2. Liệt dương do dương khí của tỳ vị không vượng
Có người tinh lạnh, tinh loãng, tuy cũng có thể giao hợp, nhưng nửa đường đứt gánh hay “vừa đến chợ đã hết tiền”, người ta cho là hỏa mệnh môn suy, ai hay đó là do dương khí của tỳ vị không vượng.
Tỳ vị thuộc thổ, mà thổ sinh từ hỏa, dương khí của tỳ vị không vượng tựa hồ như hỏa mệnh môn suy. Đâu biết rằng hỏa của mệnh môn là hỏa tiên thiên, còn thổ của tỳ vị là thổ hậu thiên. Thổ hậu thiên vốn có gốc nơi hỏa tiên thiên, nếu hỏa tiên thiên không vượng thì thổ hậu thiên không thể sinh. Bổ hỏa tiên thiên chính là để sinh thổ hậu thiên. Thổ của tỳ vị tuy gốc là hậu thiên, nhưng kỳ thực bên trong không phải không có khí tiên thiên. Hỏa mệnh môn mà hàn, thì khí tiên thiên của tỳ vị làm sao sinh được. Mệnh môn đã không thể sinh khí tiên thiên của tỳ vị, trong khi khí hậu thiên của tỳ vị mỗi lúc càng thêm suy vi, mà muốn cho khí vượng để có thể cố sáp được tinh, cho tinh đậm đặc chứ không loãng nhạt thì làm sao có thể được?
Phép điều trị tất phải bổ hỏa tiên thiên của mệnh môn, đồng thời bổ thổ hậu thiên của tỳ vị, thì thổ khí đã vượng mà hỏa khí lại chẳng suy, khiến cho khí ấm áp mà tinh đậm đặc vậy.
Phương thuốc dùng Hỏa Thổ ký tế đan:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Sơn thù du 1 lượng, Thỏ ty tử 1 lượng, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ.
Sắc uống liên tục 10 thang thời tinh khí ấm áp. Uống được 3 tháng thời vĩnh viễn không suy nhược trở lại.
Phương này kiện tỳ vị thổ đồng thời bổ mệnh môn hỏa, nên tránh được các tai họa hỏa bốc lên quá cao hay thổ nhiễm phải hàn thấp. Thấp khí khử được thì tinh thuần chất, hàn khí khử được thì tinh ấm áp. Hàn thấp đã trừ, âm khí tiêu vong thì dương khí mạnh mẽ, đâu phải hổ thẹn vì dương sự yếu kém nữa.
3. Liệt dương do tâm hỏa bế tắc
Có người do lúc thiếu thời gặp chuyện không toại nguyện, uất ức sầu muộn dẫn đến dương vật yếu mềm, không nhấc lên nổi, hoặc có cương mà không cứng. Người ta cho là hỏa của mệnh môn suy, ai hay đó chính là do tâm hỏa bế tắc.
Thận là chức quan tác cường, kỹ xảo từ đó mà ra, là nơi tàng trữ tinh và chí (theo Nội Kinh) . Tâm chí không thỏa mãn thì dương khí không thư thái. Dương khí chính là chân hỏa trong thận vậy. Chân hỏa trong thận tất phải vâng mệnh của tâm. Tâm hỏa mà động thì thận hỏa ứng liền. Tâm hỏa bị đè nén uất ức, không khai thông thì thận hỏa tuy vượng, cũng không thể đáp ứng, tựa như hỏa yếu mà thật ra không phải hỏa yếu.
Điều trị không được dùng phương pháp trợ mệnh môn hỏa. Nếu nhầm dùng trợ mệnh môn hỏa thời hỏa vượng ở hạ tiêu mà khí ức uất không được tuyên thông, tất dẫn đến thảm họa dương vượng âm tiêu, biến sinh chứng ung thư không thể cứu được. Nên tuyên thông uất ức trong tâm, khiến tâm ý thư thái cởi mở, dương khí được khai thông thời chứng liệt dương liền khỏi.
Dùng phương Tuyên chí thang như sau:
Phục linh 5 chỉ, Xương bồ 1 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Bạch truật 3 chỉ, Sinh táo nhân 5 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Sài hồ 1 chỉ, Đương quy 3 chỉ, Nhân sâm 1 chỉ, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 3 chỉ. Sắc uống 2 thang tâm chí liền thư thái, uống thêm 2 thang dương sự cất lên ngay, không cần uống nhiều. Bệnh này nguyên nhân do hỏa bế tắc mà sanh khí muộn phiền buồn bực, chứ tuyệt nhiên không phải do hỏa hàn mà lửa tắt. Vì thế, chỉ cần thổi một vài lần là hỏa bùng lên, không cần bổ hỏa nhiều mới đầy đủ. Nhưng tiếc thay, phần lớn người đời đã chữa nhầm như vậy!
