Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020

Cách trị chứng tâm vị hỏa thịnh theo đông y

 Chứng tâm vị hỏa thịnh biểu hiện vị quản đau rát, tâm phiền cồn cào, nôn ra huyết, thổ ra huyết, miệng lưỡi, mụn nhọt, hoặc bị lở loét, chảy máu chân răng, có khi chân răng sưng đau, mặt thường đỏ, miệng hôi, khát nước, thích uống nước mát, đại tiện táo bón, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Nguyên nhân thường là do ăn uống nhiều thức ăn cay nóng, hoặc do tà khí uất lâu ngày mà hoá hoả, hoặc do tình chí mà hoả phát ra từ bên trong phối hợp với hoả ở vị mà sinh ra bệnh, chứng tâm vị hoả thịnh thường gặp trong chứng thổ huyết, khẩu sương.

Do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết:

Nguyên nhân bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết:

 Tâm chủ huyết, vị chủ giáng, do tâm vị hỏa nhiệt quá thịnh, lạc mạch bị tổn thương, do hỏa bức bách huyết, làm cho huyết đi càn, vị nghịch lên do hỏa thịnh mà nôn mửa ra huyết.

Biểu hiện bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết

Sách Chư bệnh nguyên hậu luận viết: “Thượng tiêu có tà làm tổn hại đến các tạng, khi tạng bị tổn hại thì huyết chảy vào vị, vị gặp huyết thì đầy tức khí nghịch, vì khí nghịch cho nên thổ ra huyết, huyết thổ ra có màu tươi đỏ hoặc tía xám, kèm theo thức ăn.

Điều trị bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết

Thanh tả hỏa ở tâm vị.

Do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương:

Nguyên nhân bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương

Do tình chí bị tổn thương làm cho khí uất mà sinh hỏa. Hoặc do ăn uống nhiều thức ăn cay nóng hoặc do hư tà của bệnh nhiệt nung nấu ở tâm vị mà gây ra bệnh.

Biểu hiện bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương : 

Miệng lưỡi mọc đầy mụn, có màu đỏ, hoặc loét từng đám, chân răng sưng đau làm trở ngại ăn uống.

Điều trị bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương : 

Thanh tả hỏa ở tâm vị, lương huyết.

Trị chứng "đèn đỏ phập phù" theo đông y

 Các bài thuốc dân gian sau chữa các chứng khí hư, huyết hư,... do kinh nguyệt thất thường trong ngày "đèn đỏ" của chị em.

Chứng hư hàn gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do hư hàn : 

Kinh nguyệt  đến sau kỳ, lượng kinh ít, màu nhợt, chất loãng, sắc mặt trắng, tinh thần uể oải, tim hồi hộp, hay hụt hơi, ngại nói, eo lưng và chân đau mỏi, bụng dưới sa xuống, chất lưỡng nhợt, rêu lưỡi mỏng ướt, mạch hư nhược vô lực.

Phép trị  kinh nguyệt thất thường do hư hàn: 

Ôn kinh tán hàn. Dùng bài Ngải tiễn hoàn

Chứng khí hư gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí hư :

 Kinh ra trước kỳ, lượng kinh nhiều, màu nhợt, chất loãng, sắc mặt trắng bóng, tinh thần uể oải, tim hồi hộp, đoản hơi, ngại nói, eo lưng và hai chân mỏi, bụng dưới sa xuống, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi mỏng ướt, mạch hư nhược vô lực.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí hư: 

Bổ khí cố kinh.

Chứng huyết hư gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do huyết hư :

 Kinh ra sau kỳ, lượng ít, huyết nhợt, chất loãng, thân thể gầy yếu, sắc mặt úa vàng. Môi, lưỡi, móng tay, móng chân xanh nhợt, da dẻ khô sáp, đầu choáng, mắt hoa, tim hồi hộp, ít ngủ, chất lưỡi nhợt không có rêu. Mạch tế sác hoặc hư tế. Nếu kèm chứng khí hư là khí huyết đều hư.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do huyết hư: 

Bổ huyết điều kinh.

