Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Trị chứng thấp nhiệt ở người cao tuổi trong đông y

 Chứng thấp nhiệt ở người cao tuổi thường phát sinh về mùa hạ, mùa thu. Theo Đông y: “Khi mắc chứng thấp nhiệt thì các khớp tay chân đau, vai lưng nặng nề, khi thấp nhiệt dồn xuống chân thì phù nề”.

Thường gặp trong các bệnh: tiết tả, lỵ tật, hoàng đản, cổ trướng, thủy thũng, lâm chứng, long bế, nuy chứng, tý chứng, thấp ôn, phục thử, thử ôn, đới hạ...

Nguyên nhân của chứng thấp nhiệt là do tuổi cao lại cảm nhiễm phải tà khí hoặc do tỳ vị hư yếu, thấp nhiệt nung nấu ở bên trong mà sinh bệnh.

Biểu hiện nóng trong, người bứt rứt, đầu và mình nặng nề, ngực và bụng trướng đầy, ăn uống kém, da và mắt vàng, bì phu ngứa, tiểu tiện đỏ khó đi, rêu lưỡi nhớt, mạch nhu hoãn hoặc nhu sác.

Trong hệ thống lý luận Đông y, chứng thấp nhiệt không hoàn toàn giống nhau. Trong chẩn đoán điều trị, phải căn cứ vào đặc điểm sinh bệnh mà phân tích một cách thấu đáo để điều trị có kết quả.

Phương pháp điều trị như sau:

Do thấp nhiệt sinh chứng tiết tả

Biểu hiện: Bệnh nhân đau bụng đi tả cấp bách, sau khi đi tả thì bụng khó chịu, phân có màu vàng tươi mà hôi, nóng rát giang môn, tiểu tiện sẻn vàng, chứng này thuộc loại  “thấp nhiệt hạ chú”.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng tiết tả: 

Thanh nhiệt hóa thấp.

Do thấp nhiệt sinh chứng lỵ tậ.

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng lỵ tậ.:

 Bệnh nhân thường đau bụng, lý cấp hậu trọng (muốn đi đại tiện nhưng rặn không ra). Phân ra màu trắng và đỏ, giang môn nóng rát, tiểu tiện sẻn đỏ, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng lỵ tậ.

Thanh nhiệt lợi thấp chỉ lỵ.

Do thấp nhiệt sinh chứng hoàng đản (viêm gan, hoặc viêm túi mật)

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng hoàng đản : 

Bệnh nhân toàn thân và hai mắt có màu vàng tươi như quả quít chín, sốt, khát nước, trong người thấy bứt rứt, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sác hoặc nhu sác.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng hoàng đản 

Thanh nhiệt lợi thấp trừ hoàng đản.

Do thấp nhiệt sinh bệnh cổ trướng

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh bệnh cổ trướng:

Bệnh nhân bụng trướng to, rắn đầy mà đau, phiền nhiệt, mệt mỏi, đắng miệng, khát nhưng không muốn uống nước, đại tiện táo bón, tiểu tiện đỏ, mắt và thân mình da vàng.

Điều trị do thấp nhiệt sinh bệnh cổ trướng: 

Thanh nhiệt lợi thấp, công hạ, trục thủy.

Do thấp nhiệt sinh chứng thủy thũng

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng thủy thũng: 

Bệnh nhân phù thũng toàn thân, màu da sáng bóng, ngực bụng bỉ đầy, phiền nhiệt khát nước, tiểu tiện sẻn đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch trầm sác.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng thủy thũng: 

Sơ phong thấu biểu lợi thấp nhiệt.

Do thấp nhiệt sinh chứng lâm và long bế (sỏi thận và đái dắt)

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng lâm và long bế (sỏi thận và đái dắt):

 Bệnh nhân tiểu tiện nóng rát và đau, thậm chí giỏ từng giọt không thông, nước tiểu có màu vàng đỏ hoặc đục như nước gạo, bụng dưới trướng đầy, miệng đắng có nhớt, khát nhưng không muốn uống nước.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng lâm và long bế (sỏi thận và đái dắt): 

Thanh nhiệt lợi thấp thông lâm.

Do thấp nhiệt sinh bệnh nuy (mềm yếu)

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh bệnh nuy (mềm yếu): 

Bệnh nhân tay chân không có lực, yếu, liệt, hai chi dưới tê dại có khi phù nhẹ, sốt nhẹ về chiều, ngực bụng bí đầy, tiểu tiện rát đau.

