khung) sinh ra huyền vậng. Thận tàng tinh là âm dịch căn bản của toàn cơ thể, thận âm bất túc, bất năng dưỡng can dẫn đến can âm bất túc, can dương thượng cang cũng phát sinh huyền vậng. Tỳ chủ vận hoá, ăn nhiều chất béo ngọt, uống rượu quá độ, lao động quá sức, tổn thương tỳ vị, tỳ mất kiện vận, tụ thấp sinh đàm, đàm trọc trung trở thanh dương bất thăng, trọc âm bất giáng đều phát sinh huyền vậng (như vậy huyền vậng do can dương thượng cang, thượng nhiều thanh không, thận âm bất túc bất năng dưỡng can, tỳ hư tụ thấp sinh đàm).
* Đầu thống:
Là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp. Nguyên nhân đau đầu chủ yếu do 3 tạng: can, tỳ, thận. Cao huyết áp kéo dài, can mất sơ tiết uất mà hóa hoả, thượng (nhiều) long thanh khiếu mà sinh đau đầu, hoả vượng thương âm, can mất nhu dưỡng hoặc thận âm bất túc, thuỷ bất tư mộc, can thận âm hao, can dương thượng cang, thượng nhiều thanh không dẫn đến đau đầu. Thận tinh hao lâu, tủy não hư sinh đau đầu hoặc âm tổn cập dương thận dương suy vi thanh dương không phát càng sinh đầu đầu, ăn nhiều chất bổ, béo ngọt, tỳ mất kiện vận, đàm thấp nội sinh, thượng nhiều thanh không âm kiệt thanh dương dẫn đến đau đầu. Ngoài ra, bệnh lâu ngày nhập lạc, khí - huyết vận hành bất thông, huyết ứ nội trở bất thông tắc thống, đều sinh đau đầu.
* Tâm quí:
Nguyên nhân chủ yếu là liên quan đến tâm, thận. Thận âm bất túc thủy bất tế hoả, hư hoả vong động, thượng nhiễu tâm thần dẫn đến tâm quí. Bệnh lâu ngày, dương tổn cập âm dẫn đến dương khí bất túc bất năng ôn chiếu tâm mạch tắc tâm động quí mà bất an. Tỳ thận dương hư, bất năng trưng hóa thủy dịch, đình tụ mà thành ẩm ; tà thượng phạm, ức chế tâm - dương đều có thể phát sinh tâm quí. Ngoài ra, bệnh lâu ngày nhập lạc, huyết hành bất thông hoặc tâm - dương bất túc, không đủ lực huy động huyết dịch vận hành có thể dẫn đến huyết ứ nội trở đều xuất hiện tâm quí.
* Trúng phong:
Là biện chứng thường gặp ở thời kỳ sau của cao huyết áp. Cơ chế bệnh lý chủ yếu là can thận âm - dương thất điều. Thận âm bất túc, thủy bất dưỡng mộc, can không được nuôi dưỡng, can dương cang thịnh lại thêm tình chí quá cực, lao thương quá độ hoặc uống rượu nhiều, khí hậu đột ngột ảnh hưởng... tất cả đều là nhân tố thuận lợi phát bệnh. Âm hao ở dưới, can dương cang vượng, dương hóa phong động, khí - huyết thượng xung, tâm thần hôn muội phát chứng trúng phong. Bạo nộ giận dữ thương cang, can dương bạo động dẫn đến tâm hoả động, phong hỏa tương liên, khí nhiệt uất nghịch, khí - huyết bình tẩu ở trên tâm thần hôn muội mà thốt đảo mất trí sinh trúng phong.
Cũng có thể do ăn nhiều chất dầu, chất béo, chất ngọt; thấp tụ sinh đàm, đàm uất hóa nhiệt, trở trệ kinh lạc, che lấp thanh khiếu; hoặc là can hoả thiêu dịch thành đàm, can hoả hiệp đàm hoả, hoành xung kinh lạc che lấp thanh khiếu phát sinh trúng phong.
* Thủy thũng:
Triệu chứng thường xuất hiện ở thời kỳ sau của cao huyết áp. Cơ chế bệnh lý là tỳ thận dương hư, huyết ứ nội trở, âm tổn cập dương dẫn đến thận dương bất túc, thận dương hư khai môn bất lợi, bất năng hoá khí hành thủy dẫn đến thủy dịch nội đình, phạp tư cơ phu phát sinh phù thũng. Thận dương hư bất năng ôn chiếu tỳ dương, tỳ mất kiện vận, thủy thấp nội đình phạp tư cơ phu đều phát sinh thủy thũng, dương khí bất túc không có sức huy động huyết dịch vận hành tắc huyết ứ nội trở thành thủy thũng.
2.2. Đặc điểm tứ chẩn:
2.2.1. Vọng chẩn.
Mặt hồng, mắt đỏ là can dương thượng cang; 2 gò má hồng là can thận âm hư; sắc mặt trắng bệch hoặc vàng nhợt là tâm tỳ lưỡng hư, sắc mặt đen khô là thận tinh hao hư hoả chế ước âm; đen mà nhợt bủng là hàn thủy bệnh thận.
Hình thể phì bệu, ngực quản bĩ bế, rêu lưỡi dày nhờn là thấp trọc trung trở; hình thể gầy gò, tâm phiền, lưỡi đỏ ít rêu là can thận âm hư, hư hoả nội nhiễu.
Đầu lưỡi và rìa lưỡi đỏ là can dương thượng cang; lưỡi hồng mềm ít rêu hoặc không có rêu là âm - dương lưỡng hư; lưỡi bệu rêu dày nhờn là đàm trọc trung trở.
2.2.2. Văn chẩn.
Bệnh cao huyết áp ảnh hưởng đến tạng tâm, khi công năng của tâm suy giảm sẽ phát sinh nhịp nhanh, hở van tim ảnh hưởng đến phế môn, khó thở (hô hấp cấp súc) hoặc có khái thấu khí suyễn, khí trúng phong, ngôn ngữ bất lợi (loại trừ suy thận niệu độc biến đổi không rõ ràng).
2.2.3.Vấn chẩn.
Vấn đầu thân: đầu choáng, đau đầu, đầu chướng căng kèm theo mặt hồng mắt đỏ, tai ù miệng đắng họng khô là can dương thượng cang- đầu choáng nặng, đầu thân mình nặng nề, ngực bụng bĩ tức, nôn khan hoặc nôn mửa là đàm trọc trung trở; đầu choáng mắt hoa, gắng sức tăng lên, sắc mặt trắng nhợt là khí hư; đầu choáng tai ù kèm theo di tinh, giảm trí nhớ, lưng đau gối mỏi là thận tinh hao hư.
