2. Liệt dương do dương khí của tỳ vị không vượng
Có người tinh lạnh, tinh loãng, tuy cũng có thể giao hợp, nhưng nửa đường đứt gánh hay “vừa đến chợ đã hết tiền”, người ta cho là hỏa mệnh môn suy, ai hay đó là do dương khí của tỳ vị không vượng.
Tỳ vị thuộc thổ, mà thổ sinh từ hỏa, dương khí của tỳ vị không vượng tựa hồ như hỏa mệnh môn suy. Đâu biết rằng hỏa của mệnh môn là hỏa tiên thiên, còn thổ của tỳ vị là thổ hậu thiên. Thổ hậu thiên vốn có gốc nơi hỏa tiên thiên, nếu hỏa tiên thiên không vượng thì thổ hậu thiên không thể sinh. Bổ hỏa tiên thiên chính là để sinh thổ hậu thiên. Thổ của tỳ vị tuy gốc là hậu thiên, nhưng kỳ thực bên trong không phải không có khí tiên thiên. Hỏa mệnh môn mà hàn, thì khí tiên thiên của tỳ vị làm sao sinh được. Mệnh môn đã không thể sinh khí tiên thiên của tỳ vị, trong khi khí hậu thiên của tỳ vị mỗi lúc càng thêm suy vi, mà muốn cho khí vượng để có thể cố sáp được tinh, cho tinh đậm đặc chứ không loãng nhạt thì làm sao có thể được?
Phép điều trị tất phải bổ hỏa tiên thiên của mệnh môn, đồng thời bổ thổ hậu thiên của tỳ vị, thì thổ khí đã vượng mà hỏa khí lại chẳng suy, khiến cho khí ấm áp mà tinh đậm đặc vậy.
Phương thuốc dùng Hỏa Thổ ký tế đan:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Sơn thù du 1 lượng, Thỏ ty tử 1 lượng, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ.
Sắc uống liên tục 10 thang thời tinh khí ấm áp. Uống được 3 tháng thời vĩnh viễn không suy nhược trở lại.
Phương này kiện tỳ vị thổ đồng thời bổ mệnh môn hỏa, nên tránh được các tai họa hỏa bốc lên quá cao hay thổ nhiễm phải hàn thấp. Thấp khí khử được thì tinh thuần chất, hàn khí khử được thì tinh ấm áp. Hàn thấp đã trừ, âm khí tiêu vong thì dương khí mạnh mẽ, đâu phải hổ thẹn vì dương sự yếu kém nữa.
3. Liệt dương do tâm hỏa bế tắc
Có người do lúc thiếu thời gặp chuyện không toại nguyện, uất ức sầu muộn dẫn đến dương vật yếu mềm, không nhấc lên nổi, hoặc có cương mà không cứng. Người ta cho là hỏa của mệnh môn suy, ai hay đó chính là do tâm hỏa bế tắc.
Thận là chức quan tác cường, kỹ xảo từ đó mà ra, là nơi tàng trữ tinh và chí (theo Nội Kinh) . Tâm chí không thỏa mãn thì dương khí không thư thái. Dương khí chính là chân hỏa trong thận vậy. Chân hỏa trong thận tất phải vâng mệnh của tâm. Tâm hỏa mà động thì thận hỏa ứng liền. Tâm hỏa bị đè nén uất ức, không khai thông thì thận hỏa tuy vượng, cũng không thể đáp ứng, tựa như hỏa yếu mà thật ra không phải hỏa yếu.
Điều trị không được dùng phương pháp trợ mệnh môn hỏa. Nếu nhầm dùng trợ mệnh môn hỏa thời hỏa vượng ở hạ tiêu mà khí ức uất không được tuyên thông, tất dẫn đến thảm họa dương vượng âm tiêu, biến sinh chứng ung thư không thể cứu được. Nên tuyên thông uất ức trong tâm, khiến tâm ý thư thái cởi mở, dương khí được khai thông thời chứng liệt dương liền khỏi.
Dùng phương Tuyên chí thang như sau:
Phục linh 5 chỉ, Xương bồ 1 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Bạch truật 3 chỉ, Sinh táo nhân 5 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Sài hồ 1 chỉ, Đương quy 3 chỉ, Nhân sâm 1 chỉ, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 3 chỉ. Sắc uống 2 thang tâm chí liền thư thái, uống thêm 2 thang dương sự cất lên ngay, không cần uống nhiều. Bệnh này nguyên nhân do hỏa bế tắc mà sanh khí muộn phiền buồn bực, chứ tuyệt nhiên không phải do hỏa hàn mà lửa tắt. Vì thế, chỉ cần thổi một vài lần là hỏa bùng lên, không cần bổ hỏa nhiều mới đầy đủ. Nhưng tiếc thay, phần lớn người đời đã chữa nhầm như vậy!
(còn nữa)
Phan Lang
Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015
Luận trị liệt dương theo “Biện chứng kỳ văn”
1. Liệt dương do tâm khí bất túc
Người đang có cảm hứng muốn ân ái, dương vật bỗng mềm nhũn, không cương cứng được, tìm đủ cách kích thích, cuối cùng vẫn không thể giao hợp được. Có người cho đó là do hoả mệnh môn suy. Có mấy ai biết được thực ra là do tâm khí bất túc?Nói chung, người có thể giao hợp kéo dài không suy là nhờ sức của mệnh môn tướng hoả sung mãn. Dương vật mềm yếu không cương, đúng là mệnh môn hoả suy. Như vậy, cớ sao lại bảo là do tâm khí bất túc?
Nên biết quân hoả của tâm động thì tướng hoả của mệnh môn mới theo đó mà động. Tướng hoả không thể vượt qua thay thế quân hoả mà hành sự. Quân hoả vượng mà tướng hoả lại chẳng suy, cho nên giao hợp được lâu mà không xuất tinh. Nếu quân hoả suy trước, không thể tự chủ, dù tướng hoả có thúc giục bên cạnh thì sự suy yếu vẫn là chủ. ý vua không mạnh mẽ cứng rắn thì thần tướng làm sao tự phấn chấn lên được. Cho dù thần tướng có cưỡng ép vua ra lệnh cho chư hầu, hoả động nhưng trong tâm chỉ rung rung ở thế không thể chủ động, thì có nghe quyền lệnh của thần tướng cũng tạm cương lên trong giây lát, chứ không thể giao hợp kéo dài cho thoả lòng hoan lạc.
Vì vậy trị bệnh liệt dương tất phải trên thời bổ tâm, dưới thời bổ thận. Tâm thận đều vượng sau đó mới bổ tướng hoả của mệnh môn. Giống như vua sáng tôi hiền thì vận nước dài lâu, tâm tĩnh lặng mà thận khởi động thì chuyện “nhất dạ đế vương” mới bền vững vậy.