Điều trị do thấp nhiệt sinh bệnh nuy (mềm yếu): 

Thanh nhiệt lợi thấp.

Do thấp nhiệt sinh chứng tý (viêm đa khớp dạng thấp)

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng tý (viêm đa khớp dạng thấp): 

Khớp xương sưng đỏ, nóng rát, đau không thể chịu được, sờ vào đau thêm, gặp lạnh thì dễ chịu kèm theo sốt, ra mồ hôi, sợ gió, phiền muộn, khát nước, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng tý (viêm đa khớp dạng thấp):

Thanh nhiệt thông kinh hoạt lạc khu phong lợi thấp.

Do thấp nhiệt sinh chứng thấp chẩn (phát ban)

Biểu hiện do thấp nhiệt sinh chứng thấp chẩn (phát ban): 

Bệnh nhân bì phu đỏ, sưng trướng, loét, đại tiện táo bón hoặc lỏng, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Điều trị do thấp nhiệt sinh chứng thấp chẩn (phát ban)

Thanh nhiệt lợi thấp.


Trời đất bốn mùa ảnh hưởng đến sức khỏe con người như thế nào ?

  Đông y cho rằng: “Con người là một sinh vật trong tự nhiên, luôn luôn tiếp xúc với hoàn cảnh tự nhiên, cho nên con người không thể tách rời tự nhiên. Nó còn ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khỏe của con người. “Trời” và “Đất” là đại biểu của tự nhiên”.

 

Học thuyết “ Sinh khí thông thiên luận sách Tố vấn” lại nói rằng: “Trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết nhân sự, thì có thể tồn tại được lâu dài”. Và cho rằng: “ Điều dưỡng thân thể mà không theo vào lẽ của tự nhiên thì tật bệnh sẽ phát sinh”.

Người xưa nói: “Loài người sống trên quả đất. Quả đất ở giữa khoảng không, không dựa vào đâu, mà nhờ sức của đại khí trong vũ trụ nâng đỡ nó để tồn tại. Mọi sự vật trong trời đất luôn luôn biến hóa, khí của trời luôn luôn giáng xuống, thấu đến đất. Khí của đất bốc lên thấu tận trời. Một khí đưa lên một khí giáng xuống, làm nhân quả lẫn nhau mà sinh ra biến hóa, gọi là Giao khí”. Con người sinh ra, hoạt động và tồn tại trong khoảng “giao khí” đó. Sự biến hóa của khí âm và khí dương trong trời đất không phải là trừu tượng, mà là cơ sở vật chất.

Trong thiên nguyên kỷ đại luận sách Tố vấn cho rằng: “ trời là phong, đất là mộc. Trời là nhiệt, đất là hỏa. Trời là thấp, đất là thổ. Trời là táo, đất là kim. Trời là hàn, đất là thủy. Cho nên khí của trời, hình của đất, hóa sinh lẫn nhau mà sinh ra vạn vật”. Lại nói: “ Hàn, thử, táo, thấp, phong, hỏa là âm dương của trời. Ba khí âm, ba khí dương ấy. Cảm ứng với sáu khí: Mộc, hỏa, thổ, kim, thủy của đất. Trong điều kiện hình với khí cảm ứng lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, mà phát sinh ra sự biến hóa, qua sự biến hóa ấy mà sinh ra vạn vật”. Sau khi sản sinh ra vạn vật, lại tiếp tục biến hóa để sinh ra qui luật: Sinh, trưởng, hóa, thu, tàng. Sự biến hóa ấy luôn luôn tương ứng với sự biến hóa của âm dương trời đất. Qua đó chúng ta thấy sự biến hóa của tự nhiên và sự biến hóa phát sinh phát triển của vạn vật, không tách rời sự biến hóa, mâu thuẫn, thống nhất của âm dương.

Như vậy sự sinh tồn, phát triển của mọi sinh vật đều trực tiếp chịu ảnh hưởng khách quan đó. Con người cũng không ngoài qui luật ấy. Người xưa cho rằng: “Trong trời, đất có đầy đủ vạn vật, nhưng không gì quí bằng con người. Người sống nhờ khí của trời đất, và tinh khí của mọi thức ăn đồ uống trong tự nhiên mà sinh tồn, theo qui luật Sinh, trưởng, thu, tàng, của bốn mùa mà trưởng thành, già yếu, bệnh tật và tử vong”. Người đời sau dựa vào đó mà đặt ra qui luật “Sinh, lão, bệnh, tử”.