Vấn tai, mắt: tai ù, mắt hoa mặt đỏ, lưỡi đỏ rêu vàng là can dương thượng cang. Lưng đau gối mỏi, lưỡi đỏ ít rêu là can thận âm hư; đầu choáng ngực bĩ, hình thể gầy, chi tê, nôn khan, rêu lưỡi nhờn là đàm trọc trung trở; thanh dương bất thăng, lưỡng mục hoa mờ khô sáp, thị lực giảm đa phần do can huyết bất túc, thận tinh hao tổn, mắt không được tư dưỡng.
Vấn khẩu vị: miệng khô không muốn uống kèm theo lưỡi đỏ ít rêu là can thận âm hư; miệng khô, uống nước không nhiều kèm theo mình nặng quản bĩ, rêu nhờn là đàm trọc trung trở, miệng đắng là can dương thượng cang, miệng nhạt vô vị là tỳ khí hư; trong miệng dính nhờn là thấp nhiệt trung trở.
Vấn về giấc ngủ: thất miên đa mộng, mặt hồng, mắt đỏ, miệng đắng sườn đau là can dương thượng cang. Nếu lưng gối đau mỏi, tâm phiền bất dịch là triệu chứng tâm thận bất giao, kèm theo tâm quí mệt mỏi vô lực là tâm khí bất túc; nếu quản bĩ, rêu lưỡi dày nhờn là thấp trọc nội trở.
Vấn đề về điều trị: bệnh cao huyết áp kéo dài không khỏi, hỏi về quá trình điều trị thuốc để có chỉ định điều trị chính xác hơn.
2.2.4. Thiết chẩn.
Thường gặp mạch huyền có lực là can dương thượng cang; mạch tế sác là can thận âm hư hoặc là tâm thận âm hư; mạch trầm tế là khí âm lưỡng hư phần nhiều xung nhâm thất điều; mạch sáp là huyết ứ nội trở; mạch nhu nhược là trung khí bất túc; mạch trầm trì là thận dương bất túc; mạch huyền hoạt là đàm thấp trung trở.
3. Biện chứng luận trị:
3.1. Những điểm trọng yếu trong biện chứng luận trị.
Nguyên tắc điều trị cơ bản là điều can bổ thận, khôi phục lại sự cân bằng của âm - dương. Cụ thể là phải bình can tiềm dương, tư âm, ích khí dưỡng âm, âm - dương cùng bổ, đồng thời phải căn cứ vào biểu hiện cụ thể lâm sàng mà kết hợp hóa đàm, hoạt huyết hóa ứ, hành khí, tiêu trừ đàm trọc huyết ứ và khí trệ trong khi vận dụng pháp trị lâm sàng; có thể dùng độc pháp hoặc có thể phối hợp các phương pháp với nhau, phải linh hoạt sử dụng tuỳ theo diễn biến và kết quả lâm sàng.
3.2. Can dương thượng cang.
- Đầu choáng, đầu chướng mắt hoa (huyền), mặt đỏ tai ù, phiền táo hay giận dữ, miệng đắng, đầu lưỡi và rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.
- Phương pháp điều trị: bình can tiềm dương.
- Phương thuốc thường dùng: “thiên ma câu đằng ẩm” hoặc “trấn can tức phong thang”.
- Châm cứu: thái xung, khâu khư, hành gian, phong trì, nội quan, khúc trì.
3.3. Can thận âm hư.
Chóng mặt, tai ù, mắt hoa, thất miên, tinh thần bất tỉnh, trí nhớ giảm sút, tâm quí, lưỡng mục khô sáp, chi tê mỏi, miệng khô, lưng gối đau mỏi, di tinh hoặc kinh nguyệt không đều, 2 gò má hồng đỏ; lưỡi mềm hồng, ít rêu hoặc không có rêu; mạch tế sác.
- Pháp điều trị: tư thận bổ can.
- Phương thuốc thường dùng: “Lục vị địa hoàng hoàn”.
Nếu chóng mặt, lưng gối đau mỏi, kiện vong, di tinh là biểu hiện âm hư nhiều hơn thì nên dùng “kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia giảm.
Nếu chóng mặt, 2 mắt khô sáp, chi tê mỏi, kinh nguyệt không đều, biểu hiện can âm hư là chính thì dùng “tần giao thang” hoặc “bát vị hoàn” gia giảm.
Nếu như tâm quí, tâm phiền, thất miên, kiện vong, lưng gối đau mỏi là tâm thận âm hư, tâm thận bất giao là chính phải dùng “thiên vương bổ tâm đan” gia giảm.
Nếu chóng mặt, mắt đỏ, tai ù, miệng khô, tâm phiền, gò má đỏ là hư hoả thượng cang phải dùng “tri bá địa hoàng hoàn” gia giảm.
- Châm cứu: thái khê, thái xung, tam âm giao, túc lâm khấp, phong trì, thận du, can du, nội quan, thần môn.
3.4. Xung nhâm bất điều.
Phụ nữ tiền mãn kinh hoặc trước hay sau hành kinh thấy huyết áp giao động kèm theo đầu choáng, đau đầu tâm phiền, dễ nóng tính, xuất hiện mồm khô họng ráo, thiếu kiềm chế, lưng gối mỏi, lưỡi nhợt hồng ít rêu, mạch huyền tế.
- Phương pháp điều trị: điều lý xung nhâm.
- Phương thuốc thường dùng: “nhị tiên thang” hoặc “tiêu giao tán” gia giảm.
- Châm cứu: khí hải, quan nguyên, tam âm giao, hành gian, nội quan.
3.5. Huyết ứ trở lạc.
Đầu choáng, đau đầu kéo dài không khỏi, cố định bất đa, lưỡi tía xám, mạch sáp.
- Phương pháp điều trị: hoạt huyết hóa ứ.
- Phương thuốc: “huyết phụ trục ứ thang” gia giảm.
- Châm cứu: phong trì, bạch hội, thái dương, nội quan, thái xung, thận du.
3.6. Đàm trọc trung trở.
Đầu mắt căng tức, đầu nặng như kìm (ghì), ngực quản bĩ tức, hình thể bệu phì, miệng hay có dãi, rêu lưỡi trắng dày nhờn hoặc vàng nhờn; mạch huyền hoạt.
- Pháp điều trị: trừ thấp hóa đàm.
- Phương thuốc: “ bán hạ bạch truật thiên ma thang” hoặc “ ngưu hoàng thanh tâm hoàn” gia giảm.
- Châm cứu: thái bạch, kinh cốt, phong long, khúc trì, dương lăng tuyền.