Trong trường hợp này dùng bài thuốc “Khởi dương thang” gồm có:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Ba kích thiên 1 lượng, Hoàng kỳ 5 chỉ, Bắc ngũ vị 1 chỉ, Thục địa 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Bá tử nhân 1 chỉ, Sơn thù du 3 chỉ. Sắc uống.
Uống liên tục 4 thang, thấy dương cương. Uống tiếp 4 thang thì dương vượng. Uống 4 thang nữa tất có thể giao hợp lâu mà không thất bại. Nếu uống kéo dài được 3 tháng thì thấy người đổi khác hẳn, chẳng những xương cốt nặng chắc mà cả thân người như được tái tạo lại vậy.
Phương thuốc này hay ở chỗ đại bổ khí của tâm thận, không hoàn toàn ôn hoả của mệnh môn mà hoả khí tự vượng. Người đời không biết rằng bổ tâm để sinh hoả thì tâm khí vốn đã suy khi gặp hoả vượng sẽ gây hại tâm. Lại không biết bổ thận để sinh hoả thì thận thuỷ vốn đã thiếu khi gặp hoả vượng sẽ làm tổn thận. Tâm bị hại, thận bị tổn, tuy hoả vượng phỏng có ích gì, hoả vượng chỉ tổ thiêu đốt âm huyết khô táo, ắt dẫn đến tình thế dương vượng âm tiêu không thể cứu được. Đạo của ta vốn có phương thuốc trợ dương, nhân vì ngại kẻ hiền trí cậy vào để hưởng lạc, cho nên thánh nhân đời trước giấu đi không nói ra. Nhưng thật đáng tiếc, nền nếp xã hội ngày càng suy bại, các giới quan lại thượng lưu luôn khẩn cầu bọn phương sĩ chế luyện các bài thuốc bằng kim loại đất đá cho uống, dẫn đến chết người vô số kể. Thấy thế, thầy ta rất đỗi xót thương, cho nên chợt bàn đến chứng âm nuy (liệt dương) mà truyền lại phương thuốc này. Ta chẳng dám giấu, do vậy ghi ra đầy đủ, cấp cho những kẻ đang sửa soạn các phương thuốc kim loại đất đá để rước hoạ mất mạng, nếu may mà uống được phương thuốc này đạt được hiệu quả sinh tân trợ dương thì quý lắm thay!
(Còn nữa)
Phan Lang
Người đang có cảm hứng muốn ân ái, dương vật bỗng mềm nhũn, không cương cứng được, tìm đủ cách kích thích, cuối cùng vẫn không thể giao hợp được. Có người cho đó là do hoả mệnh môn suy. Có mấy ai biết được thực ra là do tâm khí bất túc?Nói chung, người có thể giao hợp kéo dài không suy là nhờ sức của mệnh môn tướng hoả sung mãn. Dương vật mềm yếu không cương, đúng là mệnh môn hoả suy. Như vậy, cớ sao lại bảo là do tâm khí bất túc?
Nên biết quân hoả của tâm động thì tướng hoả của mệnh môn mới theo đó mà động. Tướng hoả không thể vượt qua thay thế quân hoả mà hành sự. Quân hoả vượng mà tướng hoả lại chẳng suy, cho nên giao hợp được lâu mà không xuất tinh. Nếu quân hoả suy trước, không thể tự chủ, dù tướng hoả có thúc giục bên cạnh thì sự suy yếu vẫn là chủ. ý vua không mạnh mẽ cứng rắn thì thần tướng làm sao tự phấn chấn lên được. Cho dù thần tướng có cưỡng ép vua ra lệnh cho chư hầu, hoả động nhưng trong tâm chỉ rung rung ở thế không thể chủ động, thì có nghe quyền lệnh của thần tướng cũng tạm cương lên trong giây lát, chứ không thể giao hợp kéo dài cho thoả lòng hoan lạc.
Vì vậy trị bệnh liệt dương tất phải trên thời bổ tâm, dưới thời bổ thận. Tâm thận đều vượng sau đó mới bổ tướng hoả của mệnh môn. Giống như vua sáng tôi hiền thì vận nước dài lâu, tâm tĩnh lặng mà thận khởi động thì chuyện “nhất dạ đế vương” mới bền vững vậy.
Trong trường hợp này dùng bài thuốc “Khởi dương thang” gồm có:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Ba kích thiên 1 lượng, Hoàng kỳ 5 chỉ, Bắc ngũ vị 1 chỉ, Thục địa 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Bá tử nhân 1 chỉ, Sơn thù du 3 chỉ. Sắc uống.
Uống liên tục 4 thang, thấy dương cương. Uống tiếp 4 thang thì dương vượng. Uống 4 thang nữa tất có thể giao hợp lâu mà không thất bại. Nếu uống kéo dài được 3 tháng thì thấy người đổi khác hẳn, chẳng những xương cốt nặng chắc mà cả thân người như được tái tạo lại vậy.
Phương thuốc này hay ở chỗ đại bổ khí của tâm thận, không hoàn toàn ôn hoả của mệnh môn mà hoả khí tự vượng. Người đời không biết rằng bổ tâm để sinh hoả thì tâm khí vốn đã suy khi gặp hoả vượng sẽ gây hại tâm. Lại không biết bổ thận để sinh hoả thì thận thuỷ vốn đã thiếu khi gặp hoả vượng sẽ làm tổn thận. Tâm bị hại, thận bị tổn, tuy hoả vượng phỏng có ích gì, hoả vượng chỉ tổ thiêu đốt âm huyết khô táo, ắt dẫn đến tình thế dương vượng âm tiêu không thể cứu được. Đạo của ta vốn có phương thuốc trợ dương, nhân vì ngại kẻ hiền trí cậy vào để hưởng lạc, cho nên thánh nhân đời trước giấu đi không nói ra. Nhưng thật đáng tiếc, nền nếp xã hội ngày càng suy bại, các giới quan lại thượng lưu luôn khẩn cầu bọn phương sĩ chế luyện các bài thuốc bằng kim loại đất đá cho uống, dẫn đến chết người vô số kể. Thấy thế, thầy ta rất đỗi xót thương, cho nên chợt bàn đến chứng âm nuy (liệt dương) mà truyền lại phương thuốc này. Ta chẳng dám giấu, do vậy ghi ra đầy đủ, cấp cho những kẻ đang sửa soạn các phương thuốc kim loại đất đá để rước hoạ mất mạng, nếu may mà uống được phương thuốc này đạt được hiệu quả sinh tân trợ dương thì quý lắm thay!