(còn nữa)
Phan Lang
“Hồng nghĩa giác tư y thư” là bộ sách nguyên được Thánh y Tuệ Tĩnh viết từ thế kỷ XIV. Sách đã được nhiều người đời sau chỉnh lý, bổ sung mà quy mô nhất là lần được vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương cho các quan Thái y viện và các quan Nội phủ chỉnh lý, bổ sung hai lần; khắc in hai lần bằng chữ Hán Nôm vào năm 1717 và 1723. Chúa Trịnh ban tên “Sách Y học do thầy Hồng Nghĩa trước tác”. Bộ “Hồng nghĩa giác tư y thư” được phòng Tu thư huấn luyện Viện Đông y dịch; GS.L/y Nguyễn Sĩ Lâm hiệu đính và chú thích; Nhà xuất bản Y học xuất bản tại Hà Nội năm 1978.
Quan niệm về thương hàn trong “Hồng nghĩa giác tư y thư ”
Trong “Hồng nghĩa giác tư y thư ”, phần VI có chép “Thương hàn cách pháp trị lệ”, từ bộ “Thọ thế bảo nguyên” (Giữ được tuổi trời) của Cung Đình Hiền, tự Tử Tài, hiệu Vân Lâm, tên thường gọi là Cung Vân Lâm. Ông là người huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, từng đỗ đầu trong kỳ thi tuyển vào Thái y viện (Y lâm giải nguyên), làm chức Thái y viện sứ mục, đời nhà Minh. Ngoài bộ “Thọ thế”, ông còn sáng tác: Vạn bệnh hồi xuân (1587), Vân Lâm thần khóa, Cổ kim y giám… đều là các bộ sách y học nổi tiếng. Bộ “Thọ thế bảo nguyên” có 10 quyển (viết vào khoảng thế kỷ XVII), được nhiều thế hệ lương y Việt Nam nghiên cứu, sử dụng, làm sách gia bảo. Cung Đình Hiền nêu “37 nghiệm phương để trị thương hàn theo phương pháp đơn giản của riêng mình” (Thương hàn cách pháp trị lệ – Quyển 2). Ông không theo cổ phương rất phức tạp của Trương Trọng Cảnh. Về bệnh thương hàn, có lẽ ông cũng quan niệm như trong Hoàng đế Nội kinh (sách kinh điển của Đông y): “Tất cả các bệnh phát nóng đều là một loại thương hàn” (Nhiệt bệnh giai thương hàn chi loại giã). Ta thấy trong 37 phương này, có phương dùng chữa bệnh chính thương hàn mùa đông, ngoại cảm các mùa, thời khí (đại đầu ôn), dịch lệ, trúng thực, lao lực quá mức, sốt phát ban, các chứng xuất huyết, nội thương thất tình, cước khí…
“Thương hàn cách pháp trị lệ” được Lão Mai Am rất tâm đắc và đưa vào “Hồng nghĩa giác tư y thư ” bằng thể phú với tên “Thương hàn tam thập thất trùy pháp”, nghĩa là “Dùng 37 phương trị bệnh thương hàn (sốt nóng) có thêm trùy pháp”.
So với bản dịch “Thương hàn cách pháp trị lệ” của Viện Đông y với bản “Thọ thế bảo nguyên” của Cung Đình Hiền, trong phần thương hàn chúng tôi thấy:
- Tên 37 phương thang và cách gia giảm vẫn giữ nguyên.
- Có thêm bớt một vài vị thuốc trong một số phương thang và có một số phương, phần gia giảm được đưa luôn vào trùy pháp như “Sơ tà thực biểu thang”, chữa chứng thương phong về mùa đông; “Sài cát giải cơ thang” chữa chứng túc dương minh vị; “Xung hòa linh bảo ẩm” chữa thương hàn lưỡng cảm, biểu lý cùng bệnh… Không rõ đây là chủ ý của Lão Mai Am hay do sự lầm lẫn trong sao lục?
- Cái độc đáo ở đây là phần trùy pháp được Lão Mai Am thêm vào.