3.7. Khí âm lưỡng hư.
Huyền vậng tai ù, lưỡng mục can sáp, hầu khô triều nhiệt, mệt mỏi vô lực, hãn xuất khí đoản khi vận động nặng , chất lưỡi nhợt bệu có hằn răng, rêu lưỡi ít hoặc không có rêu, mạch trầm tế.
- Phương pháp điều trị: khí âm song bổ.
- Phương thuốc thường dùng: “sâm xích chân khí thang” gia giảm-Thuốc : đẳng sâm, bạch thược, phục linh, sơn thù du, đại xích thạch, long cốt, mẫu lệ, tô tử, sơn dược.
- Châm cứu: thái khê, tam âm giao, thận du, túc tam lý, nội quan, thông lý.
3.8. Âm - dương lưỡng hư.
Chóng mặt, tai ù, tai điếc, ngũ tâm phiền nhiệt hoặc sợ lạnh, chi dưới phù nuy, di tinh, đái đêm nhiều lần, chất lưỡi nhợt mềm, mạch trầm.
- Phương pháp điều trị: dục âm trợ dương.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” gia giảm (bát vị hoàn, “kim qui yếu lược”): can địa hoàng, sơn thù du, sơn dược, phục linh, trạch tả, đan bì, phụ tử, quế chi.
- Châm cứu: thái khê, thần môn, quan nguyên, tam âm giao, thận du, can du.
Bệnh cao huyết áp thường biểu hiện triệu chứng lâm sàng phức tạp, thường xuyên xuất hiện các dạng thể bệnh trên, cần phải phân biệt chính hay phụ, chọn dùng 1 phương thuốc hoặc phối hợp nhiều phương thuốc với nhau.
Ví dụ: Khí âm lưỡng hư có kèm theo huyết ứ trở lạc, biểu hiện lâm sàng là chóng mặt lưỡng mục khô thấp, họng khô triều nhiệt, mệt mỏi vô lực, hãn xuất khí đoản “động tắc gia nặng”, lưỡi nhợt bệu có hằn răng, lưỡi có ban ứ, ít rêu hoặc không có rêu, mạch tế sáp nên pháp điều trị vừa phải lấy khí âm song bổ, vừa phải hoạt huyết hóa ứ hợp dụng. Vì vậy phương thuốc hạch tâm có thể chọn “sâm xích chân khí thang” hợp với “huyết phụ trục ứ thang” gia giảm.
“Huyết phụ trục ứ thang” (“Kim lâm cái thế”): đương qui, sinh địa, đào nhân, hồng hoa, chỉ xác, xích thược dược, sài hồ, cam thảo, cát cánh, xuyên khung, ngưu tất.
4. Đơn thuốc nghiệm phương và phương pháp điều trị hỗ trợ:
4.1. Thuốc nghiệm phương.
-“Ngưu hoàng hạ áp hoàn”: linh dương giác, chân trâu, ngưu hoàng, thủy phiến, hoàng kỳ, uất kim. Mỗi lần 1 hoàn, ngày 2 lần.
--“Tễ áp tán”: đởm hãn chế ngô thù du 500g, long đờm thảo chế 60g, lưu hoàng 50g, chế bạch phàn 100g, chu sa 50g . Tất cả tán bột mịn, mỗi lần dùng thuốc bột khoảng 200mg (0,2g); thuốc có độc tính nên phải thận trọng.
-Phương pháp gài dán huyệt ở tai: thường dùng các điểm tâm, thận, can, tuyến thượng thận, rãnh hạ áp, điểm hạ áp, não, giao cảm, nội phân tiết, dưới vỏ. Trước khi dùng cần thăm dò điểm mẫn cảm, sau đó dùng hạt vương bất lưu hành dán gài trên các điểm mẫn cảm , mỗi lần 4 - 5 huyệt hai ngày đổi 1 lần phải và trái thay đổi, mỗi ngày bệnh nhân tự day ấn nhiều lần (sau bữa ăn và trước khi ngủ).
-Châm thích: phong trì, thái xung. Nếu đau đầu kịch liệt, mắt đỏ, mắt mờ dùng: thái dương; Nếu nhiệt thịnh, mắt đỏ thì dùng huyệt hợp cốc, kích thích mạnh, lưu châm 20’.
4.2. Phương pháp điều trị hỗ trợ.
Điều tiết tình chí, ẩm thực, luyện tập khống chế tăng cân, duy trì nề nếp khí công liệu pháp, luyện ý, luyện chí, luyện thở, kết hợp với luyện thư giãn
4.3. Dự phòng.
-Bệnh thường phải điều trị củng cố sau khi huyết áp ổ mức bình thường lại thì phải duy trì thuốc thảo mộc đến khi bệnh ổn định, tránh được tai biến, tàn phế . Nếu có biến chứng nguy hiểm, tinh thần bị kích thích quá mạnh, lao động quá sức, quá mệt mỏi, hàn lạnh từ dưới làm cho huyết áp đột ngột tăng cao, đau đầu kịch liệt, phiền táo bất an, phát sốt, phát hãn, tai ù mắt hoa, nôn khan hoặc nôn mửa, tâm quí, thị lực giảm hoặc là mù tạm thời, co giật...là triệu chứng của can dương bạo cang, can phong nội động, cần cho bệnh nhân nằm nghỉ ngơi cao đầu, thở ôxy phối hợp dùng thuốc hạ áp của y học hiện đại như: nifedipin (adalat), aldomet, thuốc chẹn b, captopril, reserpin kết hợp thuốc lợi niệu furosemid (lasix).
-Duy trì bằng châm các huyệt: phong trì, can du, thận du, hành gian, hiệp khê (tả pháp).
hoặc cho uống “an cung ngưu hoàng hoàn”.
4.4. Tham khảo tiêu chuẩn phân thể bệnh (Thượng Hải, 1978).- Thể dương vượng: đau đầu căng dãn như bốc hoả, mặt hồng, hay cáu gắt giận dữ, mạch huyền.
- Thể âm hư - dương vượng: chóng mặt, đau đầu, căng dãn đầu, tâm quí thất miên, nhìn mờ hay quên (kiện vong), miệng khô, mắt đỏ, mạch huyền tế, chất lưỡi hồng.
- Thể âm - dương lưỡng hư: chóng mặt, đau đầu, căng dãn đầu, chi lạnh, 2 chân mệt mỏi, tâm quí mắt mờ, thiên kiềm chế, đa mộng, thăng hoả, tai ù, mồm khô, mặt đỏ, đái đêm nhiều (dạ niệu phiền), đi lại khó thở, mạch huyền tế, chất lưỡi hồng.