(Còn nữa)
Phan Lang
Đoán bệnh
Mặt
Sắc mặt bóng mượt sáng tươi
Là sức khỏe tốt, trong người yên an
Sắc mặt thấy ánh nhợt vàng
Là tỳ hư thấp ở phần trong thân
Mặt trắng nhợt, máu hư hàn
Mặt đỏ là nhiệt toàn phần thể thân
Da mặt thấy sắc nhợt xanh
Là phong ứ huyết do hàn sinh ra.
Mắt
Mắt trắng nhợt, hàn đấy mà
Đỏ ngầu con mắt ắt là nhiệt tâm
Mắt xanh ngà, bệnh về gan
Bệnh tỳ thường thấy mắt vàng loáng qua
Mắt trắng đục, phế đấy mà
Vẩn đen lòng trắng, ắt là thận thôi
Mắt đục đờ đẫn rã rời
Thần kinh suy thoái, chơi vơi thể người.
Môi
Người khỏe, đôi môi sáng tươi
Môi khô đỏ rực, trong người nhiệt tâm
Huyết hư, môi nhợt trắng ngần
Thận hư thường thấy môi thâm khô rời
Luôn luôn mấp máy đôi môi
Tâm thần bạc nhược làm đời liêu xiêu.
Lưỡi
Lưỡi đỏ, vàng kệch có rêu
Là bệnh nóng nhiệt quá nhiều trong thân
Lưỡi có rêu trắng, hư hàn
Tỳ hư, thấy lưỡi có hằn vết răng
Đầu lưỡi đỏ là nhiệt tâm
Người thiếu tân dịch, thấy phần lưỡi khô
Lưỡi có rêu đen rất lo
Là bệnh gan thận nguy cơ đến rồi.
Nhìn sắc chẩn đoán con người
Còn nghe lời nói, thở hơi mạch ngoài
Rồi mới kết luận gì đây
Biểu, lý, hàn, nhiệt… không ngoài âm dương.
Trần Văn Giang
Mạch học theo âm dương ngũ hành
Một trong bốn phương pháp để chẩn bệnh của người xưa là Vọng, Văn, Vấn, Thiết - nghĩa là trông sắc thái bên ngoài của người bệnh; nghe hơi thở, tiếng nói của người bệnh; hỏi triệu chứng, lịch sử bệnh và bắt mạch cho người bệnh để biết bệnh ở biểu hay lý, hàn hay nhiệt, hư hay thực, âm hay dương…
Vị trí bắt mạch
Y học cổ truyền và y học hiện đại đều thống nhất rằng: Vị trí bắt mạch chính là thốn khẩu. Sách Nam Kinh nói rằng: “Thốn khẩu là chỗ tập trung tất cả các mạch. Nó là động mạch của Kinh thủ Thái âm (tâm) mà cũng là chỗ bắt đầu và kết thúc của mạch Thốn, Quan, Xích; là điểm chung của ngũ tạng, lục phủ; là chỗ mạch đi nông nhất. Chính vì vậy “thốn khẩu” được lấy làm nơi bắt mạch”.
Mạch ở thốn khẩu chia làm 3 bộ ở mỗi bên tay, tương ứng với ba đầu ngón tay (của bàn tay đối diện hoặc bàn tay phía đối diện của người thầy thuốc) gồm: ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út. Đó là bộ Xích, bộ Quan và bộ Thốn.
Phương pháp bắt mạch
Thầy thuốc đặt ngón tay giữa của mình vào chỗ lồi xương trụ ở mặt sấp cổ tay người bệnh phía đối diện, rồi kéo nửa vòng qua mặt ngửa cổ tay người bệnh đến chỗ dọc theo ngón tay cái, đó là vị trí bắt mạch; dưới ngón giữa thầy thuốc là bộ Quan, dưới ngón trỏ là bộ Xích, dưới ngón áp út là bộ Thốn (ba ngón tay thầy thuốc sát nhau).
Nếu mình tự bắt mạch cho mình thì tay phải 3 ngón: trỏ, giữa, áp út đặt lên thốn khẩu tay trái (sao cho đầu ngón áp út chạm vào đường chỉ cườm tay là đúng).
Mạch đều có cả hai bên tay. Ba bộ bên trái, ba bộ bên phải kể theo thứ tự từ trong ra đầu ngón tay:
Tay trái
1. Tả Xích thuộc thận và bàng quang thuộc Thuỷ
2. Tả Quan thuộc gan và mật, hành Mộc.
3. Tả Thốn thuộc tâm và tiểu tràng, hành Hoả.
Tay phải
1. Hữu Xích thuộc mệnh Môn và Tam tiêu, hành Hoả
2. Hữu Quan thuộc Tỳ và Vị, hành Thổ.
3. Hữu Thốn thuộc Phế và đại tràng, hành Kim.
Dùng cảm giác của 3 đầu ngón tay để cảm nhận và dò mạch. Có 3 mức độ ấn ngón tay khi bắt mạch:
Ấn nhẹ: ước lượng sức nặng ba ngón tay bằng ba hạt đỗ xanh đã thấy mạch đập gọi là mạch Phù.
Ấn vừa: sức nặng ba đầu ngón tay bằng 6 hạt đậu thấy mạch đập gọi là mạch Hoạt.
Ấn mạnh: sức mạnh ba đầu ngón tay bằng 9 hạt đậu mới thấy mạch đập, mạch đi sát xương gọi là mạch Trầm.
Bắt cả ba bộ mạch Thốn, Quan, Xích cùng một lúc để dò xét tình trạng âm dương, khí huyết, thịnh suy của người bệnh; cảm nhận tình trạng vượng, suy của Thủy – Hỏa để đánh giá chung. Sau đó bắt từng bộ mạch, so sánh cả hai bên tình trạng bệnh từng tạng phủ. Cuối cùng là tổng hợp việc chẩn đoán để biết rõ bệnh tình cụ thể.
• Thời gian bắt mạch: Ngoại trừ những trường hợp bệnh nặng hoặc cấp cứu, còn lại thời gian xem mạch tốt nhất là vào buổi sáng sớm - lúc âm chưa tan hết, dương chưa thịnh hẳn, bệnh nhân còn yên tĩnh, chưa ăn sáng nên dễ dò xét thịnh, suy, tà khí, chính khí.
• Căn cứ đo nhịp mạch: Y học hiện đại xác định tần số nhịp đập của mạch theo đồng hồ còn y học cổ truyền có cách đo sinh học là so sánh tương đối giữa mạch thầy thuốc với mạch bệnh nhân (thầy thuốc không khoẻ mạnh không được bắt mạch nếu đo theo nhịp so sánh).