- Nếu khí huyết đều hư thì bổ khí dưỡng huyết

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí huyết đều hư 

Kỳ kinh đến sớm muộn không nhất định, lượng huyết nhiều ít không nhất định (gọi là rối loạn kinh nguyệt), sắc huyết nhợt mà trong, sắc mặt vàng bệch, tay chân phù, chân tay mệt mỏi mà thích nằm, mặt mày xây xẩm, tim hồi hộp, có lúc bụng trướng, miệng nhạt ăn không biết ngon, ăn ít, hay nôn mửa, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhợt rêu trắng, mạch hư trì.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí huyết đều hư: 

Bổ tỳ điều kinh. 

Chứng can thận hao tổn gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng  kinh nguyệt thất thường do can thận hao tổn:

 Kinh ra trước hoặc sau kỳ kinh, lúc nhiều lúc ít, màu nhợt, chất loãng. Sắc mặt xanh nhợt hoặc xẩm tối, đầu choáng, tai ù, eo lưng đau nhức, chân yếu, ăn kém, ngủ kém, bụng dưới sa xuống và đau, hay đi tiểu tiện về đêm, lưỡi nhạt, rêu mỏng có vết rạn nứt, mạch trầm nhược.

Phép trị chứng  kinh nguyệt thất thường do can thận hao tổn:

 Bình can bổ thận. 

Chứng huyết ứ gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do  huyết ứ:

 Kinh ra sau kỳ lượng huyết ít, màu tím đen, đóng cục, sắc mặt tím xám, bụng dưới trướng đau đè vào khó chịu, khi huyết cục đã ra thì bụng bớt đau, ngực, bụng trướng đầy không thư thái, đại tiện táo bón, tiểu tiện ngắn màu vàng, lưỡi đỏ xám, mạch trầm sác.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do  huyết ứ:

 Hành huyết trục ứ.

Chứng khí uất gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí uất:

 Kinh ra trước kỳ, sau kỳ không nhất định, lượng ít, sắc đỏ tía có cục, sắc mặt xanh xám, tinh thần uất ức. Trước kỳ kinh hai vú căng lên, lúc đó kinh bụng dưới trướng đầy đau, (có trường hợp bụng đau trước khi có kinh) đau lan lên hai mạn sườn. Ngực đầy tức, dạ dày căng, ợ hơi được thì thấy nhẹ đi, rêu lưỡi trắng, mạch huyền.

- Nếu kèm có nhiệt chứng thì kinh nguyệt thấy trước kỳ, người phiền nhiệt, môi khô miệng ráo, rêu lưỡi vàng, mạch sác.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí uất:

 Điều khí giải uất.

Chứng đờm thấp gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do đờm thấp : 

Thường thấy kinh sau kỳ, sắc huyết nhợt đặc dính, lượng kinh nhiều ít không chừng, mặt trắng bệch, ngực tức, bụng đầy trướng, hay buồn nôn, ăn uống kém, miệng nhạt có nhớt. Rêu lưỡi trắng có nhớt, mạch huyền hoạt, có khí hư hoặc huyết hư, có trường hợp kinh ra trước kỳ mà lượng quá nhiều.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do đờm thấp: 

Kiện tỳ tiêu đờm. 


Bài chữa chứng mất ngủ trong đông y

 Đông y cho rằng: “Ngủ là gốc của phần âm do thần làm chủ. Khi thần yên thì ngủ được, thần không yên thì ngủ kém hoặc ngủ lơ mơ.

Sở dĩ thần không yên là do tà khí bên ngoài xâm nhập tâm hoặc do ăn uống quá mức sinh ra đờm hỏa đọng lại trong tâm quấy nhiễu, hay do dinh khí không đủ để nuôi dưỡng âm huyết. Những nguyên nhân ấy sinh ra chứng mất ngủ”.