Sự biến hóa khí hậu của bốn mùa ảnh hưởng đến con người như thế nào?

Tứ thời là xuân, hạ, thu, đông. Mỗi thời có khí hậu riêng của mình: Mùa xuân ấm, mùa hạ nóng, mùa thu mát, mùa đông lạnh. Nhưng trên thực tế chỉ có ấm và nóng thuộc dương khí. Mát và lạnh thuộc âm khí. Như vậy mùa xuân, mùa hạ thuộc dương. Mùa thu mùa đông thuộc âm. Nhưng sự nóng lạnh không thể tách rời nhau, theo qui luật tự nhiên trong dương có âm, trong âm có dương. Rồi đối với thời gian, địa điểm cũng không giống nhau. cho nên mỗi loại sinh trưởng và tàn lụi cũng không giống nhau. Đối với thực vật thì mùa xuân ấm áp nên nảy mầm, mùa hạ sinh trưởng tươi tốt, mùa thu dần dần thu lại, mùa đông thì tàn lụi. Đó là nói cái chung còn tùy theo từng vùng khí hậu. Ở xứ nhiệt đới gió mùa như nước ta thì mùa thu vẫn có sinh mùa hạ vẫn có tàn. Đối với con người cũng chia thành mấy giai đoạn: Sinh ra, trưởng thành, lớn mạnh, già yếu, tử vong.

Đó là qui trình tất yếu của một sinh vật. Sự biến hóa của âm dương bốn mùa là nguồn gốc của sinh, trưởng, suy, lão, tử vong của vạn vật, chứ không riêng gì của loài người. Nếu trái với sự biến hóa ấy thì sẽ sinh ra tai nạn, bệnh tật. Theo đúng sự biến hóa ấy thì bệnh tật không sinh ra. Người xưa dựa vào qui luật ấy để đề phòng bệnh tật. Để tìm ra qui luật biến hóa ấy, người xưa phải quan sát rất  lâu dài có khi phải hàng trăm năm. Phân tích qui nạp những nhân tố ấy không có gì khác là: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. Khi không khí giao động là phong, nhiệt độ xuống thấp là hàn. Độ nóng lên cao là nhiệt, thấp độ tăng lên là thấp, ôn độ giảm xuống là táo. Khi thử và nhiệt tăng lên một mức cao hơn sẽ hóa thành hỏa.

Trong thực tiễn phong, hàn, thử, thấp, táo trong một số điều kiện nào đó cũng có thể hóa thành hỏa. Sự biến hóa của lục khí trong vũ trụ đều mang một ý nghĩa khác nhau: Táo để cho khô, thử để bốc lên, phong để chuyển động, thấp để nhuận, hàn để cứng, hỏa để ấm. Lục khí là sự biến hóa của khí hậu sinh ra, nhưng nó luôn luôn điều tiết sự chênh lệch lẫn nhau để không làm cho thái quá. Trong  sự biến hóa bình thường là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển  và sinh trưởng của con người và vạn vật. Nhưng trong thực tế mỗi sinh vật phải luôn luôn điều tiết để phù hợp với lục khí, nhất là khi có sự biến đổi đột ngột.

 

 

Với lục khí, đó là qui luật bình thường, để làm bình yên cuộc sống của vạn vật trên trái đất, trong đó có loài người. Nhưng mọi qui luật có bình thường thì có biến, có thuận thì tất nhiên có nghịch. Sự biến hóa trái thường thì không tốt đối với sự sống của vạn vật. Người xưa cho rằng: “ Phong khí sinh ra vạn vật nhưng cũng có thể làm hại vạn vật”. Như nước làm nổi thuyền nhưng cũng có thể làm lật thuyền, sự biến hóa khác thường của khí hậu người xưa gọi là “khí lục dâm”. Khí này đến bất cập quá, điều tiết không kịp làm đảo lộn sự sống của con người như lụt lội, hạn hán, bệnh tật đó là những thay đổi bất cập của khí hậu bốn mùa để con người và vạn vật sinh ra bệnh tật, và tử vong.

Đông y điều trị sỏi tiết niệu

 Sỏi đường tiết niệu là một bệnh phổ biến ở nước ta, gặp nhiều ở nam và lứa tuổi thường mắc phải là từ 35 – 55 tuổi.

Sỏi đường tiết niệu là một bệnh phổ biến ở nước ta, gặp nhiều ở nam và lứa tuổi thường mắc phải là từ 35 – 55 tuổi. Các điều kiện thuận lợi cho việc hình thành sỏi tiết niệu là uống ít nước, ứ trệ nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu, thay đổi độ pH nước tiểu.

