Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

Chữa bệnh gút

  Gút (goutte) là bệnh rối loạn chuyển hóa và tăng lắng đọng các tinh thể acid uric tại các khớp. Theo y học cổ truyền, bệnh gút gọi là “Thống phong” thuộc chứng tý.

Bệnh do phong, hàn và thấp làm ảnh hưởng đến công năng của Can, Thận và Tỳ gây khí trệ huyết ứ và đàm trọc ách trở sinh bệnh. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh theo các thể:

Thể phong thấp nhiệt: 

Người bệnh đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, có khi phát sốt. Tại chỗ khớp: sưng nóng đỏ đau, cự án; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền sác. Phép chữa: Thanh nhiệt trừ thấp, tiết trọc thông lạc. 

Thể khí trệ trọc ứ:

 Khớp sưng đau không đi lại được hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng, người mệt mỏi, ngực sườn đầy tức, để lâu ngày khớp xương xơ cứng biến dạng, lưỡi ám tối, rêu lưỡi trắng dày; mạch huyền hoạt sác. Phép chữa là hành khí hoạt huyết, thông lạc trừ ứ. 

Thể tỳ hư trọc ứ: 

Khớp đau ê ẩm, cử động không linh hoạt, tay chân tê bì, nổi u cục, người mệt mỏi, vô lực; tâm quý, khí đoản, buồn nôn; chất lưỡi hồng nhạt có dấu răng; rêu lưỡi trắng nhạt; mạch trầm hoãn tế sáp. Phép chữa là kiện tỳ tiết trọc, trừ ứ thông lạc. 

Thể thận hư trọc ứ:

 Bệnh kéo dài lâu ngày dai dẳng, khớp biến dạng nổi u cục, có biến chứng tại thận (viêm thận, sỏi thận), đau đầu huyễn vựng, tiểu tiện ít, tâm quý, phù thũng; lưỡi đỏ, rêu ít; mạch trầm huyền sáp. Phép chữa là bổ thận tiết trọc, trừ ứ thông lạc.

Trị viêm tắc tĩnh mạch của Đông y

  Bệnh viêm tắc tĩnh mạch chủ yếu là do mạch lạc bị nghẽn tắc khí huyết không được lưu thông, tổ chức bì phu cơ nhục không được nuôi dưỡng gây nên bệnh.

Mặt khác do thận khí hư tổn; Bệnh nhân cảm thụ hàn thấp; hàn và thấp ứ đọng lâu ngày làm cản trở vận hành của kinh mạch, khí huyết; Do ăn nhiều chất béo mỡ hoặc hút thuốc, nghiện rượu là những yếu tố thuận lợi để phát sinh bệnh. Hoặc các nguyên nhân gây ứ đọng, nhiễm độc như: dùng thuốc, sử dụng thuốc trừ sâu, hoá chất...

Bệnh ở thời kỳ đầu: Vệ khí dinh huyết không điều hòa máu lưu thông kém  đặc biệt là vùng xa như đầu ngón tay, chân; nên có dấu hiệu ngón chân lạnh, tê dại kiến bò; bàn tay, bàn chân, cẳng chân đau, tê lạnh, đau cách hồi.

Thời kỳ tiếp theo khí trệ huyết ứ, mạch máu tắc nghẽn, ngón chân hoặc ngón tay tím đỏ dần chuyển thành tím, đen, đau tê, nhức không chịu được.

Thời kỳ cuối hàn tà bị bó lại, uất kết nung nấu tân dịch, hóa hỏa, hỏa độc làm cơ nhục tổn thương, sưng to, vỡ, chảy nước vàng hoặc máu, mủ tùy thuộc vào hỏa độc tà mạnh hay yếu, nhiều hay ít; cuối cùng gây tổn thương cơ nhục, cân mạc, xương khớp hoại tử thậm chí rụng đốt xương.

Đông y bàn về phương pháp điều trị viêm tắc tĩnh mach như sau:

Phép điều trị ôn kinh, tán hàn, hoạt huyết, thông lạc

Biểu hiện: Sắc mặt tái nhợt, người mệt mỏi, thích ấm sợ lạnh, chi mắc bệnh lạnh sắc da tái nhợt, tê dại đau, chườm nóng hoặc đắp ấm dễ chịu, cẳng chân, tay hay giật, đau mỏi tăng dần, nhiều khi đang đi phải đứng lại vì đau (đau cách hồi), tiểu tiện trong, đầy bụng hoặc sôi bụng, đại tiện lỏng; lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng; Mạch trầm trì vô lực.