Có 5 nguyên nhân chính gây ra chứng mất ngủ:

Chứng mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu: 

Lao động mệt nhọc hoặc suy nghĩ quá nhiều làm tổn thương đến tâm và tỳ, huyết dịch của tâm hao tổn, tâm thần không ổn định nên sinh ra mất ngủ kinh niên.

Triệu chứng mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu

Sắc mặt không tươi, người mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn uống không ngon miệng, hay quên, tim hồi hộp, đêm ngủ lơ mơ hoặc thức trắng đêm không ngủ được, mạch tế hoặc sác.

Điều trị mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu

Bổ dưỡng tâm tỳ.

Chứng mất ngủ do âm suy hỏa vượng: 

bắt nguồn từ thận thủy yếu, chân âm suy không sinh ra được nhiều huyết đưa lên tâm (tim), tâm thiếu huyết hỏa của tâm cang thịnh, tâm phải làm việc nên mất ngủ hoặc trằn trọc không ngủ được. Mặt khác, bản thân tạng thận cũng có thủy hỏa (âm dương) khi âm suy thì dương của thận càng vượng, hỏa bốc lên cũng sinh ra chứng mất ngủ.

Triệu chứng  mất ngủ do âm suy hỏa vượng:

 Đầu nặng, hay choáng váng, tai ù, tâm phiền, tân dịch ít nên hay khô miệng, đối với tuổi trung niên thường hay mộng tinh, di tinh, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Điều trị chứng mất ngủ do âm suy hỏa vượng: 

Tư âm thanh hỏa.

Chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư : 

Một yếu tố làm cho người ta ngủ tốt là khí của tâm và đởm tốt, làm cho con người điềm tĩnh, ban ngày làm việc tốt, ban đêm ngủ đẫy giấc. Khi khí của tâm và đởm hư suy làm cho con người yếu đuối, hay sợ hãi, đêm ngủ không yên “khi tâm và đởm yếu nên gặp việc khó hay sợ hãi, đêm nằm chiêm bao thường thấy những điều sợ hãi, khi tỉnh dậy thấy khó chịu và không ngủ lại được, có khi mất ngủ cả đêm”, cũng có trường hợp gặp sự việc bất thường làm hoảng sợ dẫn đến đởm khiếp, tâm khí tổn hao mà sinh chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư: 

do đởm khiếp, tâm hoang mang nên gặp việc hay sợ hãi, nằm ngủ hay thấy chiêm bao sợ hãi, khi tỉnh dậy vẫn sợ hãi, mạch huyền tế. 

Điều trị chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư: 

Bổ tâm khí để định chí.

 Chứng mất ngủ do tỳ vị không điều hòa:

 Vị (dạ dày) không điều hòa làm thức ăn và đờm hỏa tích lại trong bụng, gây ra chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do tỳ vị không điều hòa: 

đờm nhiều hay khạc ra đờm, miệng đắng, mắt mờ, buồn bực, trong vùng ngực khó chịu, đại tiện không thư sướng, vùng thượng vị đầy tức do thức ăn lưu lại, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.

Điều trị mất ngủ do tỳ vị không điều hòa:

 Điều hòa tỳ vị, tiêu thực, hóa đờm.

 Chứng mất ngủ do suy nhược cơ thể : 

sau khi ốm đã điều trị bệnh khỏi, hoặc phụ nữ sau khi sinh, hoặc người cao tuổi khí huyết hư yếu, tạng tâm và tỳ hư suy, tâm thần không yên sinh chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do suy nhược cơ thể: 

Cơ thể gầy còm, sắc mặt trắng bợt, ăn uống kém hay có cơn mệt bất thường, giấc ngủ không sâu, nửa đêm tỉnh dậy rồi không ngủ lại được, lưỡi  nhạt, mạch tế sác.

Điều trị mất ngủ do suy nhược cơ thể: 

bổ khí dưỡng huyết, bổ tâm an thần.