- Thể dương hư: chóng mặt, chi lạnh, niệu phiền, chi dưới mỏi, tai ù, mạch nhu tế, chất lưỡi nhợt hoặc bệu.
- Phong đàm kèm ứ: có thể xuất hiện chi thể tê bại, hoạt động không linh hoạt, tinh thần không minh mẫn, lưỡi cứng, nói kém linh hoạt, bất thanh đa đàm.
4.5. Tham khảo tư liệu.
Theo Chương Cúc Nhân: cơ thể con người ở thời kỳ cận đại thì quá nửa âm thường bất túc, dương thường hữu dư, do âm bất túc mà thận hàn thủy tổn nặng thêm, dương cang thượng nặng thêm, chóng mặt thêm nặng lâu ngày, đàm nhiệt nội nhiễu làm cho ngôn ngữ bất thanh tạo nên thượng thực hạ hư, hình thành nội phong; nội phong huyết động sinh chóng mặt tâm quí, hãn xuất thủ ngoan, thời khí muốn thoát.
Cơ chế bệnh sinh bệnh cao huyết áp:
Tình chí thất tiết, thương can, can dương thiên cang dẫn đến can phong, can hỏa ®trúng phong.
Tiên thiên bất túc, sinh hoạt thất thường làm cho thận hư; thận âm bất túc, âm tổn cập dương dẫn đến can thận âm hư; hoặc âm - dương đều hư; dương không tiềm tàng cả hai đều sinh bệnh cao huyết áp.
Mặt khác, ẩm thực bất tiết, nhiễu tư thương tỳ dẫn đến thương cập tâm tỳ làm cho tâm tỳ lưỡng hư; tỳ mất kiện vận, phế mất thanh túc dẫn đến can khí hành nghịch; đàm trọc thượng nhiễu dẫn đến can mất điều đạt đều là những nguyên nhân sinh ra bệnh cao huyết áp.
Mỡ máu tăng cao
1. Đại cương:
1.1. Định nghĩa:Mỡ máu tăng là khi mà hàm lượng của một thành phần hoặc là nhiều thành phần chất mỡ trong huyết tương vượt qúa giới hạn bình thường thì gọi là bệnh tăng mỡ máu, cũng có thể gọi là chứng mỡ máu cao (hyperlipidemia).
Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ - albumin cao (hyperlipoproteinemia).Mỡ máu tăng cao là bệnh do rối loạn chuyển hóa, thường là chứng bệnh nghiêm trọng và phức tạp...
Trên lâm sàng người ta chia làm 2 loại lớn là: nguyên phát và thứ phát.
1.2. Đặc điểm lâm sàng của tăng mỡ máu nguyên phát.
+ Triệu chứng không rõ ràng. Chẩn đoán bệnh chủ yếu là dựa vào xét nghiệm mỡ máu. Do mỡ máu cao dẫn đến xơ hoá mạch, động mạch kém đàn hồi; lâm sàng thường biểu hiện triệu chứng thiểu năng tuần hoàn vành, thiếu máu tâm cơ hoặc nhồi máu não do vữa xơ động mạch.
+ Kiểm tra mỡ máu thấy:
- Lipit toàn phần: cholesterol toàn phần (TC) tăng.
- Triglyxerit (TG) tăng.
- Điện di lipoprotein: VLDL (verlow density lipoproteine), LDL (low density lipoproteine), IDL (intermediate density lipoproteine), HDL (high density lipoproteine).
Chẩn đoán xác định là: một trong các thành phần mỡ máu ( TC, TG, VLDL, LDL, IDL) tăng, đồng thời HDL - C giảm.
1.3. Chẩn liệu Trung y.
- Trước tiên là khống chế chế độ ăn và luyện tập thể dục thích hợp.
- Khi cần thiết sẽ dùng thuốc, thuốc tân dược có hiệu quả giảm mỡ máu nhanh. Tuy nhiên còn nhiều tác dụng phụ, thậm chí có những biến chứng: buồn nôn, rối loạn tiêu hoá, ảnh hưởng chức năng gan, thận.
- Khi chẩn trị phải căn cứ vào biểu hiện khác nhau mà biện chứng dụng dược, vừa chú ý hạ thấp mỡ máu, vừa điều trị tích cực trạng thái bệnh mạch vành, mạch máu não. Đối với tăng mỡ máu thứ phát phải chữa vào nguyên nhân.
1.4. Nguyên nhân cơ chế bệnh:Theo quan niệm của YHCT thì nguyên nhân của bệnh lý tăng mỡ máu chủ yếu phụ thuộc các yếu tố sau đây:
+ Nhân tố thể chất:Là yếu tố bản tạng hoặc trạng thái thiên thắng hoặc thiên suy của vận hoá và chuyển hoá tạng phủ.
+ Ẩm thực thất tiết.
Phần nhiều do ăn nhiều chất béo và ngọt gây tổn hại đến tỳ vị, vận hóa thất điều, đàm trọc nội sinh, đàm trọc hóa mà phát sinh bệnh.
+ Tinh thần, thần chí thất thường.
Tinh thần kích thích hoặc biến đổi tính chí mà dẫn đến tư lự thương tỳ, nội tắc thương can, mộc vượng khắc thổ cũng thương tổn đến tỳ vị; tỳ thất kiện vận, thấp trọc xâm phạm mạch đạo mà phát bệnh; tinh thần kinh căng thẳng kết hợp. Điều quan trọng là cơ quan tạng phủ bị rối loạn về chức năng, công năng của 3 tạng ( tỳ, thận, can), trong đó tỳ, thận hư tổn là chủ yếu. Tỳ khí hư nhược, kiện vận thất điều, ẩm thực không thể hóa thành chất tinh vi ứ thành đàm trọc mà phát bệnh; hoặc do tuổi già thận suy, khí bất hóa tân, đàm trọc tích tụ ở trong dẫn đến tâm huyết ứ trở, mạch lạc kết trệ hoặc do can thận âm hư, hư hỏa thượng viêm, thiêu dịch thành đàm, đàm trọc nội trở mà phát bệnh.
Tóm lại: YHCT cho rằng bản chất bệnh là “Bản hư tiêu thực”:
. “Tiêu”: phần nhiều biểu hiện đàm trọc huyết ứ.
. “Bản”: công năng tạng phủ thất điều hoặc hư tổn chủ yếu do tỳ, thận hư tổn.
2. Biện chứng phương trị:
2.1. Đặc điểm: Bản chất và cơ chế bệnh đa phần thuộc “ bản hư tiêu thực”. Vì vậy trong điều trị phải kết hợp “tiêu - bản” kiêm trị, đó là nguyên tắc cơ bản. Trên lâm sàng phải căn cứ vào triệu chứng hoãn hay cấp để chọn phù chính là chủ (phù chính trước trừ tà sau, ngược lại trừ tà trước phù chính sau) hoặc tiêu bản đồng trị.