Phép điều trị hoạt huyết khứ ứ, hành khí giải uất

Biểu hiện: Sắc mặt tối sạm, tinh thần ủ rữ, bứt rứt, dễ nóng nảy, đêm đau tăng, chân hoặc tay lạnh, sắc da thâm tím, khô; Chất lưỡi đỏ hoặc tím thâm. Mạch trầm tế.

Phép điều trị thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết thông lạc

Biểu hiện: Sắc mặt sạm khô, người bứt rứt khó chịu, ù tai chóng mặt, chi mắc bệnh đen tím, sưng to mọng, đau liên tục, tại chỗ bắt đầu lở loét hoại tử, chi phù da bóng, chảy nước hoặc chảy máu, mủ; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày. Mạch tế sác.

Phép điều trị bổ khí dưỡng huyết, hoạt huyết thông lạc

Biểu hiện: Người mệt mỏi, gầy yếu, ra nhiều mồ hôi, chi bị bệnh đau ít hoặc đỡ đau, vết loét lâu ngày chảy mủ, máu hoặc nước vàng, không liền miệng, da sắc vàng sạm; Chất lưỡi bệu, nhợt, mạch trầm tế vô lực.



Chứng tân dịch hư tổn

 Chứng tân dịch hư tổn ở người cao tuổi do tuổi cao công năng của tạng phủ bị suy thoái làm cho sự sinh trưởng, phân bố, bài tiết của tân dịch không bình thường

Chứng tân dịch hư tổn ở người cao tuổi do tuổi cao công năng của tạng phủ bị suy thoái làm cho sự sinh trưởng, phân bố, bài tiết của tân dịch không bình thường như: Khi tạng phế tân dịch kém thì phế mất chức năng tuyên giáng thường sinh các chứng: ho khan, suyễn thở, da khô, nước tiểu ít có màu đỏ.

Trường hợp tân dịch của tỳ bị hao tổn thì tỳ mất chức năng kiện vận sinh chứng bụng hay trướng đầy mà đau, chân tay rã rời có khi bị tê liệt. Đại tiện táo, lưỡi khô, khát nước. Nếu do thận khí không đủ để sưởi ấm phế và tỳ, làm tân dịch bốc hơi, dẫn đến sự khí hóa trong cơ thể không bình thường mà sinh ra chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, lưng gối mềm yếu. Do tân dịch của người cao tuổi bị hư tổn, việc khai thông của tam tiêu bị yếu kém, làm cho sự lưu thông của khí huyết bị bế tắc, sự bài tiết không thuận lợi mà sinh ra chứng tự ra mồ hôi, miệng khô, tiểu tiện lượng ít mà đỏ. Còn một nguyên nhân nữa là người cao tuổi là khi tân dịch bị hao tổn thì sinh ra chứng huyết hư làm tim hồi hộp, hoa mắt, tai ù. 

Tân dịch hư tổn làm dương minh nhiệt kết

Triệu chứng: Sốt từng cơn, hai mắt kém con ngươi khó chịu, bụng trướng đầy, ra nhiều mồ hôi, đại tiện phân rắn, mạch trầm thực.

Tân dịch hư tổn làm nguyên khí tổn thương

Triệu chứng: Bệnh nhân phiền khát, buồn nôn. Phép trị: Ích tâm khí, thanh huyết nhiệt

Tân dịch hư tổn ôn tà phạm phế

Triệu chứng: Sốt cao, mũi khô, họng ráo, ho khan, khát nước. Phép trị: Nhuận phế chỉ ho tiêu khát.

Do mắc chứng táo tà nặng làm tân dịch của phế hư tổn

Triệu chứng: Sốt cao, ho khan không có đờm, suyễn thở miệng mũi khô ráo, khát nước.

Do táo nhiệt lưu luyến ở phế làm tân dịch của phế hư tổn mà sinh bệnh

Triệu chứng: Sốt cao, miệng khát, họng khô, ho khan không có đờm, chất lưỡi đỏ ít rêu.