Đau thắt ngực trong đông y

  Đau thắt ngực là một bệnh tim mạch thường gặp ở người cao tuổi, người bị tăng huyết áp, tiền sử có bệnh tim mạch, đái tháo đường hoặc do căng thẳng thần kinh.

Nguyên nhân do nhu cầu về máu của cơ tim vượt quá lượng máu được cung cấp từ động mạch vành và thường do động mạch vành bị xơ vữa.

Đông y xếp chứng đau thắt ngự  vào phạm vi chứng tâm thống. 

Nguyên nhân đau thắt ngực do nội nhân và ngoại nhân. 

Nội nhân chủ yếu do tuổi cao, chức năng của 3 tạng tâm, tỳ và thận bị suy yếu, âm dương khí huyết không đầy đủ, khiến cho tâm mạch bị nghẽn tắc mà gây nên bệnh. Ngoại nhân chủ yếu do nhiễm lạnh đột ngột, ăn quá no, tình chí kích thích quá mạnh hoặc làm việc quá mệt nhọc, khiến tâm mạch bị nghẽn tắc mà gây nên bệnh.

Người bệnh có những triệu chứng điển hình là bỗng nhiên đau thắt ở ngực trái - vùng trước tim và sau xương ức; đau thường lan lên cổ, hàm, vai, cánh tay trái hoặc ra sau lưng. Cơn đau thường xuất hiện đột ngột, khi phải gắng sức, bị nhiễm lạnh, ăn uống quá no say, tình cảm kích động mạnh.

Trị chứng loét miệng, chứng loét lưỡi do tâm vị hỏa thịnh

 Chứng tâm vị (tim và dạ dày) hỏa thịnh là do hỏa nhiệt nung nấu ở hai tạng này làm cho sự vận hóa mất bình thường, phần nhiều do vị khí không giáng xuống, hỏa tà ngày càng thăng lên, phần nhiều do ăn thức ăn cay nóng, uống nhiều rượu bia hoặc do tà khí (vi khuẩn) uất kết lâu ngày hóa hỏa.

Hoặc do tình chí uất kết lâu ngày, hỏa phát từ tâm, phối hợp với hỏa sẵn có ở vị kết hợp với nhau mà sinh bệnh.

Tâm với vị một thuộc tạng, một thuộc phủ nhưng về sinh lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nên khi sinh bệnh cũng ảnh hưởng lẫn nhau. Chứng tâm vị hỏa thịnh có nghĩa là tâm và vị đều mắc bệnh. Tâm chủ huyết, vị chủ giáng, khi tâm vị hỏa nhiệt quá thịnh, mạch lạc bị tổn thương, huyết trong tâm bị hỏa bức bách phải đi càn, làm vị khí nghịch lên mà nôn ra huyết. Đông y cho rằng: “Thượng tiêu có tà thì làm tổn hại các tạng khác, khi tạng bị tổn thương thì huyết chảy vào vị, vị chứa nhiều huyết thì đầy tức, khí phải nghịch lên không giáng được mà sinh ra các bệnh ở răng miệng và nôn ra huyết”. Chứng tâm vị hỏa thịnh thường do khí lục dâm bị uất hóa hỏa ở bên trong truyền vào tâm vị mà sinh bệnh. Ở nước ta, cả bốn mùa đều có thể sinh bệnh. Về nội nhân người lớn tuổi vốn huyết kém, thường sinh nhiệt kết hợp với tình chí không thoải mái, uống nhiều rượu bia, ăn nhiều chất cay nóng cũng có thể dẫn đến mắc chứng tâm vị hỏa thịnh. Ngoài ra còn do ngoại cảm xâm phạm vào phế vị quấy rối thanh khiếu làm tổn thương phế âm, dẫn đến tâm hỏa vượng mà sinh ra bệnh. Cũng có trường hợp do vị nhiệt vị khí không giáng xuống mà nghịch lên các trường hợp này thường gọi là thượng tiêu mắc chứng táo nhiệt. Khi điều trị phải thanh vị nhiệt, tả tâm hỏa.

