1. đại cương:
-Theo Y học Cổ truyền: cơ chế bệnh sinh chủ yếu của viêm tắc tĩnh mạch
là khí - huyết ngưng trệ, mạch lạc trở tắc làm cho tĩnh mạch lớp nông
và lớp sâu đều bị tắc; có thể cấp tính hoặc mãn tính. Tuy nhiên, dù tắc
tĩnh mạch nông hay tĩnh mạch sâu, về nguyên tắc đều phải chọn dùng
thuốc hoạt huyết, hóa ứ thông lạc. Khi vận dụng cụ thể trên lâm sàng
còn phải căn cứ vào thể chất mạnh hay yếu của bệnh nhân, căn cứ vào vị
trí sâu hay nông, bệnh hoãn hay cấp, trên cơ sở phân biệt chi tiết
chọn dùng các phương thuốc cho phù hợp. Các loại thuốc thường dùng:
thanh nhiệt - giải độc, lợi thấp tiêu thũng, ích khí tán hàn.
-Viêm tĩnh mạch lớp sâu tương đối nặng trong thời kỳ cấp tính: nhấn
mạnh dùng các thuốc thanh nhiệt - giải độc, lương huyết - hoạt huyết.
-Nếu như khi hình nhiệt đã giảm, huyết ứ trở lạc đã giải, mà thủy thấp
lưu trệ, chi thể vẫn còn sưng to (thũng chướng) thì phải căn cứ vào
bệnh tình cụ thể mà thay đổi hoặc là dưỡng huyết để thông lạc (hư sinh
ứ) hoặc là hoạt lạc để trừ thấp, dùng ít hay nhiều tuỳ theo dùng thuốc
khổ hàn thanh nhiệt dài hay ngắn.
-Thời kỳ mãn tính, đa phần có hàn thấp trở lạc, khi trị liệu cần ích khí hoạt huyết và phải chú ý ôn kinh tán hàn.
2. Biện chứng phương trị:
2.1. Viêm tắc tĩnh mạch nông:Thời kỳ cấp tính, có triệu chứng
tại chỗ đỏ sưng đông thống, sờ đau cự án, hoạt động chi thể bất lợi,
rêu lưỡi trắng nhờn, mạch tế sác hoặc huyền sác.
- Phương trị: thanh nhiệt - giải độc - lợi thấp hoạt huyết.
- Phương thuốc: “thanh nhiệt lợi thấp thang” gia giảm hoặc “tứ diệu tán’’ hợp “tứ diệu dũng an thang” gia giảm.
2.2. Thể khí hư huyết ứ, mạch lạc ngưng kết:
- Bệnh ở thời kỳ mãn tính do viêm cấp tính kéo dài, tĩnh mạch nổi
ngoằn ngoèo dưới da, sờ căng rắn, sắc da tím tía, ấn nhẹ cũng làm cho
bệnh nhân đau không chịu được, cơ thể phù nề, rêu lưỡi mỏng nhờn, chất
lưỡi có ban điểm huyết ứ, mạch trầm tế mà sáp.
- Phương trị: ích khí hoạt huyết thông lạc tán kết.
- Phương thuốc: “tiểu kim đan gia giảm” (ngoại khoa toàn sinh tập).
Ngũ linh chi 10g Thảo ô 6g
Nhũ hương 8g Mộc miết tử 6g
Bạch dáng hương 8g Địa long 10g
Một dược 8g Đương qui 15g
Hoắc hương. 6g
2.3. Viêm tắc tĩnh mạch sâu.
2.3.1. Thấp nhiệt trở lạc, khí - huyết ứ trệ.
- Giai đoạn đầu cấp tính, bệnh nhân thấysợ lạnh, phát sốt, miệng
khát muốn uống, chi sưng nề đau nhức rõ, khi đi lại thấy đau kịch liệt,
đại tiện táo, tiểu tiện ngắn đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn hoặc chất lưỡi
hồng, mạch huyền tế hoặc sác.
- Phương trị: thanh nhiệt - lợi thấp - hoạt huyết - thông lạc.
- Phương thuốc: “kỳ đương thang” gia thêm: liên kiều, hoàng bá, chi tử,
đan bì để thanh nhiệt - giải độc và lương huyết hoạt huyết.
Nếu nhiệt độc tương đối thịnh, sưng nóng đỏ đau rõ, toàn thân mệt mỏi
thì gia thêm: bồ công anh, tử hoa địa đinh, hổ trượng để thanh nhiệt -
giải độc.
Nếu bụng chướng tiện bế thì gia thêm: chỉ xác, đại hoàng, mang tiêu để
thông phủ tiết nhiệt. Nếu nhiệt thịnh, tân thương, miệng khát tâm
phiền phải gia thêm: hoàng liên, thiên hoa phấn, chi mẫu để thanh
nhiệt, sinh tân, trừ phiền.
2.3.2. Khí hư huyết ứ, hàn thấp ngưng trệ:
- Tương ứng với thời kỳ mãn tính hoặc thời kỳ hồi phục hoặc sau
phẫu thuật cơ thể hư nhược, quá trình bệnh lâu ngày, chi sưng to căng
chướng “ án chi bất lưu chỉ thực” (ấn không thấy lõm) nặng nề, đau đớn,
chi lãnh ma mộc, bì phu xám tím rắn chắc, càng lâu các triệu chứng
trên càng nặng, rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc trắng nhờn, chất lưỡi nhợt có
hằn răng, mạch trầm tế nhược.
- Phương pháp điều trị: ích khí hoạt huyết, ôn thông kinh lạc.
- Phương thuốc thường dùng: “ôn kinh thông lạc hoàn” hoặc “bát trân thang” gia giảm.
Nếu đau nhiều có thể thêm: nhũ hương, một dược để hoạt huyết phá ứ.
Nếu hạ chi sưng to chướng căng nhiều thì thêm phòng kỷ, mộc qua, ô dược, ty qua lạc để trừ thấp thông tý.
Nếu như mà tắc thành hòn khối khó tiêu phải thêm: tam lăng, bạch chỉ, vương bất lưu hành để phá ứ tán kết.
Nếu chi lạnh, ma mộc thì thêm: quế chi, tế tân để tán hàn thông lạc.
Nếu thận tinh bất túc, lưng gối đau mỏi phải thêm: xuyên tục đoạn, đỗ trọng, thỏ ty tử để ích thận cường cân tốt
Trong điều trị viêm tắc tĩnh mạch, phải chú ý có thể bệnh đứng giữa 2
thể, cả viêm tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu, cần phải vận dụng linh
hoạt.
3. phương thuốc kinh nghiệm:
+ Chi nề sưng to đau đớn:
- Tân tiêu phiến (viêm tân tiêu): mỗi lần 5 viên, một ngày 2 lần uống.
- Ngư tinh thảo 250g hoặc lá tươi mã xỉ hiện, thêm ít muối giã nát đắp ngoài nhiều lần vào chỗ đau.
- Chọn thuốc giải độc: bồ công anh 30g; khổ sâm, hoàng bá, hoàng liên,
mộc miết tử đều 12g; kim ngân hoa, bạch chỉ, xích thược, đan bì, cam
thảo đều 10g. Thuốc trên tán bột tẩm trưng nước; sau đó bỏ bã, dùng nước
chấm vào chỗ đau ngày 2 lần, mỗi lần 1h.
- Châm cứu trị liệu các huyệt chính: cách du, thái uyên (2 bên), nội
quan, dương lăng tuyền (nếu ở ngực bụng đùi); ở tứ chi thì dùng tuần
kinh thủ huyệt; chi trên dùng: hợp cốc, khúc trì, nội quan, khúc trạch;
chi dưới thường trọng dụng: âm lăng tuyền, tam âm giao.Khi châm lưu
châm 30’, cách ngày 1 lần hoặc mỗi ngày 1 lần.
+ Nếu chi thể chướng tăng, căng, nặng:- Hoạt huyết chỉ thống
tán: thâu cốt thảo, nguyên hồ, qui vĩ, khương hoàng, xuyên tiêu, hải
đồng bì, uy linh tiên, xuyên ngưu tất, nhũ hương, một dược, khương
hoạt, bạch chỉ, tô mộc, ngũ gia bì, hồng hoa, thổ phục linh, mỗi thứ
đều 10g. Tất cả tán bột, trưng nước, chườm chỗ đau ngày 1 - 2 lần, mỗi
lần 1h.
- Kinh nghiệm của một số tác giả Trung Quốc dùng chế phẩm dạng tiêm chế
từ cây Bạch hoa sà tiêm vào huyệt hoặc vào tĩnh mạch cùng với thanh
huyết ngọt 5%x 500ml; cách ngày một lần, 15 lần là một liệu trình có
tác dụng hoạt huyết tiêu tũng rất tốt.ở Việt Nam, chưa dùng dạng tiêm.
4. Phối hợp ĐIều TRị:
Nếu bệnh nặng thì phối hợp phẫu thuật.
5. Chẩn liệu tham khảo:
Tiêu chuẩn phân thể viêm tắc tĩnh mạch chi:
5.1. Tiêu chuẩn của thấp nhiệt ứ trệ- Chi thể sưng đau, chước nhiệt, đám sợi đỏ xung huyết, sờ rắn chắc.
- Phát sốt, miệng khô, tiểu đỏ tiện bế.
- Lưỡi hồng xám, rêu vàng nhờn, mạch hoạt huyền hoặc sác.
(cứ có 2 trong 3 tiêu chuẩn trên có thể chẩn đoán thể bệnh).
5.2. Tiêu chuẩn thể khí hư ứ trệ-Chi thể sưng đau, da xám hồng, chắc căng.
-Diện sắc nuy vàng, bì phạp nạp sai, tâm quí khí đoản.
-Lưỡi xám nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.
(Có2 trong 3 tiêu chuẩn trên là chẩn đoán thể bệnh).
+ Bài thuốc 1ích mẫu thảo 60 - 100g Tử thảo 15g
Tử hoa địa đinh 30g Xích thược 15g
Đan bì 15g Sinh cam thảo 30g
Mỗi ngày sắc uống 1 thang.
- Gia giảm:
Nếu chất lưỡi hồng, mạch hoạt sác, sốt cao thì gia thêm: viên ngưu giác 15 - 30g, sinh thạch cao 60 - 100g, sài hồ 10 - 15g.
Nếu rêu lưỡi dày vàng nhờn là thấp nhiệt nặng thì gia thêm: sinh đại hoàng 5 -10g, hoàng cầm 15g, hoàng bá 15g.
Nếu triệu chứng nặng thì uống “thanh lạc tán”: quảng giác phấn 3g, ngưu
hoàng 1,5g, tam thất 3g, mỗi ngày chia 2 lần (dạng tán bột). Phương
thuốc này là tiêu u cục, ưu tiên về sau khi điều trị di chứng (Trung y
tạp chí, 1982 ).
+ Bài thuốc 2Khổ sâm 9g Hoàng kỳ 9g
Côn bố 9g Nhị hoa thêm cam thảo 10g
Chế phụ tử 6 - 10g Hồng hoa 6g
Mộc qua 15g Quế chi 10g
Tế tân 6g Tư thạch 9g
Huyền sâm 9g Hệ chi hạch 6g
Trọng lâu 9g Hải cảo 9g.
(Trung y Thiên Tân ,1981).
5.3. Tham khảo điều trị:
Theo tài liệu của Lưu Duy Phổ, 1987. Tác giả chọn 50 bệnh nhân viêm
tắc tĩnh mạch chi dưới. Theo y lý, 50 bệnh nhân này được chia và luận
trị thành 3 thể:
+ Thể thấp nhiệt hạ trú: dùng kim ngân hoa, tử hoa địa đinh, bồ công
anh; gia thêm: quí tử, hoàng cầm, chế sinh địa, đan bì, liên kiều, sinh
hoàng kỳ, thuyền thoái, sinh cam thảo, sinh đại hoàng; đắp chườm cục
bộ (trộn bột với nước ấm đắp ngày 1 lần).
+ Thể khí - huyết ứ trệ dùng: đào nhân, hồng hoa, kê huyết đằng, đan
sâm, chế nhũ hương, chế một dược, địa miết trùng, vương bất lưu hành,
lạc lạc thông, mộc thông, xuyên ngưu tất, thổ bối mẫu, quế chi, cam
thảo; xen kẽ uống ít hoạt lạc đan, yên toàn phiến; tại chỗ đắp để tiêu
viêm tán.
+ Nhóm tỳ thận hao hư chọn uống “dương hoà thang hóa” (5 thang).
Đương qui, hoàng kỳ, liên nhục, lạc đẳng sâm, ý dĩ nhân, thiên ma, xích
thược, đan sâm, kỷ tử, trần bì, chế nhũ hương, chế một dược, lộc giác
xương, thổ bối mẫu, cam thảo, bột nhục quế (xung phục).
Dùng ngoài: phòng phong, kinh giới, khổ sâm, ngải diệp, liên kiều, trúc
tiêu, bạc hà diệp, thuyền thoái, huyền minh phấn. Cách dùng: rửa sạch
giã nát đắp ngoài. Kết qủa: khỏi 97%, không kết qủa 4/35 (báo cáo của
Học viện Trung y, tỉnh Hồ Nam, 1987).
Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014
Đường niệu bệnh, tiêu khát (đái tháo đường)
1.ĐAị CƯƠNG:
1.1.Theo y học hiện đại.