Tỳ vị nhiệt làm tổn hư tân dịch

Triệu chứng: Sốt cao nhưng không rét, ra mồ hôi, mặt và mắt đỏ, nước tiểu vàng đỏ, đại tiện bí kết, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi khô, mạch hồng sác

Tân dịch hư tổn sinh chứng huyết nhiệt

Triệu chứng: Sốt cao, hôn mê nói sảng, miệng mũi xuất huyết, họng khô, tai điếc, phát ban, lưỡi khô chất lưỡi đỏ.




Bệnh động mạch vành trong đông y

Theo y học cổ truyền, bệnh động mạch vành thuộc các chứng “tâm thống” (đau tim), “hung tê” (đau ngực). Sự phát sinh của bệnh có liên quan tới sự thịnh suy của các tạng tâm (tim), can (gan), thận và tỳ cùng sự mất điều hòa khí huyết gây nên huyết ứ, khí trệ, đàm trọc mà dẫn đến “tâm thống” hoặc “hung tê”. 


Trị cảm mạo

 Đông y cho rằng: “Cảm mạo lưu hành là do thời tiết chuyển động trái mùa như: mùa xuân ấm lại rét, mùa hạ đáng lẽ nóng mà lại lạnh, mùa thu đáng lẽ mát mà lại nóng, mùa đông đáng lẽ lạnh lại ấm”.

Vì vậy, trong một năm thời tiết bất thường như vậy dễ sinh ra khí độc (vi khuẩn). Trẻ em, người lớn nếu chính khí kém tà khí (vi khuẩn) dễ xâm nhập cơ thể và đều mắc một chứng giống nhau. Đông y gọi là bệnh thời khí.

Nếu cảm mạo thời khí nhẹ, bệnh chỉ ở da lông không vào kinh lạc, gọi là cảm phong hàn, sau một thời gian sẽ tự khỏi. Nặng gọi là cảm mạo lưu hành (bệnh cúm) thuộc loại truyền nhiễm do virus dễ biến chứng, lây truyền nhiều người thành dịch. Khi đã thành dịch, nếu sức khỏe kém có nguy cơ dẫn đến tử vong.

Theo y học cổ truyền: Bệnh chia thành 4 loại khác nhau. Cách điều trị cũng khác nhau.

Ngoại cảm phong hàn:

 Bệnh thường phát về mùa đông xuân, tà khí thường xâm phạm vào biểu bì, nhưng biểu bì lại có quan hệ biểu lý với phế (phổi) làm cho phế mất công năng giáng khí, bệnh nhân có triệu chứng sốt, sợ lạnh, nhức đầu, không có mồ hôi, ngạt mũi, sổ mũi, khó thở, đau nhức mỏi tay chân, ngứa họng ho, lưỡi có rêu trắng, mạch phù. Điều trị: Tân ôn giải biểu.

Ngoại cảm phong nhiệt: 

 Bệnh thường phát về mùa đông xuân, nhiệt tà xâm phạm phế và vệ khí, làm phế khí mất chức năng thăng giáng, biểu bì bị vít lấp lại, nhiệt uất lại bên trong. Triệu chứng: sốt cao, sợ gió, mồ hôi ra dâm dấp, đầu đau, miệng khô, ho khan, họng sưng tấy mà đau, bệnh nhân khó thở, có trường hợp chảy máu mũi, đại tiện bí kết, rêu lưỡi vàng, mạch phù sác. Điều trị: Dùng phương pháp tân lương giải biểu. 

Chứng phong nhiệt kiêm thử:

 Đã dùng thuốc điều trị chứng phong nhiệt nhưng không đỡ. Người vẫn sốt, ít mồ hôi, tâm phiền miệng khát, đau tức vùng ngực, khó thở, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, mạch nhu sác. Điều trị: Thanh thử, lợi thấp. 

Chứng phong hàn kiêm thấp: 

Triệu chứng: sốt nhẹ, sợ rét, đầu nặng, tay chân mệt mỏi, tức ngực, miệng nhạt, buồn nôn, có khi nôn, bụng trướng đầy, đại tiện phân sền sệt, rêu lưỡi dày nhớt, mạch nhu. Điều trị: Giải biểu hóa thấp. 

Trị chắp, lẹo

  Theo YHCT, chắp, lẹo có tên gọi là “thâu châm”, “châm nhãn”, “thổ âm”, “thổ dương”, “nhãn đơn”, “mạch lạp thủng”...