Nhịp mạch bình thường là mạch đập 4 đến 5 lần trong một nhịp thở bình thường của thầy thuốc (gồm 1 lần hít vào và 1 lần thở ra), tương đương với 70 đến 80 lần đập trong một phút.
Nhịp mạch đập chậm là mạch đập dưới 4 lần trong 1 nhịp thở, nghĩa là dưới 70 lần đập trong 1 phút.
Nhịp mạch đập nhanh là mạch đập trên 5 lần trong 1 nhịp thở, nghĩa là số lần đập trên 80 lần trong 1 phút.
• Mạch bình thường: Ngoài số lần đập bình thường như nói trên thì mạch phải thấy rõ trên cả 3 bộ mạch: Thốn, Quan, Xích, nhịp nhàng qua lại đều nhau, không rộng - không hẹp, không cao - không thấp; có khí, có thần, có lực. Người già mạch chậm, trẻ nhỏ mạch nhanh hơn; người béo mạch trầm, người gầy mạch phù. Mùa xuân mạch huyền, mùa hạ mạch hồng, mùa đông mạch trầm.
• Mạch bệnh lý: Khi bị bệnh, mạch sẽ thay đổi tần số (nhanh hoặc chậm), cường độ (mạnh hay yếu) về nông sâu (phù hay trầm)…
Mạch phù (nông), mạch đại (không đều), mạch hoạt (quá lưu loát), mạch xác (quá nhanh)… thuộc dương chứng. Mạch trầm (chìm), mạch tế (nhanh nhỏ), mạch vi (nhỏ, yếu), mạch sáp (mạch đi khó khăn)… thuộc âm chứng.
Xuyên Sơn
Nét độc đáo trong “Thương hàn tam thập thất trùy” của Tuệ Tĩnh
Nét độc đáo trong “Thương hàn tam thập thất trùy” của Tuệ Tĩnh
“Hồng nghĩa giác tư y thư” là bộ sách nguyên được Thánh y Tuệ Tĩnh viết từ thế kỷ XIV. Sách đã được nhiều người đời sau chỉnh lý, bổ sung mà quy mô nhất là lần được vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương cho các quan Thái y viện và các quan Nội phủ chỉnh lý, bổ sung hai lần; khắc in hai lần bằng chữ Hán Nôm vào năm 1717 và 1723. Chúa Trịnh ban tên “Sách Y học do thầy Hồng Nghĩa trước tác”. Bộ “Hồng nghĩa giác tư y thư” được phòng Tu thư huấn luyện Viện Đông y dịch; GS.L/y Nguyễn Sĩ Lâm hiệu đính và chú thích; Nhà xuất bản Y học xuất bản tại Hà Nội năm 1978.
Quan niệm về thương hàn trong “Hồng nghĩa giác tư y thư ”
Trong “Hồng nghĩa giác tư y thư ”, phần VI có chép “Thương hàn cách pháp trị lệ”, từ bộ “Thọ thế bảo nguyên” (Giữ được tuổi trời) của Cung Đình Hiền, tự Tử Tài, hiệu Vân Lâm, tên thường gọi là Cung Vân Lâm. Ông là người huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, từng đỗ đầu trong kỳ thi tuyển vào Thái y viện (Y lâm giải nguyên), làm chức Thái y viện sứ mục, đời nhà Minh. Ngoài bộ “Thọ thế”, ông còn sáng tác: Vạn bệnh hồi xuân (1587), Vân Lâm thần khóa, Cổ kim y giám… đều là các bộ sách y học nổi tiếng. Bộ “Thọ thế bảo nguyên” có 10 quyển (viết vào khoảng thế kỷ XVII), được nhiều thế hệ lương y Việt Nam nghiên cứu, sử dụng, làm sách gia bảo. Cung Đình Hiền nêu “37 nghiệm phương để trị thương hàn theo phương pháp đơn giản của riêng mình” (Thương hàn cách pháp trị lệ – Quyển 2). Ông không theo cổ phương rất phức tạp của Trương Trọng Cảnh. Về bệnh thương hàn, có lẽ ông cũng quan niệm như trong Hoàng đế Nội kinh (sách kinh điển của Đông y): “Tất cả các bệnh phát nóng đều là một loại thương hàn” (Nhiệt bệnh giai thương hàn chi loại giã). Ta thấy trong 37 phương này, có phương dùng chữa bệnh chính thương hàn mùa đông, ngoại cảm các mùa, thời khí (đại đầu ôn), dịch lệ, trúng thực, lao lực quá mức, sốt phát ban, các chứng xuất huyết, nội thương thất tình, cước khí…
“Thương hàn cách pháp trị lệ” được Lão Mai Am rất tâm đắc và đưa vào “Hồng nghĩa giác tư y thư ” bằng thể phú với tên “Thương hàn tam thập thất trùy pháp”, nghĩa là “Dùng 37 phương trị bệnh thương hàn (sốt nóng) có thêm trùy pháp”.
So với bản dịch “Thương hàn cách pháp trị lệ” của Viện Đông y với bản “Thọ thế bảo nguyên” của Cung Đình Hiền, trong phần thương hàn chúng tôi thấy:
- Tên 37 phương thang và cách gia giảm vẫn giữ nguyên.
- Có thêm bớt một vài vị thuốc trong một số phương thang và có một số phương, phần gia giảm được đưa luôn vào trùy pháp như “Sơ tà thực biểu thang”, chữa chứng thương phong về mùa đông; “Sài cát giải cơ thang” chữa chứng túc dương minh vị; “Xung hòa linh bảo ẩm” chữa thương hàn lưỡng cảm, biểu lý cùng bệnh… Không rõ đây là chủ ý của Lão Mai Am hay do sự lầm lẫn trong sao lục?
- Cái độc đáo ở đây là phần trùy pháp được Lão Mai Am thêm vào.