Tùy vào vị trí người ta chia ra: sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và sỏi niệu đạo.

Các triệu chứng nhận biết sỏi đường tiết niệu

Đau: Đau dữ dội, đau thường khởi phát từ các điểm niệu quản, lan dọc theo đường đi của niệu quản xuống phía gò mu, cũng có khi đau xuyên cả ra hông, lưng.

Đái buốt, đái rắt, đái máu.

Sốt: Khi có nhiễm trùng.

Theo Đông y, bệnh sỏi tiết niệu được xếp vào phạm vi lâm chứng.

 Nguyên nhân gây bệnh thường sỏi tiết niệu :

do ăn nhiều thức ăn cay nóng, uống nhiều rượu, sinh thấp nhiệt dồn xuống bàng quang làm cho khí hóa trở trệ, không thông. Bệnh lâu ngày làm hao tổn chính khí, tổn thương tỳ thận, ảnh hưởng tới tác dụng khí hóa của bàng quang làm cho tạp chất của nước tiểu kết lại mà thành sỏi. Đông y có nhiều bài thuốc có tác dụng điều trị sỏi đường tiết niệu tùy vào từng thể bệnh. Tuy nhiên khi điều trị cần chú ý kích thước viên sỏi, nếu sỏi nhỏ dưới 10mm còn có thể uống thuốc cho tống ra, nếu sỏi quá lớn phải phối hợp phương pháp khác để lấy sỏi ra.

 Sỏi đường tiết niệu thể nhiệt lâm

Triệu chứng sỏi đường tiết niệu thể nhiệt lâm

Đái nhiều lần, cảm giác đái nóng, đau buốt, nhỏ giọt, nước tiểu vàng, đỏ, đục, bụng dưới đau cứng hoặc đau chướng, hoặc sốt miệng đắng, đại tiện táo kết, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch sác.

Pháp điều trị sỏi đường tiết niệu thể nhiệt lâm

Thanh nhiệt lợi thấp, bài thạch thông lâm.

 Sỏi đường tiết niệu thể thạch lâm

Triệu chứng sỏi đường tiết niệu thể thạch lâm

Đái khó đau như bị tắc, nước tiểu vàng, đỏ, đục, có cặn sỏi hoặc đang đái bị tắc lại, ống đái đau buốt như bị đâm không chịu nổi, hoặc đau quặn lưng bụng dưới, nước tiểu có máu, mạch huyền hoặc sác.

Pháp điều trị sỏi đường tiết niệu thể thạch lâm: 

Thanh nhiệt lợi thấp, bài sỏi, thông lâm


Bài trị sa trực tràng theo đông y

 Sa trực tràng là chứng bệnh thường gặp ở nhiều lứa tuổi. Biểu hiện tại vùng hậu môn trực tràng sa xuống ra ngoài hậu môn, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ mà mức độ sa ra ngoài dài hay ngắn.

Nguyên nhân sa trực tràng :

chủ yếu do sau khi bị bệnh lỵ mạn tính hoặc táo bón khó đại tiện phải rặn nhiều lâu ngày hoặc sau đẻ trung khí hư gây ra hạ hãm làm cho trực tràng sa xuống khỏi vị trí và giãn to dần sau mỗi lần đại tiện, lâu ngày sa giãn càng nhiều khó có khả năng tự co vào được mà phải dùng tay ấn mới vào được và lại tụt xuống ngay trước hoặc trong khi đại tiện. Bệnh nặng không thể ấn vào ổn định trong bên được mà ở ngoài hậu môn gây khó chịu.

Giai đoạn đầu sa trực tràng (độ 1): 

Trực tràng sa xuống khỏi vị trí ra khỏi hậu môn sau mỗi lần đại tiện, tự co lên được hoặc lên xuống thất thường, khi thấy người mệt thì trực tràng sa xuống, khi cơ thể bình thường thì không thấy trực tràng sa ra ngoài hậu môn.

Phương pháp điều trị giai đoạn đầu sa trực tràng

Bổ trung ích khí thăng đề.

Giai đoạn thứ 2 sa trực tràng (độ 2, 3):

 Trực tràng sa xuống khỏi vị trí, ra khỏi hậu môn sau mỗi lần đại tiện, không tự co lên được, phải dùng tay ấn mới vào được và lại tụt xuống ngay trước hoặc trong khi đại tiện hoặc lao động nặng. Bệnh nặng không thể ấn vào ổn định bên trong được mà ở ngoài hậu môn gây sưng  đau, khó chịu.