- Bản hư đa phần thuộc tỳ thận hư tổn.
- Tiêu thực đa phần là đàm trọc, huyết ứ.
- Trị bản chủ yếu là pháp ích thận bổ tỳ.
- Trị tiêu chủ yếu là khứ đàm trừ thấp, thanh lý thông hạ, hoạt huyết hóa ứ.
Ngoài ra, cần phải phối hợp chế độ ăn uống và vận động liệu pháp, khí công liệu pháp và dùng dưỡng sinh phòng bệnh.
2.2. Phương pháp điều trị .
2.2.1. Đàm thấp nội trở:
- Hình thể béo phệ, hay ăn các chất bổ, ngọt, béo; đầu nặng căng chướng; bụng ngực bĩ tức, buồn nôn hoặc nôn khan, miệng khô không khát, tứ chi gầy gò, chi thể nặng nề ma mộc (tê mỏi), bụng chướng, rêu lưỡi nhuận nhờn; mạch huyền hoạt.
- Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm trừ thấp.
Thường dùng “nhị trần thang” gia vị.
- Châm cứu: nội quan, phong long, trung quản, giải khê.
2.2.2. Đàm nhiệt phủ thực.
Hình thể tráng thực, đại tiện bí kết, ngực tâm phúc chướng, đầu căng chướng, thường cảm thấy đau giật, tính tình cáu gắt, miệng đắng tâm phiền, mặt hồng, mắt đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, chất lưỡi hồng, mạch huyền hoạt có lực.
- Phương pháp điều trị: thanh nhiệt, hóa đàm , thông phủ.
- Thuốc: hợp phương “tiểu hãm hung thang” và “tăng dịch thừa khí thang” gia vị.
- Châm cứu: Phế du, xích trạch, phong long, đại trường du, hợp cốc, khúc trì.
2.2.3.Tỳ thận dương hư: Lưng gối mỏi mệt, chi lạnh sợ hàn, tinh thần bất thư, mặt phù chi nặng, tứ chi thiểu lực, đại tiện lỏng nát, đái đêm nhiều, lưỡi bệu nhợt, rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng dày, mạch trầm trì.
- Thuốc: Ôn tỳ bổ thận.
Thường dùng “phụ tử lý trung thang” gia giảm.
- Châm: tỳ du, trung quản, chương môn, thần khuyết, túc tam lý, mệnh môn, quan nguyên.
2.2.4. Can thận âm hư:Lưng gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt, hình gầy, hay mệt, đầu choáng tai ù, tư hãn, miệng khô, họng ráo, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
- Thuốc: tư dưỡng can thận.
- Phương thuốc: “kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia vị.
- Châm cứu: can du, thận du, huyền chung, dương lăng tuyền.
2.2.5. Đàm ứ giao trở:
Tâm hung trung đông thống hữu hình thể béo, chi thể trầm nặng, tê mỏi; chất lưỡi tía xám hoặc có điểm ứ, ban ứ, rêu nhờn; mạch huyền hoạt hoặc mạch sáp.
- Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm - hoạt huyết khư ứ.
- Thuốc: “qua lâu giới bạch bán hạ thang” hợp phương “đào hồng tứ vật thang” gia vị.
- Châm cứu: trung quản, phong long, huyết hải, hành gian.
2.2.6. Can uất tỳ hư:Đau 2 mạng sườn, đau không cố định, mệt mỏi, ăn kém, tinh thần bất định, đại tiện lỏng nát, kinh nguyệt không đều, quanh vú chướng đau, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch huyền.
- Điều trị: sơ can giải uất- kiện tỳ dưỡng huyết.
- Thuốc: “tiêu giao tán” gia vị.
- Châm cứu: can du, tỳ du, chương môn, trung quản, thiên khu, túc tam lý.
3. Tư liệu tham khảo:
Điều trị mỡ máu tăng có rất nhiều phương pháp: thuốc phụ phương, đơn phương và thực trị học, khí công.
3.1. Trung dược phụ phương:+ Hạ mỡ hợp tễ:
Hà diệp 24g Tang ký sinh 15g
Hà thủ ô 12g Uất kim 15g
Sơn tra 24g Thảo quyết minh 15g.
Chế thành cao lỏng, chia 2 lần trong ngày, mỗi lần 25ml. Thuốc có tác dụng hạ thấp TC, bLP nhưng tác dụng không ổn định.
+ Giáng chỉ thang:
Hà thủ ô 15g
Thảo quyết minh 30g
Câu kỷ tử 10g
Sắc nước, chia 2 lần uống trong một ngày, liệu trình 2 tháng, có tác dụng nhưng hạ TC tốt nhất, hạ TG không rõ ràng.
+ Sơn tra mao đông thanh sắc tễ:
Mao đông thanh 60g
Sơn tra 6g
Uống trong 24h, tác dụng hạ TC rõ.
+ Mạch an xung:
Sơn tra 15g
Mạch nha 15g
Mẫu đại 20g
+ Bạch kim hoàn:
Bạch phàn, uất kim số lượng như nhau. Sau khi bào chế tán bột mịn; mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần, 20 ngày là một liệu trình; nhưng người có bệnh dạ dày- hành tá tràng không được dùng.
+ Nhân trần hợp tễ:
Nhân trần: 15g
Cát căn: 15g
Trạch tả : 15g.
Chế tễ hoặc sắc mỗi ngày một thang, uống trong 2 tháng là 1 liệu trình. Thuốc có hiệu quả với TC, TG và bLP.
+ Tam thất phụ phương:
Tam thất 3g Thảo quyết minh 15g
Sơn tra 24g Trạch tả 18g.
Hổ trượng 15g
Ngày uống 1 thang, liệu trình 1 tháng có hiệu qủa với TC, TG.
3.2. Đơn phương Trung dược:+ Sinh đại hoàng: Vị đắng hàn; vào vị can, đại trường; có tả hạ kháng khuẩn kháng thũng nham, hạ huyết áp, hạ mỡ máu, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống, ngày 1 lần, uống liền 1 tháng sẽ có hiệu quả.
+ Trạch tả: Ngọt, hàn, vào thận - bàng quang, lợi niệu, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc nước uống.
+ Thảo quyết minh: Đắng, ngọt, lạnh; vào kinh can kinh thận có tác dụng hạ áp, hạ mỡ, kháng khuẩn, giảm béo.
- Liều dùng: 10 - 30g sắc uống.