- Đái tháo đường là một bệnh rối loạn nội tiết và chuyển hóa thường gặp; do nhân tố tiểu đảo tụy bất túc tuyệt đối hoặc tương đối dẫn đến rối loạn chuyển hóa gluxít. Đặc điểm chủ yếu: đường máu tăng cao và có đường niệu. Tỷ lệ phát bệnh ở Mỹ là 3% - 5%, Trung Quốc là 0,6 - 1%. Quá trình diễn biến bệnh kéo dài ảnh hưởng đến toàn thân; thời điểm nguy cấp có thể phát sinh một loạt biến chứng viêm thận mãn tính,các bệnh mạch máu, tim, não, có thể hôn mê, đường niệu cao và nhiễm độc.
- Theo phân loại của Tổ chức Vệ sinh thế giới, người ta chia đường niệu bệnh làm 2 loại:
. Bệnh đái đường típ I: nguyên nhân do tế bào tiểu đảo tụy mất khả năng tuyệt đối.
. Bệnh đái đường típ II: các tế bào tiểu đảo giảm khả năng tương đối. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác phức tạp, bao gồm các loại bệnh tật hoặc là do dùng thuốc làm phát sinh đái đường.
- Nguyên nhân sinh bệnh đái đường típ I và II có khác nhau. Típ I là do khuyết hãm miễn dịch tự thân, có yếu tố di truyền. Bản chất bệnh là do kháng thể ICA đã phá tế bào tiểu đảo tuỵ làm giảm tiết insulin gây rối loạn chuyển hoá đường. Đặc điểmcủa bệnh đái tháo đườngtíp I là: Bệnh phụ thuộc vào insulin, hay ở người trẻ, có kháng thể kháng tế bào tiểu đảo tụy liên quan đến HLA, gầy sút cân; liên quan chặt chẽ tới hoàn cảnh và yếu tố ảnh hưởng: các yếu tố nhiễm độc thai nghén, nhiễm độc môi trường, tính mẫn cảm cá thể có liên quan đến phát bệnh đái đường.
Vì vậy, típ I: thường có kháng thể là ICA.
Típ II: do khuyết hãn thụ thể tiểu đảo tụy là chính; ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác dẫn đến đái đường. Thường không phụ thuộc insulin, không có liên quan với HLA, không có kháng thể kháng tế bào tiểu đảo, gặp ở người béo, tuổi già (80 - 90%).
Loại đái đường này thường kháng insulin do kháng thể kháng receptoinsulin gây ức chế sự gắn insulin vào cảm thụ quan đặc hiệu trên màng của nhiều loại tế bào, làm cho insulin không phát huy được tác dụng chuyển hóa hydrat cacbon gây nên đái tháo đường.
1.2. Theo Y học cổ truyền.
Cách đây 2000 năm trước công nguyên (Hoàng Đế Nội kinh), người xưa có ghi lại nhửng biểu hiện của đường niệu bệnh, trong nhiều căn cứ và biểu hiện khác nhau trong các chứng “tiêu đơn, phế tiêu, cách tiêu, tiêu trung”. Về sau, các y gia hậu thế thường qui đái tháo đường trong phạm trù “Tiêu khát”. Nguyên nhân, cơ chế, bản chất bệnh là phụ thuộc vào bản chất bẩm phụ bất túc, tình chí thất điều, ẩm thực bất tiết, lục dâm xâm lăng, lao dục thất độ dẫn đến ngũ tạng nhu nhược, uất lâu ngày hóa hoả, tích nhiệt thương tân, hoả trước tổn âm, hao tinh thương thận. Cơ chế bệnh có liên quan đến âm tinh hao tổn, tích nhiệt nội thịnh mà dẫn đến âm hư là chủ yếu. Âm hư là bản, táo nhiệt là tiêu. 2 yếu tố này là nhân -quả tương hỗ quán xuyến suốt quá trình bệnh tiêu khát. Bản chất bệnh ảnh hưởng đến nhiều cơ quan tạng phủ (nhưng chủ yếu là tạng phế, vị, thận) tức là thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu; giữa phế, vị và thận thường cho là thận quan trọng nhưng đều hỗ tương ảnh hưởng; vì vậy ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, cũng là tương hỗ với nhau. Tiêu khát lâu ngày thường dẫn đến ứ huyết nội đình, ứ huyết lại là nguyên nhân bệnh lý trở tắc cơ quan tạngphủ mà dẫn đến khí trệ huyết ứ.
2. Chẩn đoán và biện chứng phương trị:
2.1. Chẩn đoán.
+ Lâm sàng có triệu chứng điển hình: ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, sút cân, mệt mỏi; chẩn đoán thường là không khó. Đối với các trường hợp không có triệu chứng hoặc triệu chứng không điển hìnhthì thường dựa vào xét nghiệm đường máu và đường niệu để chẩn đoán xác định.
+ Có triệu chứng đái tháo đường hoặc không, nhưng chỉ cần 1 trong các triệu chứng dưới đây là có thể chẩn đoán xác định:
- Trong một ngày (một lần) đường máu ³ 11,1 mmol/l.
-Lúc đói thử đường máu 2 lần đều có kết quả ³ 7,8 mmol/l.
-Xét nghiệm đường niệu thấy dương tính rõ.
2.2. Biện chứng luận trị:
2.2.1. Âm hư táo nhiệt:
- Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.
- Phương pháp điều trị: tư âm thanh nhiệt.
- Phương thuốc: “bạch hổ gia nhân sâm thang” hoặc “tiêu khát phương” hợp “ngọc dịch thang”.
Sinh thạch cao 30 - 60g Tri mẫu 10g
Thái tử sâm 30g Thiên hoa phấn 10g
Sơn dược 30g Ngũ vị tử 10g
Chích cam thảo 10g Cát căn 15g
Hoàng liên 5g Ngẫu tiết 30g
- Gia giảm:
Nếu khát nhiều thì gia thêm: sa sâm, thạch hộc.
Nếu đại tiện bế thì gia thêm: sinh đại hoàng 10g.
2.2.2. Thể khí âm lưỡng hư.
Mệt mỏi vô lực, khí đoản, loạn ngôn, gầy gò, sắc mặt nhợt nhạt, tư hãn, đạo hãn, miệng khát thích uống, tâm quí thất miên, đại tiện táo, lưỡi hồng ít tân, rêu mỏng hoặc màu xám lục, mạch huyền tế hoặc tế sác vô lực.
- Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm.
- Phương thuốc: “lục vị địa hoàng thang” hợp với “sinh mạch tán” gia giảm.
Thục địa 15g Sơn dược 20g
Sơn thù nhục 10g Trạch tả 10g
Vân linh 15g Thái tử sâm 10 - 20g
Ngũ vị tử 10g Mạch môn đông 10g
- Gia giảm
.Nếu sốt về chiều, đạo hãn thì gia thêm: hoàng bá 10g, tri mẫu 10g.
.Nếu mất ngủ thì gia thêm: nữ trinh tử, hạn liên thảo đều 15g.
.Nếu lưng gối đau mỏi thì gia thêm: tang thầm tử, câu kỷ tử, đỗ trọng, đều 10g.
2.2.3. Thể khí âm lưỡng hư kiêm ứ:
Ngoài triệu chứng của khí âm lưỡng hư còn có thể thấy ở 50% bệnh nhân có triệu chứng: tức ngực khí nộ, đau vùng trước tim, đầu choáng, đau đầu, thị lực giảm, chi thể tê mỏi, bán thân bất toại, lưỡi đa phần xám tía, rìa lưỡi có nhiều ban điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi căng chướng ngoằn ngoèo, mạch tế sáp bất lợi.
- Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm - hoạt huyết hóa ứ.
- Phương thuốc: “đào nhân thừa khí thang” hợp phương “sinh mạch tán” gia giảm:
Đào nhân 10g Hồng hoa 10g
Tây thảo 10g Tô mộc 10g
Điền thất bột (xung) 3g Đan sâm 15g
Quế chi 10g Xuyên khung 10g
Mạch đông 10g Nhân sâm 10g
Ngũ vị tử 10g
- Gia giảm:
Nếu nặng đầu, đau đầu thì gia thêm:xuyên khung, thảo quyết minh.
Nếu chi thể tê mỏi thì gia thêm: kê huyết đằng, uy linh tiên, ngọc trúc.
2.2.4. Thể âm - dương lưỡng hư.- Triệu chứng: hình hàn, chi lạnh, sắc mặt trắng sáng hoặc xám đen, tai ù, lưng đau, di tinh, liệt dương, tảo tiết, đại tiện lỏng nát, bụng chướng, lười ăn, đái ít, thủy thũng, tứ chi không ấm, chất lưỡi nhợt hồng, hình lưỡi mềm bệu, rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc trắng nhờn, mạch trầm tế hoặc tế sác vô lực.
- Pháp điều trị: ôn dương - tư âm - cố thận.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” gia vị.
Thục địa 20g Đan bì 10g
Phục linh 15g Sơn thù 10g
Trạch tả 10g Hoài sơn dược 15g
Nhục quế 10g Hoàng kỳ 15g
Chế phụ tử 10g Hoàng tinh 10g
- Gia giảm:
. Nếu di tinh tảo tiết thì gia thêm: thỏ ty tử, nữ trinh tử, kim anh tử.
. Nếu đái đêm nhiều thì gia thêm: tang phiêu tiêu, ích chí nhân, phục bồn tử.
. Nếu thủy thũng thì gia thêm: ích mẫu thảo, ngọc mễ tu, sa tiền tử.
. Nếu huyết ứ thì gia thêm: đan sâm, hồng hoa, kê huyết đằng.
3. Các phương pháp điều trị khác:
3.1. Châm cứu điều trị.
* Thể châm:
Âm hư nhiệt thịnh dùng các huyệt: phế du, tỳ du, hợp cốc. Phế du dùng bổ pháp, còn các huyệt khác dùng tả pháp, châm cả 2 bên, lưu châm 20’, cách 10’ kích thích kim 1 lần, mỗi lần châm 3 - 4 huyệt, mỗi ngày châm 1 lần; luân lưu các huyệt điều trị, cứ 10 ngày là 1 liệu trình.
- Nếu khí âm lưỡng hư dùng các huyệt: tỳ du, trung quản, túc tam lý, địa cơ. Trong đó: tỳ du, túc tam lý, địa cơ dùng bổ pháp; ngoài ra người ta còn dùng tả pháp; kích thích vừa phải. Nếu khí âm lưỡng hư kiêm ứ dùng các huyệt kể trên là chính và thêm: phế du, cách du.
- Nếu âm - dương lưỡng hư chỉ định châm các huyệt: thận du, quan nguyên, tam âm giao, thái khê, dùng bổ pháp còn lại dùng tả pháp hoặc kích thích phụ.
* Phương pháp cứu:
Chỉ định trong trường hợp cơ thể hư nhược, âm - dương lưỡng hư có chiều hướng nặng.
Điều trị: phải thông điều tạng phủ, ích khí hoà huyết, trọng dụng các huyệt: tỳ du, thận du, cách du, túc tam lý, tam âm giao; thường dùng cứu cách gừng hoặc cứu mồi ngải, mỗi ngày 2 lần, mỗi đợt 5 - 10 ngày.
3.2. Phương pháp áp dán huyệt vị.Dùng huyệt: phế du, tỳ du, thận du, cách du, thần khuyết .
Đem thiên hoa phấn, huyền sâm, bạch giới tử và xuyên tiêu, tất cả tán thành bột mịn hoặc chế thành dạng cao, khi điều trị dùng 1 lượng thuốc bột nhất định trộn với nước gừng sống để thành dạng sột sệt đắp dán vào những huyệt trên. Mỗi lần chọn 3 huyệt, mỗi ngày hoặc cách ngày 1 lần, 1 tháng là 1 liệu trình.
3.3. Đơn thuốc kinh nghiệm.
+ Khổ qua (mướp đắng) phơi khô tán bột, chế thành viên hoặc dạng bột cho vào túi sắc , liều uống tuỳ theo tình trạng bệnh, 2 tháng là một liệu trình.
+ Ngũ bội tử 3g, sắc nước uống, mỗi ngày 2 lần (còn gọi là diêm phụ mộc).
+ Tang phiêu tiêu 60g, tán bột, hoà nước sôi uống mỗi lần uống 10g đến khi khỏi.
+ Hoài sơn dược 120g, tán bột hoà nước uống mỗi lần 10g.
+ Hắc đại đậu, thiên hoa phấn, liều như nhau tán bột làm viên, dùngnước sắc sâu tằm 3g,đậu đen 20g để uống thuốc viên .Mỗi ngày từ 20g - 40g dạng viên hoàn.
+ Sinh hoàng kỳ 30g, sinh ý dĩ 30g, sinh trư tụy tạng 1 cái (tuỵ lợn sống). Đem tụy lợn giã nát (không dùng dụng cụ sắt) rồi cùng sắc với 2 vị thuốc trên, mỗi ngày 1 thang.
3.4. Khí công và vận động liệu pháp4. Chọn lọc tinh hoa lâm sàng:
4.1. Theo kinh nghiệm của Lý Kỳ :
Tác giả tổ chức bài thuốc gồm 2 bài: “tăng dịch thang” và “sinh mạch tán”, gia thêm các vị thuốc: hoàng kỳ, sơn dược, thương truật, huyền sâm.
“Tăng dịch thang” gồm: mạch đông, sinh địa, huyền sâm (củng cố âm dịch cho 3 tạng, thanh táo nhiệt ở thượng trung và hạ tiêu).
“Sinh mạch tán”: đẳng sâm, mạch đông, ngũ vị tử (nguyên bổ ích khí, sinh tân liễm tinh của 3 tạng: phế, tỳ, thận).
Hoàng kỳ + sơn dược là kiện tỳ ích khí sinh tân, bổ thận ích tinh chỉ di.
Thương truật phối hợp với huyền sâm để tư âm giáng hoả, kiện tỳ, liễm tinh.