Phương pháp điều trị sa trực tràng: 

Bổ trung ích khí thăng đề, thanh nhiệt trừ thấp.

Quan niệm về bệnh theo Đông y

 Thời hiện đại, cuộc sống có rất nhiều áp lực khiến con người dễ bị bệnh tật... làm sao hóa giải?

Bệnh là gì?

Thông thường, mọi người cho rằng bệnh tật là một tổn thương về thể xác mà ta có thể nhìn thấy. Nhưng không phải vậy, con người tồn tại không chỉ có thể xác mà còn cả tâm hồn. Bất cứ điều gì làm mất đi sự “an toàn” cho con người về thể chất và tinh thần đều gây ra bệnh. Trong Đông y, bệnh chính là sự mất cân bằng âm dương trong cơ thể. Sự mất cân bằng này là do tình trạng thái quá (quá nhiều) hoặc bất cập (quá ít). Âm có thể hiểu đơn giản là những điều “hữu hình” mà ta “chạm” đến được, như đau đầu, nhức mỏi, hoa mắt, ù tai... Còn Dương là những điều “vô hình” thuộc về sự biến hóa mà ta chỉ có thể cảm nhận mà không nhìn thấy được, ấy là những “nỗi lòng biết tỏ cùng ai”.

Vì sao tôi bệnh?

Về cơ bản, nguyên nhân gây bệnh có thể chia thành ba nhóm chính: nội nhân, ngoại nhân và bất nội ngoại nhân.

Nội nhân:

Là những nguyên nhân phát sinh bên trong cơ thể, thuộc về tình cảm, cảm xúc, Đông y gọi đó là “Thất tình”, bao gồm: hỷ (vui), nộ (giận), bi - ai (buồn), tư (lo), kinh - khủng (sợ). Mỗi loại cảm xúc  ảnh hưởng trực tiếp đến từng cơ quan, gây ra các rối loạn mà ta có thể quan sát được.

Trước hết là niềm vui, đây là tình chí của tạng Tâm. Khi vui cười, sắc mặt thường đỏ hồng là do Tâm chủ huyết mạch và vinh nhuận ra mặt. Ông bà ta có câu “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, niềm vui làm tinh thần chúng ta cảm thấy sảng khoái, yêu đời. Tuy nhiên, nếu bị phấn khích quá nhiều đến nỗi “cười vỡ bụng”, làm thần bất minh, dẫn đến cuồng loạn thì “lợi bất cập hại”.

Tiếp đến là sự giận dữ, đây là tình chí của tạng Can. Sở dĩ ta hay “tức cành hông” là do tạng Can nằm ở dưới sườn (trung tiêu), Can khí hoành nghịch làm vùng ngực sườn khó chịu. Can suy yếu chức năng chủ sơ tiết làm khí huyết kém lưu thông, cơ thể mệt mỏi, chán ăn, ăn không ngon, ngủ không yên. Nếu đã từng xem qua Tam Quốc diễn nghĩa, hẳn chúng ta còn nhớ đến cảnh Chu Du bị Gia Cát Lượng kích đến giận thổ huyết mà chết. Sự giận dữ cũng hay thấy ở phụ nữ, vì Can chủ huyết, người nữ thì lấy huyết làm gốc.

Nữa là sự buồn phiền, đây là tình chí của tạng Phế. Ứng với sự giận dữ của phụ nữ, chúng ta dễ bắt gặp sự trầm tư ở người nam, nam lấy khí làm gốc. Tiếng thở dài là nỗi niềm của Phế, vì Phế chủ khí. Khi buồn, Phế khí dễ tiêu tán, làm hô hấp bị ảnh hưởng, toàn thân mệt mỏi, thời gian dường như dài thêm - “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (Truyện Kiều - Nguyễn Du).

Kế đến là sự lo lắng, đây là tình chí của tạng Tỳ. Khi lo lắng quá độ, Tỳ khí sẽ uất kết, gây ra các triệu chứng như đầy bụng, đại tiện phân sống, mệt mỏi... Vậy Trang Tử nói “người khôn hay lo” liệu có đúng? Cái lo ấy có chừng mực, không quá đáng, mang lại sự yên ổn cho tương lai chứ không phải cái lo làm mất cả sự bình an của hiện tại.