Sử dụng trùy pháp là nét độc đáo của Tuệ Tĩnh
Trùy pháp là phương pháp phụ thêm (gia thêm) vào phương thang một số vị thuốc có tại chỗ. Trước khi đem sắc uống hay thuốc sắc xong rồi hòa thêm vào uống để tăng hiệu quả chữa bệnh. Đây cũng là kinh nghiệm độc đáo trong điều trị, được tích lũy lâu đời trong việc phối hợp dùng thuốc Nam, Bắc của ông cha ta, như thang “Lục thần thông giải” để chữa bệnh thời khí dịch lệ, đau đầu, nóng mình thì gia thêm một nắm đạm đậu xị và hai củ hành vào sắc uống; thang “Tiêu ban Thanh đại ẩm” chữa nhiệt tà vào lý, phát ban đỏ, gia thêm một muỗng giấm khi uống; “Lục nhất thuận khí thang” chữa nhiệt đã truyền vào lý, đại tiện rắn kết, miệng ráo, họng khô, nói sảng, da vàng, phát ban, sốt cơn, nhiệt quyết, tự ra mồ hôi thì gia 3 thìa nước gỉ sắt để uống; “Như thần Bạch hổ thang” chữa chứng mình nóng, khát nước, ra mồ hôi mà vẫn phát nóng, gia thêm 10 lá tre non vào sắc uống…
Các vị thuốc thêm vào là thuốc có tại địa phương, phần lớn dưới dạng thuốc Nam tươi sống như nước gừng, nước cây tre, lá tre non, nước ngó sen, củ hành, rượu, giấm, muối ăn, hoạt thạch, mạch nha, mật ong, nước lá ngải cứu, nước cây tô mộc, nước đồng tiện… ở đây, Lão Mai Am đã sử dụng một số phương thang trị bệnh có hiệu quả lâu đời của Đông y, gia thêm vào một số vị thuốc Nam đặc trị của nhân dân ta thành một lối chữa bệnh tâm đắc.
Hiện nay, chúng ta đã thừa kế và phát huy mạnh mẽ sở trường của lối chữa bệnh này và cũng đã có hàng trăm trùy pháp được áp dụng hiệu quả xưa nay. Như bị bệnh hen suyễn, ngoài dùng thuốc thang để hạ khí tiêu đàm, còn thêm nước trầu không với ít mật ong hòa uống; bị cảm nước, cảm mưa lạnh, nóng sốt, ho thì ngoài việc dùng thuốc tân ôn giải biểu uống bên trong còn phải cho một nồi lá xông có nhiều tinh dầu như lá tía tô, lá ngũ trảo, lá bạc hà, lá sả… cho ra mồ hôi, thông xoang mũi, thông phế quản, diệt vi khuẩn.
Phương pháp này, GS Can Tổ Vọng (Đại học Trung y Nam Kinh) trong cuốn “Can Tổ Vọng y thoại” xuất bản 1996 đã viết: “Thày thuốc Trung Quốc xưa kia cũng có sử dụng “dẫn tử” là những loại dược liệu tươi sống, lấy tại chỗ để dẫn thuốc trong phương thang. Đây là bí quyết để làm tăng hiệu quả chữa bệnh của thang thuốc. Phép sử dụng này bị mất dần và đến khoảng thời nhà Thanh thì không còn nữa”.
Dẫn tử có thể cũng gần giống như trùy pháp của nước ta. Sử dụng trùy pháp rất phù hợp với phương châm “Thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ”. Nếu chúng ta biết sử dụng, phát huy nó sẽ là thế mạnh của nền y học cổ truyền nước ta.
Quan niệm thương hàn là các bệnh có nóng sốt và nêu 37 phương thang để chữa trị trong Tuệ Tĩnh là rất khoa học. Đem so sánh với các bệnh “có sốt” của y học hiện đại ta thấy có nhiều điểm gần giống nhau, chỉ khác tên gọi. Có những bệnh sốt mà y học đến nay vẫn chưa rõ được nguyên nhân.
Hồng nghĩa giác tư y thư là bộ sách y học cổ truyền tinh gọn “hay nhất, quý nhất, xưa nhất và được dịch thuật, chú thích rõ ràng nhất” của Đông y Việt Nam. Chúng tôi rất mong bộ sách quý này sớm được nghiên cứu đưa vào làm giáo trình giảng dạy và bồi dưỡng cho thầy thuốc Đông y Việt Nam.
Những nét cơ bản về châm cứu chữa bệnh trong Nội kinh, Nạn kinh (kỳ 1)
Châm cứu chữa bệnh là phương pháp điều trị có cơ sở lí luận (kinh lạc, huyệt khí gắn liền với tạng phủ chi thể); có công vụ riêng (kim, ngải), có cách châm cụ thể với tác dụng và cơ chế tác dụng tuy đơn giản song vẫn chỉ đạo cho việc dùng châm cứu chữa các bệnh cụ thể với tên gọi cổ.
Y học cổ truyền cho rằng: cơ thể gồm có lục phủ, ngũ tạng, ngũ thế (mạch, da, cơ, cân, cốt), ngũ qua (thị giác – mắt, thính giác – tai, khứu giác – mùi, vị giác – lưỡi, xúc giác – da), cửu khiếu (2 lỗ mũi, 2 lỗ mắt, 2 lỗ tai, miệng, tiền âm, hậu âm). Cơ thể được nuôi dưỡng bằng huyết khí tuần hoàn trong kinh mạch. Cơ thể hoạt động được nhờ nguyên khí chân khí, ở tạng phủ được gọi là khí của tạng phủ, ở kinh mạch là kinh khí, mạch khí, ở huyệt là thần khí. Khi khí thăng giáng xuất nhập bình thường (khí hòa) thì ngũ tạng yên, huyết khí hòa lợi, tinh thần yên tĩnh Khi huyết hòa thì kinh mạch thông sướng, tuần hoàn không bị trở ngại âm dương được duy trì, cân cốt được nuôi dưỡng, các khớp được linh lợi.Do khí huyết không điều hòa nên có thể sinh bách bệnh, vì vậy phải làm cho kinh toại (các ống mạch) thông sướng. Cơ chế sinh bệnh cơ bản là có tà khí tác động và chính khí hư (tà khí thịnh tắc thực, tinh khí đoạt tắc hư). Nguyên tắc chữa bệnh là: Cóhư thì bổ hư, có thực thì tả thực. Vận dụng vào châm cứu thì nguyên tắc đó là: “Phàm dụng châm giả, hư tắc thực chi (hư thì làm cho đầy đủ), mã tắc tiết chi (đầy thì làm cho vơi đi), uyển trần tắc trừ chi (ứ trệ lâu thì loại bỏ đi), thịnh tắc hư chi (thịnh thì bỏ phần thịnh đi) (Linh khu).