+ Sơn tra: Chua, ngọt, hơi ôn vào tỳ, vị, can có tác dụng tiêu thực tích, tan huyết ứ, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống có hiệu quả.
+ Đan sâm: Đắng hơi ôn; vào tâm, can; có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, giảm mỡ, giảm béo, định tâm, an thần.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống.
+ Ngưu tất: Đắng, chua, bình; vào can, thận; có tác dụng tán huyết ứ, tiêu ung thũng, hạ mỡ máu, giảm mỡ.
- Liều dùng: 9 15g sắc uống.
+ Tang ký sinh: Bổ can, thận, mạnh gân cốt, trừ phong thấp thống kinh lạc, hạ mỡ.
+ Câu kỷ tử: Ngọt, bình; vào can, thận; tư thận nhuận phế, bổ can, minh mục, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 8 - 20g sắc uống.
+ Hà thủ ô: Đắng, ngọt, sáp, hơi ôn; vào can thận; tác dụng bổ can ích thận, dưỡng huyết, hạ mỡ, hạ đường máu.
- Liều dùng: 12 - 30g sắc uống.
+ Cúc hoa: Ngọt, lạnh; vào phế, can; có tác dụng sơ phong thanh nhiệt, minh mục, giải độc, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 9g sắc uống.
3.3. Thuốc kết hợp với thực trị, châm cứu theo phác đồ.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán thể bệnh theo YHCT:
4.1. Triệu chứng của bản hư.
- Âm hư (thận âm hư là chính): đầu choáng, ù tai, đau đầu, chi tê, miệng ráo họng khô, thất miên đa mị, ngũ tâm phiền nhiệt, lưng gối đau mỏi, gầy vàng tiện khô, lưỡi hồng ít rêu, mạch tế sác.
- Dương hư (thận dương hư là chủ): đau lưng mệt mỏi, sợ lạnh, chi lạnh, tinh thần bất thư, sắc mặt trắng nhợt, mắt và mặt da bủng, hư phù, đại tiện lỏng nát, lưỡi nhợt bệu, rêu trắng hoạt, mạch trầm nhược.
- Triệu chứng âm - dương lưỡng hư (Thận âm, thận dương hư là chính).
4.2. Triệu chứng của tiêu thực.
- Đàm trọc, béo phệ, huyền vậng, đầu nặng như đè, tâm quí, ngực tâm khí bĩ, đau âm ỉ trước tim, chi tê nặng, rêu hoạt nhờn, mạch huyền hoạt.
- Huyết ứ: (theo tiêu chuẩn Quốc tế - Bắc Kinh - 10 /1988).
. Chất lưỡi ám tía hoặc ban điểm ứ huyết.
. Mạch sáp hoặc vô mạch.
. Đau có vị trí nhất định (đau lâu, thiện hoặc cự án).
. Bụng huyết ứ, tụ tích .
. Ly kinh chỉ huyết (xuất huyết hoặc ngoại thương huyết ứ).
. Ban ứ ở niêm mạc, da.
. Mạch lạc dị thường.
.Thống kinh, bế kinh, máu đen thẫm.
. Cơ, da khô sáp.
. Tê mỏi nửa thân.
. Huyết ứ, đại tiện táo.
. XN: soi vi tuần hoàn có ứ trệ tuần hoàn huyết dịch.
-Đàm trọc hiệp huyết ứ.Kết hợp vừa có đàm trọc vừa có huyết ứ.
5. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả:
+ Hiệu qủa rõ:
- TC hạ được ³ 20%, TG hạ ³ 40%, HDL - C tăng ³ 10mg/dl.
- Chỉ số xơ hóa động mạch (TC - HDL - C/HDL - C) hạ xuống ³ 20%.
+ Có hiệu quả:
- TC hạ thấp 10 - 20%, TG hạ thấp 20 - 40%.
- HDL - C tăng cao 4 - 10 mg/dl.
- TC - HDL - C/ HDL - C hạ xuống 10 - 20%.
+ Không hiệu qủa: không thay đổi gì.
+ Ác tính hóa:
- TC tăng lên ³ 10%, TG tăng ³ 10%.
- HDL - C hạ xuống ³ 4mg/dl.
- TC - HDL - C / HDL - C tăng ³ 10%.
1.1. Định nghĩa:Mỡ máu tăng là khi mà hàm lượng của một thành phần hoặc là nhiều thành phần chất mỡ trong huyết tương vượt qúa giới hạn bình thường thì gọi là bệnh tăng mỡ máu, cũng có thể gọi là chứng mỡ máu cao (hyperlipidemia).
Do mỡ dạng hoà tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng mỡ - albumin cao (hyperlipoproteinemia).Mỡ máu tăng cao là bệnh do rối loạn chuyển hóa, thường là chứng bệnh nghiêm trọng và phức tạp...
Trên lâm sàng người ta chia làm 2 loại lớn là: nguyên phát và thứ phát.
1.2. Đặc điểm lâm sàng của tăng mỡ máu nguyên phát.
+ Triệu chứng không rõ ràng. Chẩn đoán bệnh chủ yếu là dựa vào xét nghiệm mỡ máu. Do mỡ máu cao dẫn đến xơ hoá mạch, động mạch kém đàn hồi; lâm sàng thường biểu hiện triệu chứng thiểu năng tuần hoàn vành, thiếu máu tâm cơ hoặc nhồi máu não do vữa xơ động mạch.
+ Kiểm tra mỡ máu thấy:
- Lipit toàn phần: cholesterol toàn phần (TC) tăng.
- Triglyxerit (TG) tăng.
- Điện di lipoprotein: VLDL (verlow density lipoproteine), LDL (low density lipoproteine), IDL (intermediate density lipoproteine), HDL (high density lipoproteine).
Chẩn đoán xác định là: một trong các thành phần mỡ máu ( TC, TG, VLDL, LDL, IDL) tăng, đồng thời HDL - C giảm.
1.3. Chẩn liệu Trung y.
- Trước tiên là khống chế chế độ ăn và luyện tập thể dục thích hợp.
- Khi cần thiết sẽ dùng thuốc, thuốc tân dược có hiệu quả giảm mỡ máu nhanh. Tuy nhiên còn nhiều tác dụng phụ, thậm chí có những biến chứng: buồn nôn, rối loạn tiêu hoá, ảnh hưởng chức năng gan, thận.
- Khi chẩn trị phải căn cứ vào biểu hiện khác nhau mà biện chứng dụng dược, vừa chú ý hạ thấp mỡ máu, vừa điều trị tích cực trạng thái bệnh mạch vành, mạch máu não. Đối với tăng mỡ máu thứ phát phải chữa vào nguyên nhân.