Sử dụng trùy pháp là nét độc đáo của Tuệ Tĩnh
Trùy pháp là phương pháp phụ thêm (gia thêm) vào phương thang một số vị thuốc có tại chỗ. Trước khi đem sắc uống hay thuốc sắc xong rồi hòa thêm vào uống để tăng hiệu quả chữa bệnh. Đây cũng là kinh nghiệm độc đáo trong điều trị, được tích lũy lâu đời trong việc phối hợp dùng thuốc Nam, Bắc của ông cha ta, như thang “Lục thần thông giải” để chữa bệnh thời khí dịch lệ, đau đầu, nóng mình thì gia thêm một nắm đạm đậu xị và hai củ hành vào sắc uống; thang “Tiêu ban Thanh đại ẩm” chữa nhiệt tà vào lý, phát ban đỏ, gia thêm một muỗng giấm khi uống; “Lục nhất thuận khí thang” chữa nhiệt đã truyền vào lý, đại tiện rắn kết, miệng ráo, họng khô, nói sảng, da vàng, phát ban, sốt cơn, nhiệt quyết, tự ra mồ hôi thì gia 3 thìa nước gỉ sắt để uống; “Như thần Bạch hổ thang” chữa chứng mình nóng, khát nước, ra mồ hôi mà vẫn phát nóng, gia thêm 10 lá tre non vào sắc uống…
Các vị thuốc thêm vào là thuốc có tại địa phương, phần lớn dưới dạng thuốc Nam tươi sống như nước gừng, nước cây tre, lá tre non, nước ngó sen, củ hành, rượu, giấm, muối ăn, hoạt thạch, mạch nha, mật ong, nước lá ngải cứu, nước cây tô mộc, nước đồng tiện… ở đây, Lão Mai Am đã sử dụng một số phương thang trị bệnh có hiệu quả lâu đời của Đông y, gia thêm vào một số vị thuốc Nam đặc trị của nhân dân ta thành một lối chữa bệnh tâm đắc.
Hiện nay, chúng ta đã thừa kế và phát huy mạnh mẽ sở trường của lối chữa bệnh này và cũng đã có hàng trăm trùy pháp được áp dụng hiệu quả xưa nay. Như bị bệnh hen suyễn, ngoài dùng thuốc thang để hạ khí tiêu đàm, còn thêm nước trầu không với ít mật ong hòa uống; bị cảm nước, cảm mưa lạnh, nóng sốt, ho thì ngoài việc dùng thuốc tân ôn giải biểu uống bên trong còn phải cho một nồi lá xông có nhiều tinh dầu như lá tía tô, lá ngũ trảo, lá bạc hà, lá sả… cho ra mồ hôi, thông xoang mũi, thông phế quản, diệt vi khuẩn.
Phương pháp này, GS Can Tổ Vọng (Đại học Trung y Nam Kinh) trong cuốn “Can Tổ Vọng y thoại” xuất bản 1996 đã viết: “Thày thuốc Trung Quốc xưa kia cũng có sử dụng “dẫn tử” là những loại dược liệu tươi sống, lấy tại chỗ để dẫn thuốc trong phương thang. Đây là bí quyết để làm tăng hiệu quả chữa bệnh của thang thuốc. Phép sử dụng này bị mất dần và đến khoảng thời nhà Thanh thì không còn nữa”.
Dẫn tử có thể cũng gần giống như trùy pháp của nước ta. Sử dụng trùy pháp rất phù hợp với phương châm “Thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ”. Nếu chúng ta biết sử dụng, phát huy nó sẽ là thế mạnh của nền y học cổ truyền nước ta.
Quan niệm thương hàn là các bệnh có nóng sốt và nêu 37 phương thang để chữa trị trong Tuệ Tĩnh là rất khoa học. Đem so sánh với các bệnh “có sốt” của y học hiện đại ta thấy có nhiều điểm gần giống nhau, chỉ khác tên gọi. Có những bệnh sốt mà y học đến nay vẫn chưa rõ được nguyên nhân.
Hồng nghĩa giác tư y thư là bộ sách y học cổ truyền tinh gọn “hay nhất, quý nhất, xưa nhất và được dịch thuật, chú thích rõ ràng nhất” của Đông y Việt Nam. Chúng tôi rất mong bộ sách quý này sớm được nghiên cứu đưa vào làm giáo trình giảng dạy và bồi dưỡng cho thầy thuốc Đông y Việt Nam.