Thủ thuật châm cứu
Thủ thuật cơ bản là châm kim vào huyệt đại diện cho tổ chức bệnh, tiến mũi kim đến sát đúng nơi có bệnh, trên cơ sở đó làm thủ thuật bả (để bổ hư), hoặc tả (để tả thực). Mục đích của thủ thuật bổ tả là để “điều khí”, “khí hòa thì huyết hòa, huyết hòa thì kinh mạch thông sướng âm dương được duy trì, gân xương được nuôi dưỡng, các khớp được linh lợi”.Để tiến hành châm cứu cần xem bệnh ở đâu để đưa mũi kim đến đó với mục đích là “bệnh ở mạch thì điều huyết (mạch là phủ của huyết), chỉ châm đến sát mạch, không được châm nông vì làm tổn thương da, không được châm sâu vì gây tổn thương cơ nhục; bệnh ở huyết thì điều lạc (nơi huyết lưu hành) chỉ châm đến lạc, bệnh ở khí thì điều vệ (vệ là chủ của khí), chỉ châm ở da, không châm sâu làm tổn thương cơ nhục, bệnh ở tấu lý không châm sâu làm tổn thương da, bệnh ở nhục thì điều phân nhục, chỉ châm đến phân nhục, không châm nông làm tổn thương mạch, không châm sâu làm tổn thương cân, bệnh ở cân thì điều cân, chỉ châm đến sát cân, không châm nông làm tổn thương cơ nhục, không châm sâu làm tổn thương cốt, bệnh ở cốt thì điều cốt, chỉ châm đến sát xương, không châm nông làm tổn thương cân, không châm sâu làm tổn thương tủy, người có chứng tý có đau ở nhiều chỗ khác nhau, châm vào chỗ đau và sâu đến phân nhục” (Tố vấn). Tóm lại là: “bệnh có ở nông, ở sâu, bệnh ở nông châm nông, bệnh ở sâu châm sâu và châm đến nơi có bệnh là đúng nhất. Châm quá sâu sẽ gây nội thương, châm quá nông sẽ gây ứ trệ ở ngoài tà khí nhân lúc có ứ trệ này mà vào lý sâu hơn. Châm nông châm sâu không đúng, không những không chữa được bệnh, ngược lại thành đại họa, nếu châm sâu quá vào ngũ tạng thì sinh đại bệnh” (Tố vấn).
Chọn huyệt
Cần chọn huyệt đại diện cho nơi bị bệnh. Cụ thể:
* Chữa bệnh tạng phủ: chọn huyệt nguyên của kinh tạng phủ đó, chọn huyệt du mộ tạng phủ đó, chọn huyệt ngũ du có liên quan đến tạng phủ đó.
* Chữa bệnh của phủ: Chọn huyệt nguyên, huyệt du mộ, huyệt ngũ du có liên quan đến phủ bị bệnh. Ngoài ra còn chọn huyệt hợp có liên quan, chọn huyệt hội của mạch.
* Chữa bệnh của mạch: Chọn huyệt trên đường kinh mạch có liên quan, chọn huyệt hội của mạch.
* Chữa bệnh của cân: Chọn huyệt hội của cân, chọn huyệt a thị.
* Chữa bệnh của tủy, xương, khí, huyết: chọn huyệt hội của chúng trong bát hội huyệt.
Tiến trình châm
* Trước hết, phải trị thần trước, thần yên thì khí dễ hành.
*Tiếp theo làm thao tác tiến kim đạt đắc khí rồi làm thủ thuật bổ tả. Bổ để làm chính khí vượng trở lại, dùng cho chứng hư, thủ thuật bổ làm như sau:
Tiến kim từ từ (chính khí sẽ vượng lên, rút kim nhanh (chính khí không tiết ra ngoài).
Tả để làm tà khí sơ tiết ra ngoài, dùng cho chứng thực, tiến hành như sau: Tiến kim nhanh, rút kim từ từ (Tà khí theo kim tiết ra ngoài, tà khí từ thịnh chuyển thành hư).Chích xuất huyết để loại trừ tà khí ứ trệ (tà khí theo huyết ra ngoài).
* Khi châm đã đắc khí thì phải làm thủ thuật bổ tả ngay. Không được để kinh khí thay đổi rồi mới bổ tả. Châm xong bệnh không đỡ mà nặng lên là đã bỏ không dùng phép bổ tả (Tố vấn).
Không châm cho những trường hợp hiện đang có mạch loạn, khí tán, dinh vệ không bình thường, tuần hoàn của khí huyết không thuận lợi như: sau giao hợp, đang say rượu, đang giận dữ, đang mệt nhọc, vừa ăn no, đang đói quá, đang khát quá, đang lo sợ quá, vừa đi đường xa tới.
Không châm vào ngũ tạng, lục phủ, não, tủy, gân, mạch lớn,… vì có thể gây tai biến, tàn tật, có khi chết người.
Châm cứu dùng để chữa các bệnh sau
* Bệnh hàn nhiệt (ở da, cơ, tì, vị, thận, tâm) bằng huyệt chữa bệnh nhiệt.
* Ngũ khí bị loạn (tâm khí, phế khí, trường vị khí, khí ở đầu, khí ở chân tay) bằng huyệt ngũ du, huyệt nguyên.
* Chứng mạch trướng, da trướng bằng huyệt kinh vị và huyệt tại chỗ.
* Bệnh tà vào ngũ tạng bằng huyệt mộ ở bụng, huyệt du ở lưng, huyệt ngũ du.
* Chứng quyết đầu thống (khí của đường kinh nghịch lên đầu gây đau đầu) bằng huyệt của đường kinh đó, nếu có hiện tượng huyết ứ thì chích xuất huyết.
* Chứng quyết tâm thống (tâm có huyết ứ, hoặc khí ở các tạng phủ thận, tì, vị, can, phế nghịch lên tâm làm tâm bị đau) bằng huyệt của tâm và huyệt của tạng có liên quan.
* Chứng ngược (sốt rét) do ngược tà vào 6 kinh ở chân, vào ngũ tạng bằng các huyệt kinh có bệnh, châm để chặn cơn và châm sau khi dứt cơn là có hiệu quả nhất.
* Bệnh thủy thũng bằng 57 huyệt nơi thủy khí lưu trú ở các kinh âm.
* Chứng đau thắt lưng do tà khí vào 6 kinh dương ở chân bằng huyệt có liên quan với kinh mạch bị bệnh.
* Bệnh giản cuồng bằng những phương huyệt cụ thể.
* Tạp bệnh bằng các huyệt có liên quan đến kinh mạch và các cơ quan bị bệnh.
* Mười hai bệnh lý (ngáp, nấc, nghẹn, ợ hơi, hắt hơi, liệt mềm, buồn rầu, khóc chảy nước mắt, thở dài, chảy dãi, tai ù, tự cắn lưỡi) do tà khí tác động vào không khiếu và nơi bị tác động đang ở trạng thái hư, về nguyên tắc phải châm bổ.
Bị chú: Kinh lạc, huyệt khí, trong châm cứu học tương đồng với tổ chức nào của giải phẫu sinh lý học hiện đại. Châm cứu chữa bệnh khác lý liệu pháp hiện đại như thế nào, xin xem các bài tiếp theo.