Toàn phương có tác dụng: tư âm thanh nhiệt, kiện tỳ ích khí, bổ thận cố tinh. Căn cứ vào nghiên cứu dược lý hiện đại, trùng phương cơ bản có: thương truật, hoàng kỳ, huyền sâm, sinh địa, mạch môn...đều có tác dụng hạ đường máu, hoạt huyết và kháng khuẩn rất tốt (có quan điểm dùng tạng để bổ tạng) (Lý Dục Tài, tạp chí Trung y Liên Ninh, 1986).
4.2. Theo báo cáo của Lý Kỳ dùng bài thuốc gồm:Sơn thù nhục, ngũ vị tử, đan sâm ,mỗi vị đều30g, hoàng kỳ 40g.
Nếu thể âm hư dùng thêm “sinh mạch tán” gia giảm.
Nếu nhiệt thịnh dùng “nhân sâm bạch hổ thang” gia giảm.
Nếu khí hư thêm “thăng hãm thang” gia vị.
Nếu huyết ứ dùng hạ đường huyết thang (đan sâm, xích thược, hồng hoa, xuyên ngưu tất, mộc qua, quế chi). Trong thời gian uống thuốc không dùng tụy đảo tố (insulin), 1 tháng là 1 liệu trình,Tác giả nhận thấy: tỷ lệ điều trị có hiệu quả là 85% (theo Lý Thảo Lâm, tạp chí Trung y Liên Ninh 1992).
4.3. Bài thuốc Trương Mãnh Lâm:
Sao thương truật, sinh địa, ngọc trúc, mỗi vị đều 20 - 40g; sao bạch truật, thục địa, huyền sâm, mỗi vị đều 15g - 30g; hoài sơn, hoàng kỳ, mỗi thứ đều 30 - 50g; bắc sa sâm 30 - 40g, ngũ vị tử 15 - 25g, tang phiêu tiêu 10 - 15g; mỗi ngày 1 thang sắc 3 lần, uống từ từ kiểu uống trà.
Bài thuốc trên đã điều trị cho 80 bệnh nhân: trước điều trị có Glucôza máu = 10,08 - 15,68 mmol/l; sau khi uống thuốc 10 thang thì glucôza máu= 5,6 - 6,72 mml/l được 39 bệnh nhân ; hạ đường từ glucôza máu = 8,4 - 9,52 mml/l được 41 bệnh nhân, các triệu chứng chủ yếu và đường niệu cũng được khống chế (báo Dược học Trung y, 1987).
4.4. Theo tạp chí Trung y, 1997 (tài liệu của Trọng Thị Hoa).-Bài thuốc gồm có: Sinh hoàng kỳ 30g, sinh địa 30g, thương truật 15g, nguyên sâm 30g, cát căn 15g, đan sâm 30g.
- Gia giảm:
Nếu có biến chứng võng mạc, giảm thị lực thì gia thêm: xuyên khung, bạch chỉ, cúc hoa, thanh tương tử, cốc tinh thảo.
Nếu biến chứng võng mạc xuất huyết thì gia thêm: đại tiểu kế, tây thảo, quỉ hoa, tam thất hoặc Vân Nam bạch thược.
Nếu bước đầu có biến chứng thận thì dùng thuốc hạ đường máu là chính; nếu albumin tăng cao phải dùng: sinh hoàng kỳ và gia thêm: sơn dược, ích mẫu thảo, bạch mao căn, bạch hoa xà thiệt thảo;Nếu đái máu thì thêm: sinh hà diệp, sinh trắc bá, sinh ngải diệp, sinh địa du;Nếu niệu ít thủy thũng thì thêm sa tiền tử, hạn liên thảo, tỳ giải, thạch vĩ; nếu huyết áp cao thì thêm ngưu tất, tang ký sinh, hạ khô thảo, hoàng cầm, câu đằng hoặc dùng “kỷ cúc địa hoàng hoàn thang” gia vị.
Bệnh ở thời kỳ sau xuất hiện phù thũng, thường dùng “phòng kỷ hoàng kỳ thang” hợp với “lục vị địa hoàng thang” hoặc “quế phụ địa hoàng thang” gia giảm.
Nếu thiếu máu nghiêm trọng dùng “sâm kỳ tứ vật thang” gia thêm: chế thủ ô, nữ trinh tử, tang thầm tử, kỷ tử, bạch truật, tiên cước thảo; nếu ure niệu tăng cao, rêu lưỡi nhờn thì dùng “hương sa lục quân” gia thêm: xương bồ, phong lan, trúc nhự, phương phức hoa, đại xích thạch.
Nếu có biến chứng huyết quản ngoại vi, tê nhức tứ chi thì thêm: quế chi, uy linh tiên, chế phụ tử, tế tân, khương hoạt hoặc tô mộc, lạc thông, lưu kỷ nữ, địa long, sinh sơn tra, xuyên sơn giáp.
Nếu có biến chứng thần kinh ngoại vi thì thêm “hợp phương tứ đằng tiên thang” (kê huyết đằng, lạc thạch đằng, hải phong đằng, câu đằng và uy linh tiên).
Nếu có phúc tả thì phương thuốc trên bỏ: huyền sâm, sinh địa; giab thêm: thục địa, bạch truật, tô ngạnh, bạch chỉ, sinh ý dĩ, kha tử nhục, nhục đậu khấu, sơn dược, khiếm thực.
Nếu nặng dùng “tứ thần hoàn” hợp phương “cát căn cầm liên thang” hoặc “bạch đầu ông thang”.
1.1.Theo y học hiện đại.
- Đái tháo đường là một bệnh rối loạn nội tiết và chuyển hóa thường gặp; do nhân tố tiểu đảo tụy bất túc tuyệt đối hoặc tương đối dẫn đến rối loạn chuyển hóa gluxít. Đặc điểm chủ yếu: đường máu tăng cao và có đường niệu. Tỷ lệ phát bệnh ở Mỹ là 3% - 5%, Trung Quốc là 0,6 - 1%. Quá trình diễn biến bệnh kéo dài ảnh hưởng đến toàn thân; thời điểm nguy cấp có thể phát sinh một loạt biến chứng viêm thận mãn tính,các bệnh mạch máu, tim, não, có thể hôn mê, đường niệu cao và nhiễm độc.
- Theo phân loại của Tổ chức Vệ sinh thế giới, người ta chia đường niệu bệnh làm 2 loại:
. Bệnh đái đường típ I: nguyên nhân do tế bào tiểu đảo tụy mất khả năng tuyệt đối.
. Bệnh đái đường típ II: các tế bào tiểu đảo giảm khả năng tương đối. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác phức tạp, bao gồm các loại bệnh tật hoặc là do dùng thuốc làm phát sinh đái đường.
- Nguyên nhân sinh bệnh đái đường típ I và II có khác nhau. Típ I là do khuyết hãm miễn dịch tự thân, có yếu tố di truyền. Bản chất bệnh là do kháng thể ICA đã phá tế bào tiểu đảo tuỵ làm giảm tiết insulin gây rối loạn chuyển hoá đường. Đặc điểmcủa bệnh đái tháo đườngtíp I là: Bệnh phụ thuộc vào insulin, hay ở người trẻ, có kháng thể kháng tế bào tiểu đảo tụy liên quan đến HLA, gầy sút cân; liên quan chặt chẽ tới hoàn cảnh và yếu tố ảnh hưởng: các yếu tố nhiễm độc thai nghén, nhiễm độc môi trường, tính mẫn cảm cá thể có liên quan đến phát bệnh đái đường.
Vì vậy, típ I: thường có kháng thể là ICA.
Típ II: do khuyết hãn thụ thể tiểu đảo tụy là chính; ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác dẫn đến đái đường. Thường không phụ thuộc insulin, không có liên quan với HLA, không có kháng thể kháng tế bào tiểu đảo, gặp ở người béo, tuổi già (80 - 90%).
Loại đái đường này thường kháng insulin do kháng thể kháng receptoinsulin gây ức chế sự gắn insulin vào cảm thụ quan đặc hiệu trên màng của nhiều loại tế bào, làm cho insulin không phát huy được tác dụng chuyển hóa hydrat cacbon gây nên đái tháo đường.
1.2. Theo Y học cổ truyền.
Cách đây 2000 năm trước công nguyên (Hoàng Đế Nội kinh), người xưa có ghi lại nhửng biểu hiện của đường niệu bệnh, trong nhiều căn cứ và biểu hiện khác nhau trong các chứng “tiêu đơn, phế tiêu, cách tiêu, tiêu trung”. Về sau, các y gia hậu thế thường qui đái tháo đường trong phạm trù “Tiêu khát”. Nguyên nhân, cơ chế, bản chất bệnh là phụ thuộc vào bản chất bẩm phụ bất túc, tình chí thất điều, ẩm thực bất tiết, lục dâm xâm lăng, lao dục thất độ dẫn đến ngũ tạng nhu nhược, uất lâu ngày hóa hoả, tích nhiệt thương tân, hoả trước tổn âm, hao tinh thương thận. Cơ chế bệnh có liên quan đến âm tinh hao tổn, tích nhiệt nội thịnh mà dẫn đến âm hư là chủ yếu. Âm hư là bản, táo nhiệt là tiêu. 2 yếu tố này là nhân -quả tương hỗ quán xuyến suốt quá trình bệnh tiêu khát. Bản chất bệnh ảnh hưởng đến nhiều cơ quan tạng phủ (nhưng chủ yếu là tạng phế, vị, thận) tức là thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu; giữa phế, vị và thận thường cho là thận quan trọng nhưng đều hỗ tương ảnh hưởng; vì vậy ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, cũng là tương hỗ với nhau. Tiêu khát lâu ngày thường dẫn đến ứ huyết nội đình, ứ huyết lại là nguyên nhân bệnh lý trở tắc cơ quan tạngphủ mà dẫn đến khí trệ huyết ứ.
2. Chẩn đoán và biện chứng phương trị:
2.1. Chẩn đoán.
+ Lâm sàng có triệu chứng điển hình: ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, sút cân, mệt mỏi; chẩn đoán thường là không khó. Đối với các trường hợp không có triệu chứng hoặc triệu chứng không điển hìnhthì thường dựa vào xét nghiệm đường máu và đường niệu để chẩn đoán xác định.
+ Có triệu chứng đái tháo đường hoặc không, nhưng chỉ cần 1 trong các triệu chứng dưới đây là có thể chẩn đoán xác định:
- Trong một ngày (một lần) đường máu ³ 11,1 mmol/l.
-Lúc đói thử đường máu 2 lần đều có kết quả ³ 7,8 mmol/l.
-Xét nghiệm đường niệu thấy dương tính rõ.
2.2. Biện chứng luận trị:
2.2.1. Âm hư táo nhiệt:
- Phiền khát uống nhiều, uống không giảm khát, miệng khô lưỡi ráo, cấp táo hay giận, bức nhiệt tâm phiền, niệu phiền lượng nhiều hoặc đại tiện táo kết, mạch huyền sác hoặc hoạt sác.
- Phương pháp điều trị: tư âm thanh nhiệt.
- Phương thuốc: “bạch hổ gia nhân sâm thang” hoặc “tiêu khát phương” hợp “ngọc dịch thang”.
Sinh thạch cao 30 - 60g Tri mẫu 10g
Thái tử sâm 30g Thiên hoa phấn 10g
Sơn dược 30g Ngũ vị tử 10g
Chích cam thảo 10g Cát căn 15g
Hoàng liên 5g Ngẫu tiết 30g
- Gia giảm:
Nếu khát nhiều thì gia thêm: sa sâm, thạch hộc.
Nếu đại tiện bế thì gia thêm: sinh đại hoàng 10g.
2.2.2. Thể khí âm lưỡng hư.
Mệt mỏi vô lực, khí đoản, loạn ngôn, gầy gò, sắc mặt nhợt nhạt, tư hãn, đạo hãn, miệng khát thích uống, tâm quí thất miên, đại tiện táo, lưỡi hồng ít tân, rêu mỏng hoặc màu xám lục, mạch huyền tế hoặc tế sác vô lực.
- Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm.
- Phương thuốc: “lục vị địa hoàng thang” hợp với “sinh mạch tán” gia giảm.
Thục địa 15g Sơn dược 20g
Sơn thù nhục 10g Trạch tả 10g
Vân linh 15g Thái tử sâm 10 - 20g
Ngũ vị tử 10g Mạch môn đông 10g
- Gia giảm
.Nếu sốt về chiều, đạo hãn thì gia thêm: hoàng bá 10g, tri mẫu 10g.
.Nếu mất ngủ thì gia thêm: nữ trinh tử, hạn liên thảo đều 15g.
.Nếu lưng gối đau mỏi thì gia thêm: tang thầm tử, câu kỷ tử, đỗ trọng, đều 10g.
2.2.3. Thể khí âm lưỡng hư kiêm ứ:
Ngoài triệu chứng của khí âm lưỡng hư còn có thể thấy ở 50% bệnh nhân có triệu chứng: tức ngực khí nộ, đau vùng trước tim, đầu choáng, đau đầu, thị lực giảm, chi thể tê mỏi, bán thân bất toại, lưỡi đa phần xám tía, rìa lưỡi có nhiều ban điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi căng chướng ngoằn ngoèo, mạch tế sáp bất lợi.
- Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm - hoạt huyết hóa ứ.
- Phương thuốc: “đào nhân thừa khí thang” hợp phương “sinh mạch tán” gia giảm:
Đào nhân 10g Hồng hoa 10g
Tây thảo 10g Tô mộc 10g
Điền thất bột (xung) 3g Đan sâm 15g
Quế chi 10g Xuyên khung 10g
Mạch đông 10g Nhân sâm 10g
Ngũ vị tử 10g
- Gia giảm:
Nếu nặng đầu, đau đầu thì gia thêm:xuyên khung, thảo quyết minh.