Cuối cùng là sự sợ hãi, đó là tình chí của tạng Thận. Sở dĩ chúng ta “sợ té đái” là do khi kinh hãi thì khí hạ, Thận không điều khiển sự đóng mở lỗ tiểu. Ngoài ra, khi khí hạ còn gây ra các chứng di tinh, liệt dương, ngực đầy trướng, tâm không yên (do tinh khí không đưa được lên trên để nuôi dưỡng).

Ngoại nhân:

Là những yếu tố từ bên ngoài môi trường. Ngoại nhân phải kể đến lục dâm tà khí (sáu thứ khí gây bệnh) là: phong (gió), hàn (lạnh), thử (nắng - nóng), thấp (ẩm ướt), táo (khô), hỏa (nhiệt). Đó là sáu thứ khí luôn tồn tại trong tự nhiên, thịnh suy theo từng thời điểm trong ngày, trong tháng, trong năm. Khi các khí ấy xuất hiện không đúng thời (sớm hoặc muộn), hoặc quá mạnh, hoặc quá yếu thì nó trở thành tà khí. Tà khí này có gây ra bệnh hay không còn phải kể đến chính khí của cơ thể. Cơ thể khỏe mạnh thì tà khí khó xâm nhập và gây bệnh. Ngược lại, khi cơ thể suy yếu thì dù các loại khí bên ngoài dù bình thường thì vẫn làm tổn thương cơ thể.

Bất nội ngoại nhân:

Hiểu một cách đơn giản, bất nội ngoại nhân là những thói quen sinh hoạt của chúng ta, cơ bản nhất là ăn và ngủ. Trong thời buổi sống chung với thực phẩm bẩn thì việc ăn gì khiến chúng ta phải đau đầu. Ấy là còn chưa kể đến những món ngon quyến rũ như: món nướng, xông khói, thức ăn nhanh... Thế mới thấy ông bà ta nói “Bệnh tòng nhập khẩu” quả chẳng sai- “thức ăn quyết định số phận”. Giấc ngủ chiếm 1/3 cuộc đời, là khoảng thời gian để cơ thể hồi phục sau một ngày làm việc. Khi mà ánh điện đã xua tan màn đêm yên tĩnh thì việc ngủ nghỉ đúng giờ dường như trở nên xa xỉ. Không khó để bắt gặp hình ảnh các bạn trẻ thức thâu đêm để xem phim, lên mạng xã hội... hoặc kiếm tiền.

Tuổi trẻ bán sức khỏe kiếm tiền

Và liệu bỏ tiền có mua lại được sức khỏe? Câu trả lời hẳn là không thể. Thế nên Benjamin Flanklin từng nói: chỉ khi người giàu ốm họ mới hiểu được sự bất lực của giàu sang. Hay Thomas Fuller cũng từng nói: người ta không coi trọng sức khỏe cho đến khi đau yếu.

Lời khuyên cho sức khỏe: giữ cân bằng thể chất và tinh thần

Tập thể dục ít nhất 20 phút mỗi ngày.

Ngủ sớm, tốt nhất trước 23h.

Không gội đầu đêm. Tốt nhất trước 18h.

Ăn uống đúng giờ.

Ăn nhiều rau xanh, trái cây. Hạn chế thức ăn nhiều dầu mỡ, thức ăn đóng hộp...

Giữ tinh thần thoải mái, biết từ chối các áp lực quá mức.

Hạn chế sự phụ thuộc vào các thiết bị công nghệ.

Dành thời gian cho bản thân, gia đình, bạn bè.

Nguyên nhân gây bệnh về da theo y học cổ truyền

 Theo y học cổ truyền (YHCT), bệnh ngoài da đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau như bị nhiễm độc do trùng cắn (do côn trùng), cũng có thể bị nhiễm ngoại tà (đó là do các yếu tố: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa); nhưng gốc vấn đề đối với các bệnh da mạn tính vẫn là từ khí huyết, can thận.

Những tác nhân bên ngoài

Phong: Phong tà được coi là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn tới bệnh về da. Những người có cơ thể yếu, chức năng phòng vệ của cơ thể không đủ mạnh, phong tà xâm nhập gây nên dinh vệ mất điều hòa.

Khi khí huyết lưu thông bị trở trệ, da và cơ mất dinh dưỡng, da người bệnh bắt đầu xuất hiện những nốt sần ngứa, ban đỏ, da khô, mụn cóc. Bệnh ngoài da do phong thường có triệu chứng như  bệnh phát nhanh, di chuyển, dễ lan ngứa toàn thân nhưng cũng có thể mất đi nhanh (ví dụ như nổi mề đay). Phong tà xâm nhập cơ thể thường kết hợp với các khí xấu khác gây nên chứng bệnh như phong hàn, phong nhiệt phong thấp...