Theo Đông y, mụn mọc đầy miệng gọi là khẩu mi, nếu có nốt nhỏ màu trắng mọc ở hàm trên gọi là thất tinh sương. Bệnh không ngoài ở tâm, vị và phế, vì ba kinh này bị nhiệt nung nấu.

Biểu hiện: Tâm (tim) phiền cồn cào, vị quản đau rát, có khi nôn ra huyết, miệng lưỡi lở loét, hoặc có nhiều mụn nhọt, chảy máu chân răng, chân răng sưng đau, miệng hôi, khát nước, thích uống nước mát, mặt đỏ, đại tiện táo bón, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Tùy từng trường hợp mà dùng bài thuốc điều trị như sau:

Do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng thổ huyết.  

Tâm chủ huyết, do tâm vị hỏa thịnh bức bách huyết đi càn mà sinh bệnh.

Biểu hiện do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng thổ huyết: 

Bệnh nhân nôn ra huyết nhưng không có tổn thương ở vùng phế vị, huyết nôn ra có màu tươi, hoặc tía xám kèm theo thức ăn. 

Điều trị do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng thổ huyết: 

Thanh nhiệt tả hỏa ở tâm vị.

Do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng mụn nhọt ở miệng lưỡi

Người lớn tuổi vốn tâm hỏa, huyết nhiệt lại hay ăn cay nóng, uống rượu bia, nên dễ sinh ra chứng loét miệng lưỡi.

Biểu hiện do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng mụn nhọt ở miệng lưỡi: 

Miệng lưỡi mọc mụn có màu đỏ hoặc loét từng đám, chân răng sưng đau làm trở ngại việc ăn uống.

Điều trị do tâm vị hỏa thịnh sinh chứng mụn nhọt ở miệng lưỡi : 

Thanh nhiệt tả hỏa ở tâm vị, lương huyết.


Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Chữa hen tận gốc của Đông y

 Nguyên tắc trị bệnh cơ bản của Đông y là: chữa bệnh phải tìm đến tận gốc bệnh

Đông y  không chỉ chú trọng tới việc làm giảm các triệu chứng biểu hiện bên ngoài mà còn coi trọng việc cải thiện bệnh ở sâu bên trong, nhằm tạo ra tác dụng bền vững, lâu dài. Nguyên tắc trị bệnh cơ bản của đông y  là: chữa bệnh phải tìm đến tận gốc bệnh, làm cho cơ thể khỏe mạnh lên để tăng sức đề kháng chống bệnh vì chính khí mạnh thì tà khí phải lui.

Như, trong trị ho, ngoài tác dụng làm giảm ho, trừ đờm, Đông y  gọi là Tả, Tây y gọi là giảm triệu chứng, thì còn chú trọng tới tác dụng Bổ, khôi phục được chức năng của các tạng phủ liên quan như tác dụng bổ phế. Muốn bổ phế, thì không chỉ chú ý tới tạng phế, mà còn phải chú ý tới các tạng khác như: tỳ, vị, thận… Tiến triển trong quá trình điều trị theo Đông y sẽ làm bệnh nhẹ đi, thưa dần và tiến đến không tái phát cơn hen.

Bên cạnh điều trị bằng cách hướng vào căn nguyên gây bệnh, Đông y còn điều trị ho hen kết hợp với điều trị tổng thể để cân bằng khí hóa trong cơ thể dựa trên căn nguyên của bệnh ho hen, hướng vào phục hồi các tạng gây ra bệnh.

Theo Thuyết Âm dương ngũ hành, phế thuộc hành kim, tỳ thuộc hành thổ. Thổ sinh kim. Vì thế phế hư thì phải bổ tỳ, vị, hay nói cách khác là con hư bổ mẹ. Thêm nữa, thận thuộc hành thủy. Kim lại sinh thủy. Nên nếu bệnh ở phế, phải kết hợp trị bệnh ở thận, theo nguyên lý mẹ thực tả con, thận thông thì phế thông.