Nếu chi thể tê mỏi thì gia thêm: kê huyết đằng, uy linh tiên, ngọc trúc.
2.2.4. Thể âm - dương lưỡng hư.- Triệu chứng: hình hàn, chi lạnh, sắc mặt trắng sáng hoặc xám đen, tai ù, lưng đau, di tinh, liệt dương, tảo tiết, đại tiện lỏng nát, bụng chướng, lười ăn, đái ít, thủy thũng, tứ chi không ấm, chất lưỡi nhợt hồng, hình lưỡi mềm bệu, rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc trắng nhờn, mạch trầm tế hoặc tế sác vô lực.
- Pháp điều trị: ôn dương - tư âm - cố thận.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” gia vị.
Thục địa 20g Đan bì 10g
Phục linh 15g Sơn thù 10g
Trạch tả 10g Hoài sơn dược 15g
Nhục quế 10g Hoàng kỳ 15g
Chế phụ tử 10g Hoàng tinh 10g
- Gia giảm:
. Nếu di tinh tảo tiết thì gia thêm: thỏ ty tử, nữ trinh tử, kim anh tử.
. Nếu đái đêm nhiều thì gia thêm: tang phiêu tiêu, ích chí nhân, phục bồn tử.
. Nếu thủy thũng thì gia thêm: ích mẫu thảo, ngọc mễ tu, sa tiền tử.
. Nếu huyết ứ thì gia thêm: đan sâm, hồng hoa, kê huyết đằng.
3. Các phương pháp điều trị khác:
3.1. Châm cứu điều trị.
* Thể châm:
Âm hư nhiệt thịnh dùng các huyệt: phế du, tỳ du, hợp cốc. Phế du dùng bổ pháp, còn các huyệt khác dùng tả pháp, châm cả 2 bên, lưu châm 20’, cách 10’ kích thích kim 1 lần, mỗi lần châm 3 - 4 huyệt, mỗi ngày châm 1 lần; luân lưu các huyệt điều trị, cứ 10 ngày là 1 liệu trình.
- Nếu khí âm lưỡng hư dùng các huyệt: tỳ du, trung quản, túc tam lý, địa cơ. Trong đó: tỳ du, túc tam lý, địa cơ dùng bổ pháp; ngoài ra người ta còn dùng tả pháp; kích thích vừa phải. Nếu khí âm lưỡng hư kiêm ứ dùng các huyệt kể trên là chính và thêm: phế du, cách du.
- Nếu âm - dương lưỡng hư chỉ định châm các huyệt: thận du, quan nguyên, tam âm giao, thái khê, dùng bổ pháp còn lại dùng tả pháp hoặc kích thích phụ.
* Phương pháp cứu:
Chỉ định trong trường hợp cơ thể hư nhược, âm - dương lưỡng hư có chiều hướng nặng.
Điều trị: phải thông điều tạng phủ, ích khí hoà huyết, trọng dụng các huyệt: tỳ du, thận du, cách du, túc tam lý, tam âm giao; thường dùng cứu cách gừng hoặc cứu mồi ngải, mỗi ngày 2 lần, mỗi đợt 5 - 10 ngày.
3.2. Phương pháp áp dán huyệt vị.Dùng huyệt: phế du, tỳ du, thận du, cách du, thần khuyết .
Đem thiên hoa phấn, huyền sâm, bạch giới tử và xuyên tiêu, tất cả tán thành bột mịn hoặc chế thành dạng cao, khi điều trị dùng 1 lượng thuốc bột nhất định trộn với nước gừng sống để thành dạng sột sệt đắp dán vào những huyệt trên. Mỗi lần chọn 3 huyệt, mỗi ngày hoặc cách ngày 1 lần, 1 tháng là 1 liệu trình.
3.3. Đơn thuốc kinh nghiệm.
+ Khổ qua (mướp đắng) phơi khô tán bột, chế thành viên hoặc dạng bột cho vào túi sắc , liều uống tuỳ theo tình trạng bệnh, 2 tháng là một liệu trình.
+ Ngũ bội tử 3g, sắc nước uống, mỗi ngày 2 lần (còn gọi là diêm phụ mộc).
+ Tang phiêu tiêu 60g, tán bột, hoà nước sôi uống mỗi lần uống 10g đến khi khỏi.
+ Hoài sơn dược 120g, tán bột hoà nước uống mỗi lần 10g.
+ Hắc đại đậu, thiên hoa phấn, liều như nhau tán bột làm viên, dùngnước sắc sâu tằm 3g,đậu đen 20g để uống thuốc viên .Mỗi ngày từ 20g - 40g dạng viên hoàn.
+ Sinh hoàng kỳ 30g, sinh ý dĩ 30g, sinh trư tụy tạng 1 cái (tuỵ lợn sống). Đem tụy lợn giã nát (không dùng dụng cụ sắt) rồi cùng sắc với 2 vị thuốc trên, mỗi ngày 1 thang.
3.4. Khí công và vận động liệu pháp4. Chọn lọc tinh hoa lâm sàng:
4.1. Theo kinh nghiệm của Lý Kỳ :
Tác giả tổ chức bài thuốc gồm 2 bài: “tăng dịch thang” và “sinh mạch tán”, gia thêm các vị thuốc: hoàng kỳ, sơn dược, thương truật, huyền sâm.
“Tăng dịch thang” gồm: mạch đông, sinh địa, huyền sâm (củng cố âm dịch cho 3 tạng, thanh táo nhiệt ở thượng trung và hạ tiêu).
“Sinh mạch tán”: đẳng sâm, mạch đông, ngũ vị tử (nguyên bổ ích khí, sinh tân liễm tinh của 3 tạng: phế, tỳ, thận).
Hoàng kỳ + sơn dược là kiện tỳ ích khí sinh tân, bổ thận ích tinh chỉ di.
Thương truật phối hợp với huyền sâm để tư âm giáng hoả, kiện tỳ, liễm tinh.
Toàn phương có tác dụng: tư âm thanh nhiệt, kiện tỳ ích khí, bổ thận cố tinh. Căn cứ vào nghiên cứu dược lý hiện đại, trùng phương cơ bản có: thương truật, hoàng kỳ, huyền sâm, sinh địa, mạch môn...đều có tác dụng hạ đường máu, hoạt huyết và kháng khuẩn rất tốt (có quan điểm dùng tạng để bổ tạng) (Lý Dục Tài, tạp chí Trung y Liên Ninh, 1986).
4.2. Theo báo cáo của Lý Kỳ dùng bài thuốc gồm:Sơn thù nhục, ngũ vị tử, đan sâm ,mỗi vị đều30g, hoàng kỳ 40g.
Nếu thể âm hư dùng thêm “sinh mạch tán” gia giảm.
Nếu nhiệt thịnh dùng “nhân sâm bạch hổ thang” gia giảm.
Nếu khí hư thêm “thăng hãm thang” gia vị.
Nếu huyết ứ dùng hạ đường huyết thang (đan sâm, xích thược, hồng hoa, xuyên ngưu tất, mộc qua, quế chi). Trong thời gian uống thuốc không dùng tụy đảo tố (insulin), 1 tháng là 1 liệu trình,Tác giả nhận thấy: tỷ lệ điều trị có hiệu quả là 85% (theo Lý Thảo Lâm, tạp chí Trung y Liên Ninh 1992).
4.3. Bài thuốc Trương Mãnh Lâm:
Sao thương truật, sinh địa, ngọc trúc, mỗi vị đều 20 - 40g; sao bạch truật, thục địa, huyền sâm, mỗi vị đều 15g - 30g; hoài sơn, hoàng kỳ, mỗi thứ đều 30 - 50g; bắc sa sâm 30 - 40g, ngũ vị tử 15 - 25g, tang phiêu tiêu 10 - 15g; mỗi ngày 1 thang sắc 3 lần, uống từ từ kiểu uống trà.
Bài thuốc trên đã điều trị cho 80 bệnh nhân: trước điều trị có Glucôza máu = 10,08 - 15,68 mmol/l; sau khi uống thuốc 10 thang thì glucôza máu= 5,6 - 6,72 mml/l được 39 bệnh nhân ; hạ đường từ glucôza máu = 8,4 - 9,52 mml/l được 41 bệnh nhân, các triệu chứng chủ yếu và đường niệu cũng được khống chế (báo Dược học Trung y, 1987).
4.4. Theo tạp chí Trung y, 1997 (tài liệu của Trọng Thị Hoa).-Bài thuốc gồm có: Sinh hoàng kỳ 30g, sinh địa 30g, thương truật 15g, nguyên sâm 30g, cát căn 15g, đan sâm 30g.
- Gia giảm:
Nếu có biến chứng võng mạc, giảm thị lực thì gia thêm: xuyên khung, bạch chỉ, cúc hoa, thanh tương tử, cốc tinh thảo.
Nếu biến chứng võng mạc xuất huyết thì gia thêm: đại tiểu kế, tây thảo, quỉ hoa, tam thất hoặc Vân Nam bạch thược.
Nếu bước đầu có biến chứng thận thì dùng thuốc hạ đường máu là chính; nếu albumin tăng cao phải dùng: sinh hoàng kỳ và gia thêm: sơn dược, ích mẫu thảo, bạch mao căn, bạch hoa xà thiệt thảo;Nếu đái máu thì thêm: sinh hà diệp, sinh trắc bá, sinh ngải diệp, sinh địa du;Nếu niệu ít thủy thũng thì thêm sa tiền tử, hạn liên thảo, tỳ giải, thạch vĩ; nếu huyết áp cao thì thêm ngưu tất, tang ký sinh, hạ khô thảo, hoàng cầm, câu đằng hoặc dùng “kỷ cúc địa hoàng hoàn thang” gia vị.
Bệnh ở thời kỳ sau xuất hiện phù thũng, thường dùng “phòng kỷ hoàng kỳ thang” hợp với “lục vị địa hoàng thang” hoặc “quế phụ địa hoàng thang” gia giảm.
Nếu thiếu máu nghiêm trọng dùng “sâm kỳ tứ vật thang” gia thêm: chế thủ ô, nữ trinh tử, tang thầm tử, kỷ tử, bạch truật, tiên cước thảo; nếu ure niệu tăng cao, rêu lưỡi nhờn thì dùng “hương sa lục quân” gia thêm: xương bồ, phong lan, trúc nhự, phương phức hoa, đại xích thạch.
Nếu có biến chứng huyết quản ngoại vi, tê nhức tứ chi thì thêm: quế chi, uy linh tiên, chế phụ tử, tế tân, khương hoạt hoặc tô mộc, lạc thông, lưu kỷ nữ, địa long, sinh sơn tra, xuyên sơn giáp.
Nếu có biến chứng thần kinh ngoại vi thì thêm “hợp phương tứ đằng tiên thang” (kê huyết đằng, lạc thạch đằng, hải phong đằng, câu đằng và uy linh tiên).
Nếu có phúc tả thì phương thuốc trên bỏ: huyền sâm, sinh địa; giab thêm: thục địa, bạch truật, tô ngạnh, bạch chỉ, sinh ý dĩ, kha tử nhục, nhục đậu khấu, sơn dược, khiếm thực.
Nếu nặng dùng “tứ thần hoàn” hợp phương “cát căn cầm liên thang” hoặc “bạch đầu ông thang”.
Ngải tư bệnh (HIV, AIDS)
1. Đại cương.
1.1. Theo YHHĐ:TheoYHHĐ, AIDS là tổng hợp các triệu chứng gây ra bởi sự suy giảm hệ thống miễn dịch, đặc biệt do độc tố ngải tư bệnh (HIV).
Năm 1981 ,người ta phát ra bản chất của bệnh là một loại bệnh truyền nhiễm phạm vi rộng, lan truyền nhanh, bệnh biến đa dạng, phòng và điều trị đều không kết quả rõ, bệnh phát triển toàn cầu, tỷ lệ tử vong cao ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội.
Trên lâm sàng, HIV gây tổn hại chủ yếu ở hệ thống miễn dịch của cơ thể, xuất hiện tính chất đặc thù liên tục sự suy tổn miễn dịch tế bào, từ đó dẫn đến nhiều cơ quan, tạng phủ phát sinh điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng và ác tính hóa. Trong lâm sàng, người ta có thể chia ra 4 loại: thể phế, thể thần kinh trung ương, thể vị trường, thể phát sốt không rõ nguyên nhân.
Cơ chế bệnh sinh của ngải tư bệnh là cơ thể người sau khi đã cảm nhiễm HIV thì hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc khuyết hãm độc tố HIV và HIV thừa cơ xâm lấn tế bào T hỗ trợ (TH, TCD4) tạo thành một lượng lớn tế bào T bị cảm nhiễm và phá hoại (vỡ hạt); nghiêm trọng hơn là làm tổn hại đến công năng miễn dịch của cơ thể, làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm sút đối với tất cả các tác nhân gây bệnh( nhiễm trùng, vi khuẩn, ký sinh trùng);từ đó phát sinh bệnh cơ hội do viêm nhiễm và thũng lưu (ác tính hóa).
1.2. Theo Y học Cổ truyềnTrung y căn cứ vào đặc điểm bệnh biến qui về các phạm trù chứng bệnh “Thấp ôn “, “Ôn dịch “, “Hư tổn “. Nguyên nhân gây bệnh là người bệnh lao động quá sức, ham muốn quá độ dẫn đến tổn thương thận tinh, dịch độc tà khí tự xâm nhập vào cơ thể; hoặc tỳ vị bất kiện, sinh hóa chi nguyên, khí - huyết bất túc, dịch độc cũng có thể thừa cơ mà nhập. Thời kỳ đầu chính hư tà thực, phần nhiều biểu hiện triệu chứng của tà phạm phế; tiếp sau là tà khí vào sâu có thể thấy vệ khí, doanh khí đồng bệnh, thậm chí là tà hãm tâm doanh. Do ở dịch độc thao liệt chính khí tiêu hao lớn, khí - huyết tân dịch đều bất túc nên có thể xuất hiện các loại thực chứng của: thận hư, tỳ hư, phế hư khác nhau.
Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.
2. Chẩn đoán:
2.1. Dựa vào bệnh sử:Có tiếp xúc với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc có quan hệ tình dục với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc là có dùng các dụng cụ truyền máu, truyền dịch, dịch thay thế máu.
2.2. Những triệu chứng chính khi cảm nhiễm cấp tínhCó phát sốt, bất thích, bì chẩn, đau khớp và toàn thân nổi hạch limpho. Sau đó triệu chứng biến mất, bệnh nhân chuyển thành trạng thái vô chứng trạng, kháng thể kháng HIV dương tính. Thời kỳ này có thể kéo dài 2 - 10 năm, trong đó khoảng 25% người bệnh có thể phát sinh ngải tư bệnh với biểu hiện là phát sốt, thể trạng giảm sút, mệt mỏi vô lực, giữa đêm tự hãn, ho khái thấu, iả chảy mãn tính khoảng 1 tháng trở lên, miệng có mụn lở loét, toàn thân phát hạch sưng to, bì chẩn (nổi mụn ngoài da), nghiêm trọng hơn là vỡ mủ lở loét. Xét nghiệm máu thấy: tế bào limpho giảm thấp, tế bào bạch cầu giảm thấp, thiếu máu... Thời kỳ sau, gọi là thời kỳ toàn phát, có thể xuất hiện tất cả các triệu chứng nói trên tạo điều kiện thuận lợi cho những viêm nhiễm và những u ác tính phát triển.
2.3. Kiểm tra xét nghiệm kháng thể kháng HIV trong huyết thanh :
- Tế bào limpho số lượng thấp, tỉ lệ CD4 / CD8 < 1.
- Xét nghiệm miễn dịch gắn men ELISA (+) (enzyme linked immunosorbert assay).
- Western Blot (+) phát hiện nhiều loại kháng nguyên khác nhau do trọng lượng phân tử (P24, gp41, gp120/160).
Tế bào CD4 giảm thấp, hạch limpho sưng to ở toàn thân, triệu chứng bệnh lý của hệ thống thần kinh biểu hiện rõ, xuất hiện giảm sút về trí tuệ và năng lực, chức năng vận động của hệ thần kinh bị trở ngại.
3. Biện chứng và phương trị:
3.1.Tà phạm vệ khí:- Triệu chứng chính là phát sốt, đau đầu, nôn khan hoặc là nôn mửa, ăn kém, mệt mỏi, vô lực, đau họng khái thấu, ỉa chảy, phúc tả lưỡi nhợt, rêu trắng nhờn, mạch phù hoạt sác.
- Pháp điều trị: Thanh nhiệt - giải độc - kiện tỳ lợi thấp.
- Phương thuốc: “Ngân kiều tán” + “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm.
Kim ngân hoa 15g Liên kiều 10g
Kinh giới 9g Bạch khấu nhân 10g
Cát cánh 6g Bán hạ 9g
Trúc diệp tâm 6g Hạnh nhân 9g
Hậu phác 6g Đạm đậu xị 12g
Hoắc hương 9g Sinh cam thảo 6g
Đồng thời cho uống “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm ( 9g chia 2 lần: sáng, tối ). Nếu ăn uống kém hoặc là sau khi ăn không tiêu hóa được thì thêm : sơn tra, mạch nha, cốc nha, mỗi thứ đều 10g. Nếu ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khát nửa đêm về sáng, sốt giảm thì có thể dùng “uy tiên thang” gia giảm.
3.2. Khí doanh (huyết) lưỡng phạp:Bệnh nhân sốt cao liên tục không lui, khái huyết, nôn ra máu, hoặc là phát ban lờ mờ, đầu thống, choạng vạng, phiền táo, thất miên ; hoặc là mệt mỏi, vật vã, đại tiện lỏng nát; hoặc là ỉa ra máu hoặc là tiện bế, lưỡi dáng, rêu vàng khô hoặc là xám đen, mạch huyền sác.
- Phương điều trị: Khí doanh lưỡng thanh - lương huyết giải độc.
- Phương thuốc: “Thanh ôn bại độc ẩm” gia giảm, hợp dụng “Tử tuyết đan”.
Sơn chi 10g Hoàng cầm 10g
Hoàng liên 6g Chi mẫu 10g
Sạ can 10g Sinh địa 5g
Đan bì 10g Xích thược 10g
Huyền sâm 10g Liên kiều 12g
Trúc diệp 5g Cam thảo 5g
Thủy ngưu giác phấn ( bột sừng trâu ) 3g , hoà với nước sôi uống.
Sinh thạch cao 60g , sắc trước.
“Tử tuyến đan” dùng thêm 0,5g uống trong một ngày.
- Nếu như thần chí không minh mẫn hoặc là lúc tỉnh, lúc mê hoặc là loạn ngôn, nói sảng, co giật có thể dùng thêm “An cung ngưu hoàng hoàn phối hợp với “câu đằng ẩm”.
Bài thuốc “câu đằng ẩm” có các vị thuốc sau:
Câu đằng 10g Địa long 10g
Đan bì 10g Toàn yết 10g
Đẳng sâm 15g Thiên ma 10g
Bản lam căn 15g Xích thược 10g
Linh dương giác 0,10g dạng bột uống ngoài . Mỗi ngày sắc một thang chia làm hai lần uống.
Ngoài ra có thể uống thêm “An cung ngưu hoàng hoàn” dùng từ 1 - 2 viên một lần, mỗi ngày uống từ 2 - 3 lần.
3.3. Phế khí âm lưỡng hư:- Biện chứng: Phát sốt, ho khan, vô đàm hoặc đàm có máu khí đoản, hung thống, khẩu can hầu thống, tư hãn, rêu lưỡi vàng mỏng hoặc hóa lục hoặc không rêu, mạch tế sác.
- Pháp trị: Bổ khí ích âm.
- Thuốc: “Sinh mạch tán” gia vị:
Thái tử sâm 30g Mạch đông 15g
Ngũ vị tử 10g Thiên hoa phấn 10g
Hạnh nhân 10g Sinh địa 15g
A giao 12g (hoà vào nước uống).
-Gia giảm :
. Nếu sợ lạnh, đau đầu thì gia thêm : sài hồ 10g, cát căn 15g.
. Khí đoản ngực bĩ nặng thì gia thêm : sơn dược 10g, qua lâu vỏ 10g.
. Ho nhiều thì gia thêm : hắc chi ma 20g, tri mẫu 10g.
. Nếu tiếp tục kỳ nhiệt thì gia thêm : tri mẫu 10g, địa cốt bì 15g.
. Nếu loa lịch ác hạch thì gia thêm : hạ khô thảo10g, huyền sâm 10g, hoàng dược tử 10g, miêu qua thảo 15g, mẫu lệ 15g.
3.4.Tỳ hư huyết hao:- Triệu chứng: Phúc tả ỉa lỏng nước hoặc dịch nhày là niêm dịch, nôn mửa nôn khan, diện sắc bạch trắng vô hoa, gầy gò vô lực, bụng đau, ăn kém, khí đoản, lưỡi nhợt hình bệu, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.
- Pháp trị: Bổ khí dưỡng huyết - kiện tỳ chỉ tả.
- Phòng dược: Hợp pháp “qui tỳ thang” và “tứ quân tử thang”.
Sinh tây sâm 10g Bạch truật 10g
Vân linh 15g Hoàng kỳ 15g
Đương qui 15g Sơn dược 15g
Sao bạch thược 12g Khiếm thực 15g
Hồng táo 9 quả Khương bán hạ 10g
Sao biển đậu 10g Sinh cam thảo 6g
-Gia giảm:
. Nếu tiết tả lâu ngày thì gia thêm: kha tử nhục 10g, liên tử 15g, nhục đậu khấu 10g.
. Nôn mửa nhiều thì gia thêm : trúc nhự 10g.
. Nếu ho nhiều, khí đoản, gầy gò là phế tỳ lưỡng hư thì dùng thêm “lục quân tử thang” và “sinh mạch tán” gia giảm.
. Nếu trên cơ sở tỳ hư lại kèm thêm thận tinh bất túc thì phải hợp phương “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” đồng thời “kim quỹ thận khí hoàn” hoặc “thập toàn đại bổ”.
3.5.Thận tinh hao tổn:Tiếp tục kỳ nhiệt hoặc triều nhiệt, gầy gò vô lực, khái thấu khí đoản, tự hãn, miệng khô lưỡi ráo, lưng gối đau mỏi, đàm ho có máu, lưỡi đỏ không rêu, mạch tế sác.
- Pháp trị: Tư âm giáng hỏa.
- Thuốc: “Tri bá địa hoàng thang” gia giảm.
Tri mẫu 15g Sinh địa 15g
Sơn thù 10g Đan bì 10g
Hoàng bá 10g Ngũ vị tử 10g
Sơn dược 15g Phục linh 15g
Trạch tả 10g Mạch đông 10g
- Gia giảm:
. Nếu lưỡi nhợt rêu trắng mỏng, mạch trầm tế thì gia thêm : bột tử hà sa 3g, thỏ ty tử 15g, nhục dung 10g.
. Nếu triều nhiệt tư hãn nặng thì thêm : Tần cửu 10g, trích miết giáp 10 (sắc trước).
. Nếu bì phu nổi mụn ngứa, lở loét thì gia thêm : địa phụ tử 10g, thổ phục linh 10g.
. Lạnh giá, co giật thì gia thêm : linh dương giác 2g (xung).
3.5. Nghiệm phương:- Tử hoa địa đinh 30g, hãm trà uống . Chỉ định dùng cho những người xét nghiệm huyết thanh có HIV1 (+).
- Bản lam căn 50g, hạ khô thảo 30g, sắc hãm thay trà. Chỉ định dùng cho người xét nghiệm có HIV huyết thanh (+) mà chưa phát bệnh AIDS.
- “Hoàng kỳ chích cam thảo thang”: Hoàng kỳ 20g, cam thảo 10g, tử thảo 15g, đan sâm 15g. Sắc nước uống, mỗi ngày một thang.
4.Tinh hoa lâm sàng (chọn lọc).
4.1.Theo Mag - Wolia Goh (Mỹ):Tác giả đã cho 130 bệnh nhân AIDS uống thuốc thảo mộc dạng “trà thuốc”, trong đó: 43 bệnh nhân uống trong thời gian dưới 3 tháng; 33 bệnh nhân uống từ 3 - 5 tháng, 27 bệnh nhân uống từ 6 - 24 tháng (có 19 bệnh nhân bỏ thuốc). Số bệnh nhân còn lại tiến triển tốt: tỷ lệ viêm nhiễm giảm thấp, trọng lượng tăng; tỷ lệ tế bào CD4/CD8 tăng lên (bình thường CD4/CD8 = 1,91); số lượng hồng cầu tăng rõ rệt.
Theo báo cáo của Migamoto - Koji (tác giả Mỹ, 1996) : dùng bài thuốc “Tiểu sài hồ” điều trị cho 40 bệnh nhân đồng tính luyến ái bị nhiễm HIV (không có triệu chứng lâm sàng 30 bệnh nhân, có triệu chứng tương tự AIDS 4 bệnh nhân, AIDS 6 bệnh nhân) thấy có hiệu quả 65%. Các tác giả cho rằng dùng “tiểu sài hồ thang” có thể điều trị rộng rãi cho bệnh nhân nhiễm HIV trước khi phát bệnh (tài liệu của Ngô Bá Bình - Mỹ quốc dùng thuốc thảo mộc điều trị AIDS tiến triển).
4.2. Biện chứng luận trị aids bằng thuốc Trung y.Theo báo cáo của Vương Kỳ - tạp chí Trung y (Thượng Hải, 4/1995), từ tháng 2 năm 1992 đến 9 năm 1993, tác giả ứng dụng thuốc Trung y để điều trị 5000 lần cho bệnh nhân AIDS đã thu được kết quả nhất định. Tác giả cho rằng thuốc Trung y điều trị AIDS có những ưu thế rõ ràng.
+ Phương pháp:
- Hư tắc bổ chi hoãn trị kỳ bản, lấy bổ khí kiện tỳ là chủ dùng bổ tỳ ích khí phục phương (xung tế); uống dạng tễ; mỗi ngày 1 tễ , chia 3 lần, uống trong 3 tháng.
- Thực tắc tả chi, cấp trị kỳ tiêu tuỳ chứng chọn phương.
- Bổ hư tả thực, tiêu bản kiêm trị. Đối với hư thực thác tạp dùng pháp tiêu bản đồng trị , dùng ích khí thanh nhiệt kiêm táo thấp, hoạt huyết lương huyết phục phương chi trị đã thu được hiệu qủa nhất định.
4.3. Biện chứng luận trị thuốc Trung y điều trị AIDS:Theo báo cáo của Tô Kỳ, dùng thuốc Trung y điều trị cho 30 bệnh nhân AIDS tại một số nước Phi châu. Sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và xét nghiệm, trong đó triệu chứng tương đương trùng hợp 6 bệnh nhân, phát bệnh AIDS 24. Căn cứ vào biện chứng YHCT tác giả chia số bệnh nhân làm 4 nhóm:
- Nhóm phế vị âm hư: 11 bệnh nhân; chọn dùng “sâm linh bạch truật tán”, “bách hợp cố kim thang” gia giảm hoặc dùng “phù chính hợp tễ” giagiảm.