GS Hoàng Bảo Châu
Thế nào là người có thể chất hàn và nhiệt
Theo quan điểm của triết học, tâm lý học và Y học cổ truyền phương Đông, việc phân định thể chất của con người là hàn tính hay nhiệt tính có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi lẽ, chỉ có trên cơ sở hiểu rõ thể chất của mình là hàn hay nhiệt, người ta mới có thể lựa chọn môi trường sống, thay đổi điều kiện sinh hoạt và ăn uống, thực hiện các biện pháp dự phòng tích cực bệnh tật... một cách hợp lý và có hiệu quả.
Trên thực tế, thể chất hàn nhiệt của mỗi người thường không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, điều kiện sinh hoạt, làm việc, ăn uống..., được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về sinh lý, bệnh lý và tâm lý. Nhưng tựu trung lại cũng không nằm ngoài 7 loại hình chính là: Thể hàn, thể rất hàn, thể nhiệt, thể rất nhiệt, thể bình hoà, thể thiên hàn và thể thiên nhiệt. Để phân định các loại hình này, người xưa thường chỉ căn cứ vào các dữ liệu thu được sau khi tiến hành vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi) và thiết (sờ, bắt mạch). Tuy nhiên, hiện nay, các nhà Y học cổ truyền hiện đại đã xây dựng các chỉ tiêu cơ bản để phân định không chỉ dựa trên cơ sở lý luận của Y học cổ truyền, bao gồm học thuyết âm dương cân bằng, quan niệm chỉnh thể và nguyên tắc biện chứng thi trị mà còn tham chiếu thêm một số chỉ tiêu về sinh lý, sinh hóa, tâm lý của Y học hiện đại. Tổng cộng có 22 chỉ tiêu cơ bản là thể hình, tính cách, cảm giác hàn nhiệt, cảm giác khát, tình trạng ăn uống, sắc mặt, mạch, lưỡi, đại tiện, tiểu tiện, trạng thái tinh thần, thể lực, mồ hôi, tiếng nói, khả năng tình dục, huyết áp, số lượng bạch cầu, số lượng hồng cầu, số lượng tiểu cầu, huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu. Dựa trên những chỉ tiêu này, 7 loại hình có nội dung cơ bản như sau :
• Thể hàn: Thể hình hơi gầy, tính cách hướng nội, sợ lạnh, không khát và không muốn uống, ăn được, sắc mặt trắng, mạch trầm trì (sâu và chậm), rêu lưỡi trắng nhạt, đại tiện nát, tiểu tiện trong dài, tinh thần kém hưng phấn, dễ mỏi mệt, ít mồ hôi, ít nói, khả năng tình dục kém, huyết áp hơi thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu hơi thấp, nồng độ huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng hơi thấp.
• Thể rất hàn: Người rất gầy, tính cách hướng nội rất rõ, sợ lạnh nhiều, thích uống nước ấm nóng, ăn kém, sắc mặt vàng nhợt, mạch tế nhược (nhỏ và yếu), lưỡi trắng nhợt và ướt, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài nhưng đi nhiều lần, tinh thần uỷ mị, thể lực kém, rất ít mồ hôi hoặc vã mồ hôi trộm, tiếng nói nhỏ yếu, khả năng tình dục rất kém, huyết áp thấp hoặc rất thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu tương đối thấp, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng tương đối thấp.
• Thể nhiệt : Thể hình có xu hướng béo, tính cách hướng ngoại, sợ nóng, hay khát và thích uống nước mát, ăn ngon miệng, sắc mặt hồng nhuận, mạch hoạt sác (nổi và nhanh), lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiện phân khô cứng, tiểu tiện vàng, tinh thần dễ hưng phấn, thể lực khoẻ, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục mạnh mẽ, huyết áp có xu hướng cao hoặc hơi cao, số lượng bạch cầu, tiểu cầu và hồng cầu hơi cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng hơi cao.
• Thể rất nhiệt : Người béo tốt, tính cách hướng ngoại rõ rệt, sợ và chịu nóng kém, hay khát và thích uống nước thật lạnh, ăn rất ngon miệng, sắc mặt đỏ, mạch hồng sác (rất nổi và nhanh), lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc đen, đại tiện táo kết, tiểu tiện sẻn đỏ, tinh thần rất hưng phấn, thể lực cường tráng, dễ vã mồ hôi (tự hãn), tiếng nói khoẻ, khả năng tình dục rất khoẻ và có lúc thái quá, huyết áp hơi cao, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu tương đối cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng tương đối cao.
• Thể bình hoà : Thể hình bình thường, tính cách bình hòa và cân bằng, cảm giác hàn nhiệt bình thường, cảm giác khát bình thường, ăn được, sắc mặt hơi hồng, mạch hòa hoãn, chất lưỡi hơi hồng, rêu lưỡi trắng mỏng, đại tiện bình thường, tiểu tiện bình thường, trạng thái tinh thần và thể lực bình thường, mồ hôi bình thường, khả năng tình dục vừa phải, huyết áp bình thường, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng trong phạm vi bình thường.
• Thể thiên hàn: Người hơi gầy, tích cách có xu hướng hướng nội, hơi sợ lạnh, không thích uống nhiều nước, ăn hơi kém, sắc mặt không tươi, mạch hơi trầm, lưỡi nhợt hơi bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, đại tiện có lúc lỏng nát, tiểu tiện trong và có lúc đi nhiều lần, tinh thần có lúc kém hưng phấn, thể lực hơi kém, mồ hôi tương đối ít, ít nói, khả năng tình dục hơi kém, huyết áp có xu hướng thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường hoặc tương đối thấp, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng bình thường hoặc tương đối thấp.
• Thể thiên nhiệt: Người hơi béo, tính cách có xu hướng hướng ngoại, hơi sợ nóng, thích uống nước, ăn khá ngon miệng, sắc mặt hơi hồng, mạch hơi hoạt, lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiện có lúc khô cứng, tiểu tiện ít và có lúc vàng, tinh thần có lúc hưng phấn, thể lực khá, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục có xu hướng mạnh mẽ, huyết áp hơi cao, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường hoặc tương đối cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng bình thường hoặc tương đối cao.Việc xác định chắc chắn một loại hình nào đó được dựa trên cách tính điểm, mỗi chỉ tiêu nếu có như vậy thì được tính là 1 điểm, nếu không có thì không được tính điểm. Tổng số điểm tối đa của mỗi loại hình là 22 điểm, nhưng tổng số điểm chỉ cần từ 15 điểm trở lên là đủ để được xác định chắc chắn, từ 10 - 14 thì nghi ngờ. Đây là một phương pháp xác định thể chất hàn hay nhiệt khá đơn giản trên người bình thường, rất tiện ích cho việc vận dụng các kiến thức trong ăn uống, sinh hoạt và phòng chống tật bệnh theo quan điểm của Y học cổ truyền.