Đông y coi viêm phế quản thể hen, hen phế quản , bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đều thuộc bệnh “háo suyễn”. Và cách điều trị đều chung một nguyên tắc. Đông y cho rằng chứng hen suyễn phát sinh do 3 nguyên nhân: Ngoại cảm lục dâm; Nội thương ẩm thực; Tỳ, phế, thận hư nhược.

Khi bệnh nhân bị bệnh là do Tỳ, phế, thận hư nhược (hay suy giảm chức năng) nên sức đề kháng của cơ thể giảm xuống, khi đó gặp tác dụng bất lợi của môi trường, chẳng hạn trời lạnh xuống, khí đạo sẽ bị viêm, đờm sẽ sinh ra gây nên hen suyễn.

Để điều trị hen suyễn, Đông y cho rằng phải phục hồi chức năng nội tạng mà chủ yếu là Tỳ, Phế, Thận nhờ đó sức đề kháng của cơ thể tăng lên, các kháng thể tự sinh ra, ức chế các virút, tiêu viêm, khí quản và phế quản trở lại bình thường, đờm được tiêu trừ, hen không còn nữa.

Như vậy nguyên tắc chung điều trị viêm phế quản, hen phế quản, phổi tắc nghẽn ở đây là phò chính, khu tà. Sách Nội Kinh đã chỉ rõ: “Tà chi sở tấu, chính khí bất an”. Sau khi cắt cơn hen, tiếp tục điều trị “phò chính”, làm cho cơ thể càng khỏe lên, sức đề kháng tăng cao, sau đó dù cho môi trường bất lợi thì hen cũng không thể xảy ra được.

Về hen phế quản, một học giả người Nhật đã từng viết: Hen không chỉ là vấn đề ở đường hô hấp, nó là bệnh của toàn thân mà những biểu hiện tập trung ở đường hô hấp, đặc trưng bởi sự co thắt phế quản và sự tăng tiết chất nhầy. Mục đích của điều trị Đông y là điều trị toàn diện, đem lại sự cân bằng cho toàn thân, tăng sức đề kháng của cơ thể, đồng thời quan tâm đến bài trừ nguyên nhân bệnh, vì thế hen mới khỏi dứt điểm được. Còn nếu điều trị theo Tây y, dùng thuốc giãn phế quản và các Steroide thì có tác dụng làm giảm nhẹ nhanh các triệu chứng (cắt cơn hen) nhưng không loại bỏ được căn nguyên bệnh, vì thế mà bệnh cứ tái đi tái lại làm cho các bệnh nhân hen suyễn phải chung sống suốt đời với bệnh.

Cũng bởi nguyên lý chữa bệnh tận gốc, chữa trị căn nguyên gây bệnh, nên Đông y có thể chữa sạch khỏi rất nhiều bệnh.

Điều trị suy dinh dưỡng ở trẻ em theo y học cổ truyền

 Bệnh suy dinh dưỡng trẻ em, y hoc cổ truyền (YHCT) thường gọi là chứng Cam, bệnh này luôn liên quan đến sự hoạt động tiêu hóa thất thường (tích trệ đồ ăn, trùng tích) nên gọi là Cam tích. Chứng hay phát ra ở trẻ em gầy yếu với các biểu hiện mặt vàng, bắp thịt gầy, bụng căng trướng, tiêu hóa kém...

Chứng cam theo YHCT gồm các loại sau:

- Tỳ cam do ăn uống không điều độ, Tỳ Vị thọ thương sinh bệnh.
- Tâm cam: do ăn uống không điều độ, Tâm kinh uất nhiệt sinh bệnh.
- Phế cam: do nhiệt uất ở phế.
- Can cam: do can kinh uất nhiệt.
- Thận cam: do bệnh cam lâu ngày làm thận tổn thương.
- Nhiệt cam: do dứt sữa sớm, do ăn uống không điều độ.
- Khẩu cam: sau bị cam tích tiêu chảy, do thấp nhiệt đốt tân dịch sinh ra.
- Đinh hề cam: do ăn quá nhiều Tỳ Vị tổn thương.
- Bộ lộ cam: do trùng tích.