- Nhóm tỳ vị hư tổn: 7 bệnh nhân; chọn dùng “bổ trung ích khí thang”, “tiểu sài hồ thang”, “ôn đởm thang” gia giảm và đều có thể dùng thêm “hương sa quân lục hoàn” và “nhân sâm qui tỳ hoàn”.
- Nhóm tỳ thận lưỡng hao: 10 bệnh nhân; chọn dùng “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” gia giảm hoặc “phù chính hợp tễ” gia giảm.
- Nhóm nhiệt thịnh đàm ẩm: 2 bệnh nhân; chọn dùng “an cung ngưu hoàng hoàn”, “câu đằng ẩm” gia giảm. Tất cả các bệnh nhân trên đều được ngừng thuốc tân dược. Hoàn toàn điều trị theo biện chứng YHCT hoặc cho dạng thuốc sắc nâng cao chính khí phối hợp thành phần chủ yếu của bài thuốc là: nhân sâm 12g, hoàng kỳ 20g, cam thảo 12g; Nếu nhấn mạnh chữa triệu chứng phải thêm : sài hồ 12g, cương tà 12g, phòng phong 15g.Tuỳ chứng gia giảm mỗi ngày 1 thang sắc lấy 200ml nước chia 2 lần uống (sáng, chiều).
- Kết quả: dùng từ 6 - 230 ngày, triệu chứng một số bộ phận được cải thiện, máu thường qui chuyển biến tốt.
- Tác giả cho rằng: Thời kỳ đầu của bệnh chính hư tà thực kết hợp phù chính và trừ tà, căn cứ vào thể chất, có thể lấy trừ tà làm chủ hoặc phù chính là chủ.
- Nếu bản chất bệnh diễn biến phức tạp không thể nhất pháp nhất phương được thì phải ứng dụng linh hoạt tuỳ theo chứng phương trị.
- Thời kỳ đầu và thời kỳ giữa thường có triệu chứng: phúc tả khái thấu, nga khẩu sang, phát sốt.
- Giai đoạn này quan trọng là phải khống chế triệu chứng: phế kết hạch, ngược tật, nga khẩu sang, bần huyết (thiếu máu).
Tóm lại: Đánh giá bản chất bệnh thường dựa vào mạch; dựa vào biểu hiện ở lưỡi. Tuy nhiên, viêm nhiễm là hội chứng thường gặp và cũng thường là nguyên nhân dẫn đến tử vong. Vì vậy trên lâm sàng cần phân biệt giai đoạn bệnh hoãn hay cấp, cấp chữa “ tiêu” ( triệu chứng ); Hoãn chữa “bản” ( bổ chính khí ). Cần phải cân nhắc và tiên lượng nặng nhẹ, điều trị kịp thời nhằm kéo dài đời sống hoặc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. (Theo tài liệu Tô Thanh Luyện, Trung y tạp chí Thượng Hải, 1990; 27).
1.1. Theo YHHĐ:TheoYHHĐ, AIDS là tổng hợp các triệu chứng gây ra bởi sự suy giảm hệ thống miễn dịch, đặc biệt do độc tố ngải tư bệnh (HIV).
Năm 1981 ,người ta phát ra bản chất của bệnh là một loại bệnh truyền nhiễm phạm vi rộng, lan truyền nhanh, bệnh biến đa dạng, phòng và điều trị đều không kết quả rõ, bệnh phát triển toàn cầu, tỷ lệ tử vong cao ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội.
Trên lâm sàng, HIV gây tổn hại chủ yếu ở hệ thống miễn dịch của cơ thể, xuất hiện tính chất đặc thù liên tục sự suy tổn miễn dịch tế bào, từ đó dẫn đến nhiều cơ quan, tạng phủ phát sinh điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng và ác tính hóa. Trong lâm sàng, người ta có thể chia ra 4 loại: thể phế, thể thần kinh trung ương, thể vị trường, thể phát sốt không rõ nguyên nhân.
Cơ chế bệnh sinh của ngải tư bệnh là cơ thể người sau khi đã cảm nhiễm HIV thì hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc khuyết hãm độc tố HIV và HIV thừa cơ xâm lấn tế bào T hỗ trợ (TH, TCD4) tạo thành một lượng lớn tế bào T bị cảm nhiễm và phá hoại (vỡ hạt); nghiêm trọng hơn là làm tổn hại đến công năng miễn dịch của cơ thể, làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm sút đối với tất cả các tác nhân gây bệnh( nhiễm trùng, vi khuẩn, ký sinh trùng);từ đó phát sinh bệnh cơ hội do viêm nhiễm và thũng lưu (ác tính hóa).
1.2. Theo Y học Cổ truyềnTrung y căn cứ vào đặc điểm bệnh biến qui về các phạm trù chứng bệnh “Thấp ôn “, “Ôn dịch “, “Hư tổn “. Nguyên nhân gây bệnh là người bệnh lao động quá sức, ham muốn quá độ dẫn đến tổn thương thận tinh, dịch độc tà khí tự xâm nhập vào cơ thể; hoặc tỳ vị bất kiện, sinh hóa chi nguyên, khí - huyết bất túc, dịch độc cũng có thể thừa cơ mà nhập. Thời kỳ đầu chính hư tà thực, phần nhiều biểu hiện triệu chứng của tà phạm phế; tiếp sau là tà khí vào sâu có thể thấy vệ khí, doanh khí đồng bệnh, thậm chí là tà hãm tâm doanh. Do ở dịch độc thao liệt chính khí tiêu hao lớn, khí - huyết tân dịch đều bất túc nên có thể xuất hiện các loại thực chứng của: thận hư, tỳ hư, phế hư khác nhau.
Chính khí hư dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở nên nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.
2. Chẩn đoán:
2.1. Dựa vào bệnh sử:Có tiếp xúc với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc có quan hệ tình dục với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc là có dùng các dụng cụ truyền máu, truyền dịch, dịch thay thế máu.
2.2. Những triệu chứng chính khi cảm nhiễm cấp tínhCó phát sốt, bất thích, bì chẩn, đau khớp và toàn thân nổi hạch limpho. Sau đó triệu chứng biến mất, bệnh nhân chuyển thành trạng thái vô chứng trạng, kháng thể kháng HIV dương tính. Thời kỳ này có thể kéo dài 2 - 10 năm, trong đó khoảng 25% người bệnh có thể phát sinh ngải tư bệnh với biểu hiện là phát sốt, thể trạng giảm sút, mệt mỏi vô lực, giữa đêm tự hãn, ho khái thấu, iả chảy mãn tính khoảng 1 tháng trở lên, miệng có mụn lở loét, toàn thân phát hạch sưng to, bì chẩn (nổi mụn ngoài da), nghiêm trọng hơn là vỡ mủ lở loét. Xét nghiệm máu thấy: tế bào limpho giảm thấp, tế bào bạch cầu giảm thấp, thiếu máu... Thời kỳ sau, gọi là thời kỳ toàn phát, có thể xuất hiện tất cả các triệu chứng nói trên tạo điều kiện thuận lợi cho những viêm nhiễm và những u ác tính phát triển.
2.3. Kiểm tra xét nghiệm kháng thể kháng HIV trong huyết thanh :
- Tế bào limpho số lượng thấp, tỉ lệ CD4 / CD8 < 1.
- Xét nghiệm miễn dịch gắn men ELISA (+) (enzyme linked immunosorbert assay).
- Western Blot (+) phát hiện nhiều loại kháng nguyên khác nhau do trọng lượng phân tử (P24, gp41, gp120/160).
Tế bào CD4 giảm thấp, hạch limpho sưng to ở toàn thân, triệu chứng bệnh lý của hệ thống thần kinh biểu hiện rõ, xuất hiện giảm sút về trí tuệ và năng lực, chức năng vận động của hệ thần kinh bị trở ngại.
3. Biện chứng và phương trị:
3.1.Tà phạm vệ khí:- Triệu chứng chính là phát sốt, đau đầu, nôn khan hoặc là nôn mửa, ăn kém, mệt mỏi, vô lực, đau họng khái thấu, ỉa chảy, phúc tả lưỡi nhợt, rêu trắng nhờn, mạch phù hoạt sác.
- Pháp điều trị: Thanh nhiệt - giải độc - kiện tỳ lợi thấp.
- Phương thuốc: “Ngân kiều tán” + “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm.
Kim ngân hoa 15g Liên kiều 10g
Kinh giới 9g Bạch khấu nhân 10g
Cát cánh 6g Bán hạ 9g
Trúc diệp tâm 6g Hạnh nhân 9g
Hậu phác 6g Đạm đậu xị 12g
Hoắc hương 9g Sinh cam thảo 6g
Đồng thời cho uống “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm ( 9g chia 2 lần: sáng, tối ). Nếu ăn uống kém hoặc là sau khi ăn không tiêu hóa được thì thêm : sơn tra, mạch nha, cốc nha, mỗi thứ đều 10g. Nếu ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khát nửa đêm về sáng, sốt giảm thì có thể dùng “uy tiên thang” gia giảm.
3.2. Khí doanh (huyết) lưỡng phạp:Bệnh nhân sốt cao liên tục không lui, khái huyết, nôn ra máu, hoặc là phát ban lờ mờ, đầu thống, choạng vạng, phiền táo, thất miên ; hoặc là mệt mỏi, vật vã, đại tiện lỏng nát; hoặc là ỉa ra máu hoặc là tiện bế, lưỡi dáng, rêu vàng khô hoặc là xám đen, mạch huyền sác.
- Phương điều trị: Khí doanh lưỡng thanh - lương huyết giải độc.
- Phương thuốc: “Thanh ôn bại độc ẩm” gia giảm, hợp dụng “Tử tuyết đan”.
Sơn chi 10g Hoàng cầm 10g
Hoàng liên 6g Chi mẫu 10g
Sạ can 10g Sinh địa 5g
Đan bì 10g Xích thược 10g
Huyền sâm 10g Liên kiều 12g
Trúc diệp 5g Cam thảo 5g
Thủy ngưu giác phấn ( bột sừng trâu ) 3g , hoà với nước sôi uống.
Sinh thạch cao 60g , sắc trước.
“Tử tuyến đan” dùng thêm 0,5g uống trong một ngày.
- Nếu như thần chí không minh mẫn hoặc là lúc tỉnh, lúc mê hoặc là loạn ngôn, nói sảng, co giật có thể dùng thêm “An cung ngưu hoàng hoàn phối hợp với “câu đằng ẩm”.
Bài thuốc “câu đằng ẩm” có các vị thuốc sau:
Câu đằng 10g Địa long 10g
Đan bì 10g Toàn yết 10g
Đẳng sâm 15g Thiên ma 10g
Bản lam căn 15g Xích thược 10g
Linh dương giác 0,10g dạng bột uống ngoài . Mỗi ngày sắc một thang chia làm hai lần uống.
Ngoài ra có thể uống thêm “An cung ngưu hoàng hoàn” dùng từ 1 - 2 viên một lần, mỗi ngày uống từ 2 - 3 lần.
3.3. Phế khí âm lưỡng hư:- Biện chứng: Phát sốt, ho khan, vô đàm hoặc đàm có máu khí đoản, hung thống, khẩu can hầu thống, tư hãn, rêu lưỡi vàng mỏng hoặc hóa lục hoặc không rêu, mạch tế sác.
- Pháp trị: Bổ khí ích âm.
- Thuốc: “Sinh mạch tán” gia vị:
Thái tử sâm 30g Mạch đông 15g
Ngũ vị tử 10g Thiên hoa phấn 10g
Hạnh nhân 10g Sinh địa 15g
A giao 12g (hoà vào nước uống).
-Gia giảm :
. Nếu sợ lạnh, đau đầu thì gia thêm : sài hồ 10g, cát căn 15g.
. Khí đoản ngực bĩ nặng thì gia thêm : sơn dược 10g, qua lâu vỏ 10g.
. Ho nhiều thì gia thêm : hắc chi ma 20g, tri mẫu 10g.
. Nếu tiếp tục kỳ nhiệt thì gia thêm : tri mẫu 10g, địa cốt bì 15g.
. Nếu loa lịch ác hạch thì gia thêm : hạ khô thảo10g, huyền sâm 10g, hoàng dược tử 10g, miêu qua thảo 15g, mẫu lệ 15g.
3.4.Tỳ hư huyết hao:- Triệu chứng: Phúc tả ỉa lỏng nước hoặc dịch nhày là niêm dịch, nôn mửa nôn khan, diện sắc bạch trắng vô hoa, gầy gò vô lực, bụng đau, ăn kém, khí đoản, lưỡi nhợt hình bệu, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.
- Pháp trị: Bổ khí dưỡng huyết - kiện tỳ chỉ tả.
- Phòng dược: Hợp pháp “qui tỳ thang” và “tứ quân tử thang”.
Sinh tây sâm 10g Bạch truật 10g
Vân linh 15g Hoàng kỳ 15g
Đương qui 15g Sơn dược 15g
Sao bạch thược 12g Khiếm thực 15g
Hồng táo 9 quả Khương bán hạ 10g
Sao biển đậu 10g Sinh cam thảo 6g
-Gia giảm:
. Nếu tiết tả lâu ngày thì gia thêm: kha tử nhục 10g, liên tử 15g, nhục đậu khấu 10g.
. Nôn mửa nhiều thì gia thêm : trúc nhự 10g.
. Nếu ho nhiều, khí đoản, gầy gò là phế tỳ lưỡng hư thì dùng thêm “lục quân tử thang” và “sinh mạch tán” gia giảm.
. Nếu trên cơ sở tỳ hư lại kèm thêm thận tinh bất túc thì phải hợp phương “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” đồng thời “kim quỹ thận khí hoàn” hoặc “thập toàn đại bổ”.