Thấp: Thấp có ngoại thấp và nội thấp. Với những người sống và làm việc tại các nơi ẩm thấp rất dễ sinh bệnh ngoài da, Đông y gọi đó ngoại thấp. Bản thân thấp thuộc về âm tà nên có tính nặng trọng, hậu quả là bệnh phát sinh ở phần dưới cơ thể đặc biệt là khu vực bàn chân. Triệu chứng của bệnh là các bọng nước gây ngứa lở. Bệnh lâu khỏi, hậu quả là người bệnh chán ăn, có những trường hợp bụng đầy, rêu lưỡi dày, mạch nhu hoạt…

Bệnh mề đay

Nhiệt: Nếu như Thấp thuộc âm tà thì Nhiệt là dương tà. Khi nóng từ bên ngoài (ngoại cảm nhiệt tà) khiến cơ thể mất cân bằng, hoặc do tạng phủ thực nhiệt tiết nhiệt ra bên ngoài da quá mạnh dẫn tới các triệu chứng như sưng nóng đỏ, ngứa kèm theo đau rát. Người bị bệnh ngoài da dạng này thường có biểu hiện nóng bứt rứt, khát nước, táo bón, tiểu vàng đậm, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.

Trùng: Côn trùng cũng là nguyên nhân dẫn tới bệnh ngoài da. Nguyên do là  độc tố của trùng đi vào cơ thể gây nên sưng đau, ngứa, nóng đỏ hoặc do dị ứng của cơ thể. Người bệnh cảm thấy khó chịu, ngứa ngáy ngay tại vết cắn hoặc lan rộng toàn thân tùy thuộc vào loại côn trùng gây hại. Đối với trùng cắn có thể lây lan ra các vị trí khác của cơ thể hoặc lây sang người khác nếu tiếp xúc với vết tổn thương (ví dụ như viêm da tiếp xúc do kiến ba khoang).

Độc: Cổ nhân có câu bệnh từ miệng mà vào, các loại thuốc chữa bệnh, đồ ăn, tiếp xúc chất độc… đều có thể gây nên bệnh ngoài da. Bệnh do nguyên nhân này thường phát đột ngột, có các triệu chứng tại chỗ như: sưng nóng đỏ, đau, ngứa, nổi sần, ban đỏ, mụn nước. Triệu chứng toàn thân nặng hay nhẹ tùy theo loại độc và mức độ nhiễm độc.

Tác nhân từ huyết và can thận bất túc

Không chỉ nguyên nhân từ bên ngoài cơ thể như phong tà, thấp, nhiệt, trùng cắn, nhiễm độc, bệnh ngoài da còn có thể do huyết ứ, huyết hư và can thận bất túc.

Huyết ứ: Theo YHCT,  khi khí huyết cơ thể không lưu thông, bị tắc trệ hoặc trở trệ; phần lớn do can khí uất kết hoặc ngoại tà xâm nhập lâu ngày khiến khí cơ thể rối loạn dẫn đến khí trệ huyết ứ mà gây nên bệnh ngoài da. Người bệnh có biểu hiện đau tức mạng sườn, hoặc stress, hay cáu gắt, bực bội. Bệnh phát ra ngoài da thành ban ứ huyết (nổi nốt đỏ thẫm), sắc da vùng bệnh đỏ tối hoặc xanh tía, tổn thương ngoài da dày lên, có nốt cục, lưỡi bệnh bệnh nhân có mầu đỏ tối, có điểm ứ huyết, mạch huyền sác …

Bệnh về da do can thận âm hư

Huyết hư phong táo: Khi mắc bệnh lâu ngày, hoặc tỳ vị hư nhược dẫn tới huyết không đủ nuôi dưỡng da (thường gặp ở bệnh nhân bị bệnh ngoài da mãn tính). Huyết hư cũng không đủ nuôi dưỡng can, can âm hư, can dương thịnh tiết ra ngoài da mà hệ quả là bệnh phát ra ngoài da.

Những bệnh ngoài da do huyết hư phong táo có đặc điểm là bệnh kéo dài, da khô, dày lên nứt nẻ, tróc vảy. Người bệnh còn gặp thêm một loạt triệu chứng như hoa mắt, chóng mặt, sắc mặt tái nhợt, hoặc sốt âm ỉ kéo dài, ngày nhẹ bệnh nặng về ban đêm, hoặc nặng nhẹ thay đổi theo trạng thái tinh thần, tâm trạng bứt rứt dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác (chứng huyết hư can vượng).