Khánh Toàn (CTQ số 66)
Trên thực tế, thể chất hàn nhiệt của mỗi người thường không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, điều kiện sinh hoạt, làm việc, ăn uống..., được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về sinh lý, bệnh lý và tâm lý. Nhưng tựu trung lại cũng không nằm ngoài 7 loại hình chính là: Thể hàn, thể rất hàn, thể nhiệt, thể rất nhiệt, thể bình hoà, thể thiên hàn và thể thiên nhiệt. Để phân định các loại hình này, người xưa thường chỉ căn cứ vào các dữ liệu thu được sau khi tiến hành vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi) và thiết (sờ, bắt mạch). Tuy nhiên, hiện nay, các nhà Y học cổ truyền hiện đại đã xây dựng các chỉ tiêu cơ bản để phân định không chỉ dựa trên cơ sở lý luận của Y học cổ truyền, bao gồm học thuyết âm dương cân bằng, quan niệm chỉnh thể và nguyên tắc biện chứng thi trị mà còn tham chiếu thêm một số chỉ tiêu về sinh lý, sinh hóa, tâm lý của Y học hiện đại. Tổng cộng có 22 chỉ tiêu cơ bản là thể hình, tính cách, cảm giác hàn nhiệt, cảm giác khát, tình trạng ăn uống, sắc mặt, mạch, lưỡi, đại tiện, tiểu tiện, trạng thái tinh thần, thể lực, mồ hôi, tiếng nói, khả năng tình dục, huyết áp, số lượng bạch cầu, số lượng hồng cầu, số lượng tiểu cầu, huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu. Dựa trên những chỉ tiêu này, 7 loại hình có nội dung cơ bản như sau :
• Thể hàn: Thể hình hơi gầy, tính cách hướng nội, sợ lạnh, không khát và không muốn uống, ăn được, sắc mặt trắng, mạch trầm trì (sâu và chậm), rêu lưỡi trắng nhạt, đại tiện nát, tiểu tiện trong dài, tinh thần kém hưng phấn, dễ mỏi mệt, ít mồ hôi, ít nói, khả năng tình dục kém, huyết áp hơi thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu hơi thấp, nồng độ huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng hơi thấp.
• Thể rất hàn: Người rất gầy, tính cách hướng nội rất rõ, sợ lạnh nhiều, thích uống nước ấm nóng, ăn kém, sắc mặt vàng nhợt, mạch tế nhược (nhỏ và yếu), lưỡi trắng nhợt và ướt, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài nhưng đi nhiều lần, tinh thần uỷ mị, thể lực kém, rất ít mồ hôi hoặc vã mồ hôi trộm, tiếng nói nhỏ yếu, khả năng tình dục rất kém, huyết áp thấp hoặc rất thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu tương đối thấp, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng tương đối thấp.
• Thể nhiệt : Thể hình có xu hướng béo, tính cách hướng ngoại, sợ nóng, hay khát và thích uống nước mát, ăn ngon miệng, sắc mặt hồng nhuận, mạch hoạt sác (nổi và nhanh), lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiện phân khô cứng, tiểu tiện vàng, tinh thần dễ hưng phấn, thể lực khoẻ, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục mạnh mẽ, huyết áp có xu hướng cao hoặc hơi cao, số lượng bạch cầu, tiểu cầu và hồng cầu hơi cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng hơi cao.
• Thể rất nhiệt : Người béo tốt, tính cách hướng ngoại rõ rệt, sợ và chịu nóng kém, hay khát và thích uống nước thật lạnh, ăn rất ngon miệng, sắc mặt đỏ, mạch hồng sác (rất nổi và nhanh), lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc đen, đại tiện táo kết, tiểu tiện sẻn đỏ, tinh thần rất hưng phấn, thể lực cường tráng, dễ vã mồ hôi (tự hãn), tiếng nói khoẻ, khả năng tình dục rất khoẻ và có lúc thái quá, huyết áp hơi cao, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu tương đối cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng tương đối cao.
• Thể bình hoà : Thể hình bình thường, tính cách bình hòa và cân bằng, cảm giác hàn nhiệt bình thường, cảm giác khát bình thường, ăn được, sắc mặt hơi hồng, mạch hòa hoãn, chất lưỡi hơi hồng, rêu lưỡi trắng mỏng, đại tiện bình thường, tiểu tiện bình thường, trạng thái tinh thần và thể lực bình thường, mồ hôi bình thường, khả năng tình dục vừa phải, huyết áp bình thường, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng trong phạm vi bình thường.
• Thể thiên hàn: Người hơi gầy, tích cách có xu hướng hướng nội, hơi sợ lạnh, không thích uống nhiều nước, ăn hơi kém, sắc mặt không tươi, mạch hơi trầm, lưỡi nhợt hơi bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, đại tiện có lúc lỏng nát, tiểu tiện trong và có lúc đi nhiều lần, tinh thần có lúc kém hưng phấn, thể lực hơi kém, mồ hôi tương đối ít, ít nói, khả năng tình dục hơi kém, huyết áp có xu hướng thấp, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường hoặc tương đối thấp, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng bình thường hoặc tương đối thấp.
• Thể thiên nhiệt: Người hơi béo, tính cách có xu hướng hướng ngoại, hơi sợ nóng, thích uống nước, ăn khá ngon miệng, sắc mặt hơi hồng, mạch hơi hoạt, lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi vàng, đại tiện có lúc khô cứng, tiểu tiện ít và có lúc vàng, tinh thần có lúc hưng phấn, thể lực khá, nhiều mồ hôi, nói nhiều, khả năng tình dục có xu hướng mạnh mẽ, huyết áp hơi cao, số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu bình thường hoặc tương đối cao, lượng huyết sắc tố, mỡ máu và đường máu cũng bình thường hoặc tương đối cao.Việc xác định chắc chắn một loại hình nào đó được dựa trên cách tính điểm, mỗi chỉ tiêu nếu có như vậy thì được tính là 1 điểm, nếu không có thì không được tính điểm. Tổng số điểm tối đa của mỗi loại hình là 22 điểm, nhưng tổng số điểm chỉ cần từ 15 điểm trở lên là đủ để được xác định chắc chắn, từ 10 - 14 thì nghi ngờ. Đây là một phương pháp xác định thể chất hàn hay nhiệt khá đơn giản trên người bình thường, rất tiện ích cho việc vận dụng các kiến thức trong ăn uống, sinh hoạt và phòng chống tật bệnh theo quan điểm của Y học cổ truyền.
Khánh Toàn (CTQ số 66)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)