Nguyên nhân thường do phong và nhiệt tác động lẫn nhau làm tổn hại vùng mi mắt hoặc do ăn uống đồ cay nóng thái quá làm kinh Vị hóa nhiệt gây tổn hại mi mắt. Vì chắp, lẹo là chứng bệnh hay gặp nhất là trước đây khi điều kiện môi trường không được tốt nên trong dân gian có rất nhiều cách chữa. Mỗi vùng miền có một cách khác nhau nhưng xét dưới góc độ khoa học thì đều có ý nghĩa. Ví dụ khi bị chắp, lẹo thì khi ngồi nấu cơm dùng cây đũa cả hơ nóng áp vào mi mắt nơi sưng đau và phải bí mật không cho ai biết.

Một cách điều trị độc đáo khác mà quý cụ lang bà mế thường hay dùng, đó là cách chích lể huyệt phế du hoặc huyệt thâu châm để điều trị chắp, lẹo.

Theo y học cổ truyền, kinh lạc đi qua đâu thì trị bệnh ở đó, kinh Bàng quang có đường đi liên hệ với mắt, huyệt Phế du lại thuộc kinh Bàng quang nên có thể điều trị được bệnh ở mắt. Ngoài ra, theo thuyết Lục kinh, Bàng quang kinh còn gọi là Thái dương kinh là kinh đầu tiên chống đỡ với ngoại tà; và theo thuyết Tạng phủ, Phế chủ bì phu ứng với bệnh da ở mi mắt, cũng là tạng có phản ứng với ngoại tà trước tiên. 


Mụt lẹo

  Mụt lẹo còn được gọi là “Du chàm nhãn” hay “ Nhãn đơn”. Do Tỳ kinh có phong, Vị kinh có nhiệt, 2 thứ kết hợp với nhau độc khí đưa lên mí mắt - Ở mí mắt sinh ra những mụn sưng đỏ, lúc đầu thì ngứa, rồi sau đó sưng đau nhức. Phần nhiều mụt lẹo phát ra ở trẻ con và thanh niên, Lúc đầu còn dễ tiêu mất, nhiệt quá thì sưng cứng khó tan, rồi làm mủ.

Y gia các thời đại chia ra rất nhiều chứng về nhãn khoa, như sách “Đắc hiệu phương” chia ra 23 chứng về nội chướng, 45 chứng về ngoại chướng. Đến sách “Chứng trị chuẩn thằng” lại tăng thêm đến 160 chứng; nhưng trong đó phần nhiều là 1 bệnh mà chia ra nhiều chứng.Các bệnh về mắt thông thường được chia ra làm 2 nhóm là các chứng ngoại chướng và chứng nội chướng.

Mụt lẹo thuộc ngoại chướng. Ngoại chướng là bệnh thuộc về mắt, phát sinh ở mi mắt, đầu và đuôi mắt (tuyến lệ), lòng trắng mắt (củng mạc), lòng đen mắt (giác mạc), nói chung mô tả các loại bệnh phần ngoài và phần trước của nhãn cầu, triệu chứng cục bộ là mắt sưng đỏ và chướng, nhiều ghèn hoặc kéo màng...

Mụt lẹo và bài thuốc Nam trị bệnh

Mụt lẹo còn được gọi là “Du chàm nhãn” hay “Nhãn đơn”. Do tỳ kinh có phong, vị kinh có nhiệt, 2 thứ kết hợp với nhau độc khí đưa lên mí mắt; ở mí mắt sinh ra những mụn sưng đỏ, lúc đầu thì ngứa, rồi sau đổ sưng đau nhức, phần nhiều phát ra ở trẻ con và thanh niên. Lúc đầu mụt lẹo còn dễ tiêu mất, nhiệt quá thì sưng cứng khó tan, làm mủ.

Lúc mụn mới phát còn nhỏ, chưa đỏ, chỉ có ngứa theo kinh nghiệm trong dân gian thường dùng lông gáy con lợn rửa nước muối sạch, ngày nay có thể dùng bông se nhỏ khử trùng sạch, thông tuyến nước ở khóe trong mắt, làm cho nhiệt độc theo nước mắt mà ra, là có thể tiêu được. Dùng thuốc uống trong: Theo pháp thanh nhiệt trừ thấp.