Can Thận bất túc: Một số bệnh ngoài da phát sinh do can thận bất túc, là bệnh ngoài da do can và thận không đủ sức điều hòa cơ thể. Khi huyết hư thì không cấp đủ dưỡng chất cho can, dẫn tới can suy nhược, biểu hiện là móng khô, mòn, dễ gãy, mủn móng, chân móng dày lên. Can hư huyết táo bệnh phát ra ngoài da hình thành mụn cóc, mụn cơm. Can kinh uất hỏa huyết ứ sinh mụn huyết. Can Thận đồng nguyên nên thận tinh bất túc còn gây rụng tóc, tóc dễ gãy. Bệnh ngoài da trong trường hợp này thường kèm theo các triệu chứng chóng mặt, ù tai, lưng gối mỏi đau, mất ngủ, mộng tinh, di tinh, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác. Trường hợp sắc mặt tái nhợt, chân tay lạnh, lưng gối mỏi, chóng mặt, ù tai, liệt dương, lưỡi bệu nhợt, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế là chứng Thận dương hư.

Theo YHCT có 8 nguyên nhân gây nên bệnh về da, nhưng bệnh lại thường do 2 hoặc nhiều nguyên nhân kết hợp mà thành. Các yếu tố như trạng thái tinh thần, chế độ ăn uống, nghề nghiệp, khí hậu, tính lây truyền của độc tà (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm…) đều có liên quan mật thiết tới bệnh về da. Thầy thuốc YHCT phải xác định được căn nguyên mới điều trị hiệu quả được các bệnh về da.

Trị các bệnh ngoài da theo y học cổ truyền

 Tùy theo hiện trạng vùng da bị tổn thương, hoặc giai đoạn bệnh, người bệnh có thể điều trị ngoại khoa- dùng thuốc điều trị tại vùng da bị bệnh, cũng có thể điều trị nội khoa. Y học cổ truyền (YHCT) có hàng chục bài thuốc giúp giải quyết tận gốc bệnh ngoài da, đưa cơ thể con người đạt đến trạng thái cân bằng với tự nhiên.

Bệnh ngoài da và các bài thuốc điều trị nội khoa

Sau tứ chẩn, người thầy thuốc YHCT đã tìm được nguyên nhân gây bệnh. Dựa vào những nguyên nhân như phong tà, trùng độc, hay huyết ứ, huyết hư bác sĩ YHCT sẽ có những pháp đồ điều trị thích hợp với từng bệnh nhân.

Sơ phong tán hàn: dùng trị chứng phong hàn hư như mề đay, luput ban đỏ, …

Sơ phong thanh nhiệt: dùng trị chứng phong nhiệt như phong nhiệt sang, thấp sang…

Thanh nhiệt lợi thấp: dùng trị chứng thấp nhiệt hoặc thử thấp như chàm lở chảy nước (thấp sang), nhọt có mủ (nùng bào sang).

Lương huyết giải độc: Dùng trị chứng nhiệt độc hoặc huyết nhiệt như chứng viêm da do dị ứng thuốc, vảy nến, tử ban,…

Hoạt huyết hoá ứ: dùng trị chứng khí trệ huyết ứ như chứng hồng ban cục, xơ cứng bì,…

Dưỡng huyết nhuận táo: Dùng trị chứng huyết hư phong táo như chứng viêm da thần kinh (ngưu bì tiễn), chàm mạn tính,…

Tư âm giáng hoả: dùng trị chứng can thận âm hư hoả vượng như chứng ban đỏ rải rác, xơ cứng bì,… 

Ôn thận tráng dương: dùng trị chứng tỳ vị thận dương hư như chứng xơ cứng bì, luput ban đỏ rải rác,… 

Theo lý luận của YHCT, YHCT dựa trên nền tảng của triết học Á Đông với Âm – Dương, Ngũ hành. Theo đó mỗi con người đã là một vũ trụ thu nhỏ và phải luôn hài hòa với tự nhiên.

Khi khám chữa bệnh, không hiếm những trường hợp người bệnh có các chứng trạng như hàn nhiệt kết hợp, hư thực đan xen. Điều này bắt buộc người bác sĩ phải Tứ chẩn một cách kỹ lưỡng, thận trọng để tìm được nguyên nhân gây bệnh, từ đó đưa ra phác đồ điều trị thích hợp cho người bệnh.