3.5.Thận tinh hao tổn:Tiếp tục kỳ nhiệt hoặc triều nhiệt, gầy gò vô lực, khái thấu khí đoản, tự hãn, miệng khô lưỡi ráo, lưng gối đau mỏi, đàm ho có máu, lưỡi đỏ không rêu, mạch tế sác.
- Pháp trị: Tư âm giáng hỏa.
- Thuốc: “Tri bá địa hoàng thang” gia giảm.
Tri mẫu 15g Sinh địa 15g
Sơn thù 10g Đan bì 10g
Hoàng bá 10g Ngũ vị tử 10g
Sơn dược 15g Phục linh 15g
Trạch tả 10g Mạch đông 10g
- Gia giảm:
. Nếu lưỡi nhợt rêu trắng mỏng, mạch trầm tế thì gia thêm : bột tử hà sa 3g, thỏ ty tử 15g, nhục dung 10g.
. Nếu triều nhiệt tư hãn nặng thì thêm : Tần cửu 10g, trích miết giáp 10 (sắc trước).
. Nếu bì phu nổi mụn ngứa, lở loét thì gia thêm : địa phụ tử 10g, thổ phục linh 10g.
. Lạnh giá, co giật thì gia thêm : linh dương giác 2g (xung).
3.5. Nghiệm phương:- Tử hoa địa đinh 30g, hãm trà uống . Chỉ định dùng cho những người xét nghiệm huyết thanh có HIV1 (+).
- Bản lam căn 50g, hạ khô thảo 30g, sắc hãm thay trà. Chỉ định dùng cho người xét nghiệm có HIV huyết thanh (+) mà chưa phát bệnh AIDS.
- “Hoàng kỳ chích cam thảo thang”: Hoàng kỳ 20g, cam thảo 10g, tử thảo 15g, đan sâm 15g. Sắc nước uống, mỗi ngày một thang.
4.Tinh hoa lâm sàng (chọn lọc).
4.1.Theo Mag - Wolia Goh (Mỹ):Tác giả đã cho 130 bệnh nhân AIDS uống thuốc thảo mộc dạng “trà thuốc”, trong đó: 43 bệnh nhân uống trong thời gian dưới 3 tháng; 33 bệnh nhân uống từ 3 - 5 tháng, 27 bệnh nhân uống từ 6 - 24 tháng (có 19 bệnh nhân bỏ thuốc). Số bệnh nhân còn lại tiến triển tốt: tỷ lệ viêm nhiễm giảm thấp, trọng lượng tăng; tỷ lệ tế bào CD4/CD8 tăng lên (bình thường CD4/CD8 = 1,91); số lượng hồng cầu tăng rõ rệt.
Theo báo cáo của Migamoto - Koji (tác giả Mỹ, 1996) : dùng bài thuốc “Tiểu sài hồ” điều trị cho 40 bệnh nhân đồng tính luyến ái bị nhiễm HIV (không có triệu chứng lâm sàng 30 bệnh nhân, có triệu chứng tương tự AIDS 4 bệnh nhân, AIDS 6 bệnh nhân) thấy có hiệu quả 65%. Các tác giả cho rằng dùng “tiểu sài hồ thang” có thể điều trị rộng rãi cho bệnh nhân nhiễm HIV trước khi phát bệnh (tài liệu của Ngô Bá Bình - Mỹ quốc dùng thuốc thảo mộc điều trị AIDS tiến triển).
4.2. Biện chứng luận trị aids bằng thuốc Trung y.Theo báo cáo của Vương Kỳ - tạp chí Trung y (Thượng Hải, 4/1995), từ tháng 2 năm 1992 đến 9 năm 1993, tác giả ứng dụng thuốc Trung y để điều trị 5000 lần cho bệnh nhân AIDS đã thu được kết quả nhất định. Tác giả cho rằng thuốc Trung y điều trị AIDS có những ưu thế rõ ràng.
+ Phương pháp:
- Hư tắc bổ chi hoãn trị kỳ bản, lấy bổ khí kiện tỳ là chủ dùng bổ tỳ ích khí phục phương (xung tế); uống dạng tễ; mỗi ngày 1 tễ , chia 3 lần, uống trong 3 tháng.
- Thực tắc tả chi, cấp trị kỳ tiêu tuỳ chứng chọn phương.
- Bổ hư tả thực, tiêu bản kiêm trị. Đối với hư thực thác tạp dùng pháp tiêu bản đồng trị , dùng ích khí thanh nhiệt kiêm táo thấp, hoạt huyết lương huyết phục phương chi trị đã thu được hiệu qủa nhất định.
4.3. Biện chứng luận trị thuốc Trung y điều trị AIDS:Theo báo cáo của Tô Kỳ, dùng thuốc Trung y điều trị cho 30 bệnh nhân AIDS tại một số nước Phi châu. Sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và xét nghiệm, trong đó triệu chứng tương đương trùng hợp 6 bệnh nhân, phát bệnh AIDS 24. Căn cứ vào biện chứng YHCT tác giả chia số bệnh nhân làm 4 nhóm:
- Nhóm phế vị âm hư: 11 bệnh nhân; chọn dùng “sâm linh bạch truật tán”, “bách hợp cố kim thang” gia giảm hoặc dùng “phù chính hợp tễ” giagiảm.
- Nhóm tỳ vị hư tổn: 7 bệnh nhân; chọn dùng “bổ trung ích khí thang”, “tiểu sài hồ thang”, “ôn đởm thang” gia giảm và đều có thể dùng thêm “hương sa quân lục hoàn” và “nhân sâm qui tỳ hoàn”.
- Nhóm tỳ thận lưỡng hao: 10 bệnh nhân; chọn dùng “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” gia giảm hoặc “phù chính hợp tễ” gia giảm.
- Nhóm nhiệt thịnh đàm ẩm: 2 bệnh nhân; chọn dùng “an cung ngưu hoàng hoàn”, “câu đằng ẩm” gia giảm. Tất cả các bệnh nhân trên đều được ngừng thuốc tân dược. Hoàn toàn điều trị theo biện chứng YHCT hoặc cho dạng thuốc sắc nâng cao chính khí phối hợp thành phần chủ yếu của bài thuốc là: nhân sâm 12g, hoàng kỳ 20g, cam thảo 12g; Nếu nhấn mạnh chữa triệu chứng phải thêm : sài hồ 12g, cương tà 12g, phòng phong 15g.Tuỳ chứng gia giảm mỗi ngày 1 thang sắc lấy 200ml nước chia 2 lần uống (sáng, chiều).
- Kết quả: dùng từ 6 - 230 ngày, triệu chứng một số bộ phận được cải thiện, máu thường qui chuyển biến tốt.
- Tác giả cho rằng: Thời kỳ đầu của bệnh chính hư tà thực kết hợp phù chính và trừ tà, căn cứ vào thể chất, có thể lấy trừ tà làm chủ hoặc phù chính là chủ.
- Nếu bản chất bệnh diễn biến phức tạp không thể nhất pháp nhất phương được thì phải ứng dụng linh hoạt tuỳ theo chứng phương trị.
- Thời kỳ đầu và thời kỳ giữa thường có triệu chứng: phúc tả khái thấu, nga khẩu sang, phát sốt.
- Giai đoạn này quan trọng là phải khống chế triệu chứng: phế kết hạch, ngược tật, nga khẩu sang, bần huyết (thiếu máu).
Tóm lại: Đánh giá bản chất bệnh thường dựa vào mạch; dựa vào biểu hiện ở lưỡi. Tuy nhiên, viêm nhiễm là hội chứng thường gặp và cũng thường là nguyên nhân dẫn đến tử vong. Vì vậy trên lâm sàng cần phân biệt giai đoạn bệnh hoãn hay cấp, cấp chữa “ tiêu” ( triệu chứng ); Hoãn chữa “bản” ( bổ chính khí ). Cần phải cân nhắc và tiên lượng nặng nhẹ, điều trị kịp thời nhằm kéo dài đời sống hoặc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. (Theo tài liệu Tô Thanh Luyện, Trung y tạp chí Thượng Hải, 1990; 27).
Hư lao (suy nhược cơ thể)
1. Đại cương:
1.1. Định nghĩaTrung y mô tả suy nhược thần kinh trong phạm trù “ Bất mi “,“Kinh quí “, “Kiện vong “mất ngủ hay mê. Triệu chứng chủ yếu là đau đầu nặng nề, trí nhớ giảm, tâm quí, di tinh,suy nhược cơ thể, sức đề kháng giảm sút; gặp nhiều ở người lao động trí óc, phát bệnh từ từ.
1.2. Nguyên nhân bệnh lýSuy nghĩ quá độ, tinh thần quá căng thẳng, do mắc một số bệnh mạn tính kéo dài, chức năng tạng phủ mất điều hoà, tâm chủ thần khí, tâm khí hư tổn, tâm huyết bất túc thận chủ tàng tinh, thận khí hư tổn, thận tinh bất túc.
Có thể thấy: kinh quí, kiện vong thất miên, đầu choáng, tai ù, đau lưng, di tinh, lo lắng hại tỳ, tỳ hư huyết thiếu, ăn kém, mệt mỏi tâm quí, mặt tiều tụy, kém sắc thấu chí không thư thái, làm cho can đởm khí uất và âm hư dương vượng, làm ngực sườn đầy tức, miệng đắng, mất ngủ, đầu choáng, mắt hoa.Bệnh chủ yếu lệ thuộc 4 tạng (tâm, tỳ, can, thận)bị mất điều hòa.
1.3. Biện chứng phương trị:Tìm hiểu nguyên nhân phát bệnh,động viên tư tưởng người bệnh được tốt sẽ phát huy tính tích cực giữa y sinh và bệnh nhân, quyết tâm chiến thắng bệnh tật; kết hợp điều trị với lao động và thể dục liệu pháp; ăn uống sinh hoạt làm việc hợp lý. Lâm sàng chủ yếu dựa vào tình trạng hư hay thực của tạng phủ, chú ý đến bổ âm - dương và khí – huyết.
2. Lâm sàng và thể bệnh:
2.1. Âm hư dương vượng:- Đau đầu choáng váng, mắt hoa tai ù, trí nhớ giảm (kiện vong), sức chú ý không tập trung dễ phiền táo, tâm quí bất định, thắt lưng đau mỏi, chi gầy vô lực, họng khô, miệng ráo, tiểu tiện vàng đỏ, đầu lưỡi ít rêu hoặc rêu vàng mỏng, mạch huyền sác hoặc tế sác.
- Phương điều trị: tư âm giáng hoả - bình can tiềm dương.
- Bài thuốc: “kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia giảm (thang).
Thục địa 12g Sinh địa 12g
Sơn thù 12g Kỷ tử 10g
Cúc hoa 10g Sa sâm 10g
Toan táo nhân 10g Bá tử nhân 10g
Sắc uống ngày 1 thang. Nếu nhịp tim nhanh, tâm phiền mất ngủ, hay quên, di tinh, tai ù, lưng và gối đau mỏi, miệng khô, ngũ tâm phiền nhiệt, đầu lưỡi đỏ, mạch tế sác là chứng tâm thận bất giao; điều trị phải dùng “lục vị địa hoàng hoàn” gia thêm: ngũ vị tử 8g, toan táo nhân 20g, bán hạ chế 6g, hoàng liên 4 - 6g.
2.2. Đởm hư đàm nghịchHư phiền thất miên, kinh quí hoặc đau đầu ẩu thổ, đại tiện lỏng nát, rêu lưỡi trắng hoặc nhờn, mạch huyền hoặc sác hoặc kết.
- Pháp chữa: ôn đởm trừ đàm.
- Thuốc: “ôn đởm thang”.
- Gia giảm:
Nếu đàm tụ thì gia thêm: viễn trí 8g, đởm nam tinh 12g.
Nếu khí hư mạch kết thì gia thêm: đẳng sâm 16g.
Nếu hư nhiệt đầu lưỡi đỏ thì gia thêm: thiên hoa phấn, bách hợp mỗi thứ đều 12g.
Nếu rìa lưỡi có ban điểm ứ huyết, mạch súc thì gia thêm: đan sâm 16g, đào nhân 12g, hồng hoa 8g.
2.3. Tâm tỳ lưỡng hư:- Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.
- Pháp điều trị: kiện tỳ dưỡng tâm - bổ huyết ích khí.
- Phương thuốc: “qui tỳ thang gia giảm”.
Bạch truật 12g Đương qui 8g
Đẳng sâm 8g Hoàng kỳ 12g
Toan táo nhân 12g Phục thần 8g
Viễn trí 6g Long nhãn nhục 8g
Chích cam thảo 4g.
Nếu tinh thần ủy mị, đầu choáng, mắt hoa, hư phiền tâm qúi, tư hãn, mồm lưỡi sinh nhọt, kinh nguyệt không đều, chất lưỡi hồng nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế sác là tâm huyết bất túc thì dùng “bổ tâm hoàn”.
2.4. Thận dương hư- Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt nhợt trắng, lưng đau, chân mỏi, thân thể giá lạnh, chi lạnh, dễ tỉnh giấc, đái đêm nhiều, tiểu tiện trong , liệt dương, táo tiết hoặc di tinh, rêu lưỡi nhợt trắng, mạch trầm tế hoặc hư vô lực.
- Pháp trị: ôn bổ thận dương.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” hoặc “hữu qui ẩm”.
Nếu mắt hoa, phát thoát (rụng tóc), lưng gối lạnh giá, di tinh, lưỡi mềm bệu nhợt, rêu trắng mạch hư đại hoặc trì, tinh hư huyết thiếu, dương khí suy nhược thì phải tuyên bổ âm - dương, dùng quế chi, long cốt, mẫu lệ thang.