Nguyên nhân suy dinh dưỡng

- Do dứt sữa quá sớm, trường vị chưa hoạt động đầy đủ mà đã ăn cháo, cơm khiến cho trung khí bị hư tổn mà thành bệnh.

- Do ăn uống không điều độ, ăn quá nhiều chất béo ngọt sinh Vị nhiệt và trung mãn Tỳ Vị tích trệ.

- Do sau ốm dậy thiếu bồi dưỡng, nên nguyên khí không hồi phục mà sinh bệnh.

- Do bị sởi đậu hoặc các chứng lặt vặt mà uống nhiều thuốc bổ, thuốc hạ làm tiêu hao tân dịch mà thành bệnh cam.

- Do thường đi tiểu khi vàng khi đỏ. mùi khai ngấy hoặc dầm dề hoặc bế tắc hoặc đái khó, đái đục như nước vo gạo, nếu không trị thì âm dương không phân biệt mà sinh đi tả lỵ, thấp nhiệt không trừ sinh sốt rét, sinh lâm lậu rồi cũng thành ra bệnh cam.

Tóm lại, do Tỳ Vị hư yếu, khí huyết khô trệ, sinh tích, sinh nhiệt, sinh đờm, nhân khi tạng khí hư mà truyền vào gây nên bệnh cam cho nên bệnh cam là bệnh khô ráo. Nếu bị sốt cơn mà dùng phác tiêu, đại hoàng để xổ, bị tích báng mà dùng ba đậu, bằng sa để tả hạ thì cũng đều thành ra bệnh cam cả.

Triệu chứng

Tỳ cam: 

trẻ hơi xanh xao, cơ thể gầy hơn trẻ bình thường. Biếng ăn, đi tiêu phân khi khô khi lỏng, sôi bụng. Tân dịch giảm gây âm hư sinh miệng khô, khát nước, triều nhiệt. Bụng to, nổi mạch máu xanh, ưa tối sợ sáng, tay chân kém sức, rêu lưỡi trắng.

Tâm cam: 

mình nóng, mặt vàng, má đỏ, miệng lưỡi lở, khát nước, đổ mồ hôi trộm, tiểu đỏ gắt, hay nghiến răng, dễ kinh sợ.

Phế cam:

 ho nhiều, kém hơi, chảy nước mũi, bụng trướng, đi phân lỏng như nước vo gạo, miệng có mùi tanh, da lông khô.

Can cam:

 người gầy, da khô, bộ mặt ông già, tinh thần mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, tiêu chảy có máu hoặc chất nhầy, nháy mắt hoặc quáng gà, khô loét giác mạc, mắt thường nhắm, loét miệng, ban, phù thũng.

Thận cam: 

sắc mặt đen sạm, chân răng chảy máu, sưng lở, thượng nhiệt, hạ hàn, lòi dom, hậu môn lở loét, có thể có thêm ngũ trì, ngũ nhuyễn.

Nhiệt cam: 

lòng bàn tay khô nóng, phiền khát, hay ăn vặt, tiêu chảy.

Khẩu cam:

 miệng lở loét.

Đinh hề cam:

 bụng to, cổ bé, mặt vàng, tay chân teo gầy.

Cam tích (bộ lộ cam): 

người gầy, hay sốt, bụng to nổi gân xanh, ăn nhiều, hay ói mửa, có khi ói ra lãi. Sôi bụng tiêu lỏng, có khi táo bón, đi ra lãi.


Điều trị Tỳ cam:

Phép trị: bổ khí, bổ Tỳ Vị.

Điều trị Cam tích:

Phép trị: bổ khí, bổ Tỳ Vị, tiêu tích.

Điều trị Can cam:

Phép trị: bổ khí huyết, bổ can thận.