1.4. Nguyên nhân cơ chế bệnh:Theo quan niệm của YHCT thì nguyên nhân của bệnh lý tăng mỡ máu chủ yếu phụ thuộc các yếu tố sau đây:
+ Nhân tố thể chất:Là yếu tố bản tạng hoặc trạng thái thiên thắng hoặc thiên suy của vận hoá và chuyển hoá tạng phủ.
+ Ẩm thực thất tiết.
Phần nhiều do ăn nhiều chất béo và ngọt gây tổn hại đến tỳ vị, vận hóa thất điều, đàm trọc nội sinh, đàm trọc hóa mà phát sinh bệnh.
+ Tinh thần, thần chí thất thường.
Tinh thần kích thích hoặc biến đổi tính chí mà dẫn đến tư lự thương tỳ, nội tắc thương can, mộc vượng khắc thổ cũng thương tổn đến tỳ vị; tỳ thất kiện vận, thấp trọc xâm phạm mạch đạo mà phát bệnh; tinh thần kinh căng thẳng kết hợp. Điều quan trọng là cơ quan tạng phủ bị rối loạn về chức năng, công năng của 3 tạng ( tỳ, thận, can), trong đó tỳ, thận hư tổn là chủ yếu. Tỳ khí hư nhược, kiện vận thất điều, ẩm thực không thể hóa thành chất tinh vi ứ thành đàm trọc mà phát bệnh; hoặc do tuổi già thận suy, khí bất hóa tân, đàm trọc tích tụ ở trong dẫn đến tâm huyết ứ trở, mạch lạc kết trệ hoặc do can thận âm hư, hư hỏa thượng viêm, thiêu dịch thành đàm, đàm trọc nội trở mà phát bệnh.
Tóm lại: YHCT cho rằng bản chất bệnh là “Bản hư tiêu thực”:
. “Tiêu”: phần nhiều biểu hiện đàm trọc huyết ứ.
. “Bản”: công năng tạng phủ thất điều hoặc hư tổn chủ yếu do tỳ, thận hư tổn.
2. Biện chứng phương trị:
2.1. Đặc điểm: Bản chất và cơ chế bệnh đa phần thuộc “ bản hư tiêu thực”. Vì vậy trong điều trị phải kết hợp “tiêu - bản” kiêm trị, đó là nguyên tắc cơ bản. Trên lâm sàng phải căn cứ vào triệu chứng hoãn hay cấp để chọn phù chính là chủ (phù chính trước trừ tà sau, ngược lại trừ tà trước phù chính sau) hoặc tiêu bản đồng trị.
- Bản hư đa phần thuộc tỳ thận hư tổn.
- Tiêu thực đa phần là đàm trọc, huyết ứ.
- Trị bản chủ yếu là pháp ích thận bổ tỳ.
- Trị tiêu chủ yếu là khứ đàm trừ thấp, thanh lý thông hạ, hoạt huyết hóa ứ.
Ngoài ra, cần phải phối hợp chế độ ăn uống và vận động liệu pháp, khí công liệu pháp và dùng dưỡng sinh phòng bệnh.
2.2. Phương pháp điều trị .
2.2.1. Đàm thấp nội trở:
- Hình thể béo phệ, hay ăn các chất bổ, ngọt, béo; đầu nặng căng chướng; bụng ngực bĩ tức, buồn nôn hoặc nôn khan, miệng khô không khát, tứ chi gầy gò, chi thể nặng nề ma mộc (tê mỏi), bụng chướng, rêu lưỡi nhuận nhờn; mạch huyền hoạt.
- Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm trừ thấp.
Thường dùng “nhị trần thang” gia vị.
- Châm cứu: nội quan, phong long, trung quản, giải khê.
2.2.2. Đàm nhiệt phủ thực.
Hình thể tráng thực, đại tiện bí kết, ngực tâm phúc chướng, đầu căng chướng, thường cảm thấy đau giật, tính tình cáu gắt, miệng đắng tâm phiền, mặt hồng, mắt đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, chất lưỡi hồng, mạch huyền hoạt có lực.
- Phương pháp điều trị: thanh nhiệt, hóa đàm , thông phủ.
- Thuốc: hợp phương “tiểu hãm hung thang” và “tăng dịch thừa khí thang” gia vị.
- Châm cứu: Phế du, xích trạch, phong long, đại trường du, hợp cốc, khúc trì.
2.2.3.Tỳ thận dương hư: Lưng gối mỏi mệt, chi lạnh sợ hàn, tinh thần bất thư, mặt phù chi nặng, tứ chi thiểu lực, đại tiện lỏng nát, đái đêm nhiều, lưỡi bệu nhợt, rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng dày, mạch trầm trì.
- Thuốc: Ôn tỳ bổ thận.
Thường dùng “phụ tử lý trung thang” gia giảm.
- Châm: tỳ du, trung quản, chương môn, thần khuyết, túc tam lý, mệnh môn, quan nguyên.
2.2.4. Can thận âm hư:Lưng gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt, hình gầy, hay mệt, đầu choáng tai ù, tư hãn, miệng khô, họng ráo, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
- Thuốc: tư dưỡng can thận.
- Phương thuốc: “kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia vị.
- Châm cứu: can du, thận du, huyền chung, dương lăng tuyền.
2.2.5. Đàm ứ giao trở:
Tâm hung trung đông thống hữu hình thể béo, chi thể trầm nặng, tê mỏi; chất lưỡi tía xám hoặc có điểm ứ, ban ứ, rêu nhờn; mạch huyền hoạt hoặc mạch sáp.
- Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm - hoạt huyết khư ứ.
- Thuốc: “qua lâu giới bạch bán hạ thang” hợp phương “đào hồng tứ vật thang” gia vị.
- Châm cứu: trung quản, phong long, huyết hải, hành gian.
2.2.6. Can uất tỳ hư:Đau 2 mạng sườn, đau không cố định, mệt mỏi, ăn kém, tinh thần bất định, đại tiện lỏng nát, kinh nguyệt không đều, quanh vú chướng đau, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch huyền.
- Điều trị: sơ can giải uất- kiện tỳ dưỡng huyết.
- Thuốc: “tiêu giao tán” gia vị.
- Châm cứu: can du, tỳ du, chương môn, trung quản, thiên khu, túc tam lý.
3. Tư liệu tham khảo:
Điều trị mỡ máu tăng có rất nhiều phương pháp: thuốc phụ phương, đơn phương và thực trị học, khí công.
3.1. Trung dược phụ phương:+ Hạ mỡ hợp tễ:
Hà diệp 24g Tang ký sinh 15g
Hà thủ ô 12g Uất kim 15g
Sơn tra 24g Thảo quyết minh 15g.
Chế thành cao lỏng, chia 2 lần trong ngày, mỗi lần 25ml. Thuốc có tác dụng hạ thấp TC, bLP nhưng tác dụng không ổn định.
+ Giáng chỉ thang:
Hà thủ ô 15g
Thảo quyết minh 30g
Câu kỷ tử 10g
Sắc nước, chia 2 lần uống trong một ngày, liệu trình 2 tháng, có tác dụng nhưng hạ TC tốt nhất, hạ TG không rõ ràng.
+ Sơn tra mao đông thanh sắc tễ:
Mao đông thanh 60g
Sơn tra 6g
Uống trong 24h, tác dụng hạ TC rõ.
+ Mạch an xung:
Sơn tra 15g
Mạch nha 15g
Mẫu đại 20g
+ Bạch kim hoàn:
Bạch phàn, uất kim số lượng như nhau. Sau khi bào chế tán bột mịn; mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần, 20 ngày là một liệu trình; nhưng người có bệnh dạ dày- hành tá tràng không được dùng.
+ Nhân trần hợp tễ:
Nhân trần: 15g
Cát căn: 15g
Trạch tả : 15g.
Chế tễ hoặc sắc mỗi ngày một thang, uống trong 2 tháng là 1 liệu trình. Thuốc có hiệu quả với TC, TG và bLP.
+ Tam thất phụ phương:
Tam thất 3g Thảo quyết minh 15g
Sơn tra 24g Trạch tả 18g.
Hổ trượng 15g
Ngày uống 1 thang, liệu trình 1 tháng có hiệu qủa với TC, TG.
3.2. Đơn phương Trung dược:+ Sinh đại hoàng: Vị đắng hàn; vào vị can, đại trường; có tả hạ kháng khuẩn kháng thũng nham, hạ huyết áp, hạ mỡ máu, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống, ngày 1 lần, uống liền 1 tháng sẽ có hiệu quả.
+ Trạch tả: Ngọt, hàn, vào thận - bàng quang, lợi niệu, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc nước uống.
+ Thảo quyết minh: Đắng, ngọt, lạnh; vào kinh can kinh thận có tác dụng hạ áp, hạ mỡ, kháng khuẩn, giảm béo.
- Liều dùng: 10 - 30g sắc uống.
+ Sơn tra: Chua, ngọt, hơi ôn vào tỳ, vị, can có tác dụng tiêu thực tích, tan huyết ứ, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống có hiệu quả.
+ Đan sâm: Đắng hơi ôn; vào tâm, can; có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, giảm mỡ, giảm béo, định tâm, an thần.
- Liều dùng: 6 - 12g sắc uống.
+ Ngưu tất: Đắng, chua, bình; vào can, thận; có tác dụng tán huyết ứ, tiêu ung thũng, hạ mỡ máu, giảm mỡ.
- Liều dùng: 9 15g sắc uống.
+ Tang ký sinh: Bổ can, thận, mạnh gân cốt, trừ phong thấp thống kinh lạc, hạ mỡ.
+ Câu kỷ tử: Ngọt, bình; vào can, thận; tư thận nhuận phế, bổ can, minh mục, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 8 - 20g sắc uống.
+ Hà thủ ô: Đắng, ngọt, sáp, hơi ôn; vào can thận; tác dụng bổ can ích thận, dưỡng huyết, hạ mỡ, hạ đường máu.
- Liều dùng: 12 - 30g sắc uống.
+ Cúc hoa: Ngọt, lạnh; vào phế, can; có tác dụng sơ phong thanh nhiệt, minh mục, giải độc, hạ mỡ, giảm béo.
- Liều dùng: 6 - 9g sắc uống.
3.3. Thuốc kết hợp với thực trị, châm cứu theo phác đồ.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán thể bệnh theo YHCT:
4.1. Triệu chứng của bản hư.
- Âm hư (thận âm hư là chính): đầu choáng, ù tai, đau đầu, chi tê, miệng ráo họng khô, thất miên đa mị, ngũ tâm phiền nhiệt, lưng gối đau mỏi, gầy vàng tiện khô, lưỡi hồng ít rêu, mạch tế sác.
- Dương hư (thận dương hư là chủ): đau lưng mệt mỏi, sợ lạnh, chi lạnh, tinh thần bất thư, sắc mặt trắng nhợt, mắt và mặt da bủng, hư phù, đại tiện lỏng nát, lưỡi nhợt bệu, rêu trắng hoạt, mạch trầm nhược.
- Triệu chứng âm - dương lưỡng hư (Thận âm, thận dương hư là chính).
4.2. Triệu chứng của tiêu thực.
- Đàm trọc, béo phệ, huyền vậng, đầu nặng như đè, tâm quí, ngực tâm khí bĩ, đau âm ỉ trước tim, chi tê nặng, rêu hoạt nhờn, mạch huyền hoạt.
- Huyết ứ: (theo tiêu chuẩn Quốc tế - Bắc Kinh - 10 /1988).
. Chất lưỡi ám tía hoặc ban điểm ứ huyết.
. Mạch sáp hoặc vô mạch.
. Đau có vị trí nhất định (đau lâu, thiện hoặc cự án).
. Bụng huyết ứ, tụ tích .
. Ly kinh chỉ huyết (xuất huyết hoặc ngoại thương huyết ứ).
. Ban ứ ở niêm mạc, da.
. Mạch lạc dị thường.
.Thống kinh, bế kinh, máu đen thẫm.
. Cơ, da khô sáp.
. Tê mỏi nửa thân.
. Huyết ứ, đại tiện táo.
. XN: soi vi tuần hoàn có ứ trệ tuần hoàn huyết dịch.
-Đàm trọc hiệp huyết ứ.Kết hợp vừa có đàm trọc vừa có huyết ứ.
5. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả:
+ Hiệu qủa rõ:
- TC hạ được ³ 20%, TG hạ ³ 40%, HDL - C tăng ³ 10mg/dl.
- Chỉ số xơ hóa động mạch (TC - HDL - C/HDL - C) hạ xuống ³ 20%.
+ Có hiệu quả:
- TC hạ thấp 10 - 20%, TG hạ thấp 20 - 40%.
- HDL - C tăng cao 4 - 10 mg/dl.
- TC - HDL - C/ HDL - C hạ xuống 10 - 20%.
+ Không hiệu qủa: không thay đổi gì.
+ Ác tính hóa:
- TC tăng lên ³ 10%, TG tăng ³ 10%.
- HDL - C hạ xuống ³ 4mg/dl.
- TC - HDL - C / HDL - C tăng ³ 10%.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)