3. Thuốc nam nghiệm phương:
3.1. Bài thuốc:- Rễ của cây táo chua bỏ vỏ lụa 35g, đan sâm 16g. Sắc nước 1 - 2h, chia 2 lần uống trước khi ngủ trưa và trước khi đi ngủ buổi tối.
-Hy thiêm thảo 35g, ngũ vị tử 8g, hàm tu thảo 30g. Sắc nước uống.
3.2. Châm cứu:+ Huyệt chính: an miênII, thần môn, nội quan (bình bổ bình tả) ngày 1 lần châm trước khi đi ngủ; có thể gia giảm thêm: ế minh, túc tam lý, tam âm giao.
+ Huyệt phối hợp: an miênI, an miênII kích thích mạnh, không lưu châm, mỗi ngày 1 lần trước khi đi ngủ, 7 - 10 ngày là 1 liệu trình.
1.1. Định nghĩaTrung y mô tả suy nhược thần kinh trong phạm trù “ Bất mi “,“Kinh quí “, “Kiện vong “mất ngủ hay mê. Triệu chứng chủ yếu là đau đầu nặng nề, trí nhớ giảm, tâm quí, di tinh,suy nhược cơ thể, sức đề kháng giảm sút; gặp nhiều ở người lao động trí óc, phát bệnh từ từ.
1.2. Nguyên nhân bệnh lýSuy nghĩ quá độ, tinh thần quá căng thẳng, do mắc một số bệnh mạn tính kéo dài, chức năng tạng phủ mất điều hoà, tâm chủ thần khí, tâm khí hư tổn, tâm huyết bất túc thận chủ tàng tinh, thận khí hư tổn, thận tinh bất túc.
Có thể thấy: kinh quí, kiện vong thất miên, đầu choáng, tai ù, đau lưng, di tinh, lo lắng hại tỳ, tỳ hư huyết thiếu, ăn kém, mệt mỏi tâm quí, mặt tiều tụy, kém sắc thấu chí không thư thái, làm cho can đởm khí uất và âm hư dương vượng, làm ngực sườn đầy tức, miệng đắng, mất ngủ, đầu choáng, mắt hoa.Bệnh chủ yếu lệ thuộc 4 tạng (tâm, tỳ, can, thận)bị mất điều hòa.
1.3. Biện chứng phương trị:Tìm hiểu nguyên nhân phát bệnh,động viên tư tưởng người bệnh được tốt sẽ phát huy tính tích cực giữa y sinh và bệnh nhân, quyết tâm chiến thắng bệnh tật; kết hợp điều trị với lao động và thể dục liệu pháp; ăn uống sinh hoạt làm việc hợp lý. Lâm sàng chủ yếu dựa vào tình trạng hư hay thực của tạng phủ, chú ý đến bổ âm - dương và khí – huyết.
2. Lâm sàng và thể bệnh:
2.1. Âm hư dương vượng:- Đau đầu choáng váng, mắt hoa tai ù, trí nhớ giảm (kiện vong), sức chú ý không tập trung dễ phiền táo, tâm quí bất định, thắt lưng đau mỏi, chi gầy vô lực, họng khô, miệng ráo, tiểu tiện vàng đỏ, đầu lưỡi ít rêu hoặc rêu vàng mỏng, mạch huyền sác hoặc tế sác.
- Phương điều trị: tư âm giáng hoả - bình can tiềm dương.
- Bài thuốc: “kỷ cúc địa hoàng hoàn” gia giảm (thang).
Thục địa 12g Sinh địa 12g
Sơn thù 12g Kỷ tử 10g
Cúc hoa 10g Sa sâm 10g
Toan táo nhân 10g Bá tử nhân 10g
Sắc uống ngày 1 thang. Nếu nhịp tim nhanh, tâm phiền mất ngủ, hay quên, di tinh, tai ù, lưng và gối đau mỏi, miệng khô, ngũ tâm phiền nhiệt, đầu lưỡi đỏ, mạch tế sác là chứng tâm thận bất giao; điều trị phải dùng “lục vị địa hoàng hoàn” gia thêm: ngũ vị tử 8g, toan táo nhân 20g, bán hạ chế 6g, hoàng liên 4 - 6g.
2.2. Đởm hư đàm nghịchHư phiền thất miên, kinh quí hoặc đau đầu ẩu thổ, đại tiện lỏng nát, rêu lưỡi trắng hoặc nhờn, mạch huyền hoặc sác hoặc kết.
- Pháp chữa: ôn đởm trừ đàm.
- Thuốc: “ôn đởm thang”.
- Gia giảm:
Nếu đàm tụ thì gia thêm: viễn trí 8g, đởm nam tinh 12g.
Nếu khí hư mạch kết thì gia thêm: đẳng sâm 16g.
Nếu hư nhiệt đầu lưỡi đỏ thì gia thêm: thiên hoa phấn, bách hợp mỗi thứ đều 12g.
Nếu rìa lưỡi có ban điểm ứ huyết, mạch súc thì gia thêm: đan sâm 16g, đào nhân 12g, hồng hoa 8g.
2.3. Tâm tỳ lưỡng hư:- Tâm quí kiên vong, huyền vựng, sắc mặt gầy bệch, khí đoản gầy gò, ngủ hay mơ, dễ tỉnh giấc,ăn không ngon miệng, hoặc bụng đau tiện lỏng, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch tế nhược.
- Pháp điều trị: kiện tỳ dưỡng tâm - bổ huyết ích khí.
- Phương thuốc: “qui tỳ thang gia giảm”.
Bạch truật 12g Đương qui 8g
Đẳng sâm 8g Hoàng kỳ 12g
Toan táo nhân 12g Phục thần 8g
Viễn trí 6g Long nhãn nhục 8g
Chích cam thảo 4g.
Nếu tinh thần ủy mị, đầu choáng, mắt hoa, hư phiền tâm qúi, tư hãn, mồm lưỡi sinh nhọt, kinh nguyệt không đều, chất lưỡi hồng nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế sác là tâm huyết bất túc thì dùng “bổ tâm hoàn”.
2.4. Thận dương hư- Tinh thần mệt mỏi, sắc mặt nhợt trắng, lưng đau, chân mỏi, thân thể giá lạnh, chi lạnh, dễ tỉnh giấc, đái đêm nhiều, tiểu tiện trong , liệt dương, táo tiết hoặc di tinh, rêu lưỡi nhợt trắng, mạch trầm tế hoặc hư vô lực.
- Pháp trị: ôn bổ thận dương.
- Phương thuốc: “kim quĩ thận khí hoàn” hoặc “hữu qui ẩm”.
Nếu mắt hoa, phát thoát (rụng tóc), lưng gối lạnh giá, di tinh, lưỡi mềm bệu nhợt, rêu trắng mạch hư đại hoặc trì, tinh hư huyết thiếu, dương khí suy nhược thì phải tuyên bổ âm - dương, dùng quế chi, long cốt, mẫu lệ thang.
3. Thuốc nam nghiệm phương:
3.1. Bài thuốc:- Rễ của cây táo chua bỏ vỏ lụa 35g, đan sâm 16g. Sắc nước 1 - 2h, chia 2 lần uống trước khi ngủ trưa và trước khi đi ngủ buổi tối.
-Hy thiêm thảo 35g, ngũ vị tử 8g, hàm tu thảo 30g. Sắc nước uống.
3.2. Châm cứu:+ Huyệt chính: an miênII, thần môn, nội quan (bình bổ bình tả) ngày 1 lần châm trước khi đi ngủ; có thể gia giảm thêm: ế minh, túc tam lý, tam âm giao.
+ Huyệt phối hợp: an miênI, an miênII kích thích mạnh, không lưu châm, mỗi ngày 1 lần trước khi đi ngủ, 7 - 10 ngày là 1 liệu trình.
Ung thư Cổ tử cung (cổ tử cung nham)
1. Đại cương:
Là một loại thũng lưu ác tính có ở cơ quan sinh dục nữ giới. Đặc điểm lâm sàng thời kỳ đầu thường triệu chứng nghèo nàn, bệnh nhân thường không có cảm giác gì đặc biệt, chỉ khi thũng nham phát triển đến mức độ nhất định thì triệu chứng mới rõ, chủ yếu là bài xuất dịch ở âm đạo, sau kỳ kinh thấy âm đạo xuất huyết.
Thời kỳ đầu xuất huyết là do tiếp xúc, hoặc xuất huyết không theo qui tắc nào. Khi lượng máu mất nhiều, đau dữ dội, âm đạo ra máu liên tục là diễn biến nặng.
Hiện nay, theo YHHĐ điều trị bệnh này chủ yếu là dùng xạ trị hoặc hóa học trị liệu, thủ thuật trị liệu, hoặc là điều trị tổng hợp. Tuy nhiên, tất cả phương pháp trị liệu trên đều có phạm vi thích ứng nhất định và đều có phản ứng phụ của thuốc, bệnh nhân thường không muốn áp dụng.
1.1. Chẩn đoán theo YHHĐ: Ung thư cổ tử cung thời đầu khu trú ở lớp cơ, quan sát mắt thường không phân biệt được, cần phải khám phụ khoa kết hợp kiểm tra xét nghiệm toàn thân, xét nghiệm tế bào, sinh thiết, kiểm tra tổ chức học, soi âm đạo để chẩn đoán sớm, biết được phạm vi của khối u.
- Triệu chứng chủ yếu là âm đạo chảy máu, âm đạo xuất tiết dịch và đau nhức buốt, mức độ nặng hay nhẹ liên quan đến thời gian sớm hay muộn.
- Các thời kỳ lâm sàng: Tiêu chuẩn của Hội nghị phụ khoa Quốc tế, (1985) chia làm 4 thời kỳ:
. Giai đoạn 0: Nham nguyên vị tẩm thấm tiền nham.
. Giai đoạn I: Xác định sinh thiết (tổn thương phát triển đến thân tử cung).
. Giai đoạn II: Tổn thương vượt quá cổ tử cung lan đến <1/3 âm đạo.
. Giai đoạn III: U phát triển đến thành xương chậu (xâm phạm đến 1/3 âm đạo).
. Giai đoạn IV: U phát triển khắp tử cung và lan đến các cơ quan khác.
- Thời kỳ đầu thường có loét cổ tử cung: Ban đỏ kết thạch lồi ra hoặc loét nát. Dựa vào mức độ phát triển người ta chia làm 3 mức:
. Nhóm ngoài sinh dục, thể tự như dạng hoa.
. Nhóm trong sinh dục, nhóm kết hạch.
. Nhóm loét mụn.
1.2. Theo quan niệm YHCT:Bệnh cổ tử cung nham thường được mô tả trong các phạm trù, “băng lậu” “đới hạ” “tạp sắc đới”. Nguyên nhân chủ yếu là do 3 tạng: can, tỳ, thận bị tổn thương làm cho thấp nhiệt - nhiệt độc ngưng tụ ở bào cung. YHCT cho rằng: “ bệnh thuộc về bản hư, tiêu thực”.
Điều trị bệnh vừa phối hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng cao chức năng miễn dịch của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng nham, bảo tồn chức năng sinh dục và chức năng sinh lý bình thường của cơ thể. Ngoài ra, có thể phối hợp hóa trị liệu, xạ trị để giảm bớt tác dụng phụ, cải thiện chứng trạng, nâng cao hiệu qủa, kéo dài đời sống cho bệnh nhân.
Hiện nay, điều trị ung thư cổ tử cung phải dựa vào giai đoạn lâm sàng của YHHĐ với biện chứng luận trị Trung y.
Ví dụ: Thể “can thận âm hư” đa phần thuộc thấp nhiệt hạ trú, khí âm lưỡng thương; thể kết hạch đa phần thuộc khí trệ huyết ứ. Hiện nay, người ta dùng đơn thuần thuốc Trung dược có thể điều trị khỏi nham chứng trước khi có biến chứng di căn.
Muốn đạt hiệu quả phải kết hợp hóa trị liệu, phóng xạ trị liệu hoặc điều trị kết hợp với phẫu thuật, vận dụng thuốc thảo mộc có thể giảm được các biến chứng phản ứng của đại tràng ,bàng quang, trực tràng. Tuỳ theo từng thời kỳ mà vận dụng thuốc uống trong, thuốc dùng ngoài hay kết hợp cả hai.
2. Biện chứng luận trị:
+ Những điểm trọng yếu biện chứng:
Đặc điểm bệnh sinh của cổ tử cung nham là bản hư tiêu thực, hoặc hư thực phối hợp nhưng phần nhiều là chứng hư. Vì vậy phải bổ ích xung nhâm, bồi bổ can thận tỳ là phép tắc chủ yếu:
- Kiện tỳ ích khí, tư bổ can thận, phù dương cố thể (bản) chi pháp.
- Khí - huyết ứ trệ, nhiệt độc trệ lưu, hình thành tích tụ là tiêu thực.
- Ứng dụng lý khí hoạt huyết, hóa ứ nhuyễn kiên, trừ thấp giải độc, kháng nham tiêu lưu.
+ Về pháp điều trị:
Phải nắm vững tà chính thịnh – suy; chọn dùng trước công, sau bổ, công bổ kiêm trị (thường thời đầu phải công, thời kỳ sau phải bổ). Nhìn chung không kể sớm hay muộn đều phải chọn các vị thuốc kháng nham.
2.1. Biện chứng phương trị thời kỳ đầu:
2.2.1. Thể khí uất thấp khốn:
Ức uất thương can, can khí uất kết, uất lâu thương tỳ, thủy thấp lâu thương tỳ, thủy thấp nội đình uẩn kết xung nhâm dẫn đến bệnh. Nhìn chung hệ thống thần kinh trung ương thất điều, chức năng của hệ thần kinh thực vật bị rối loạn là chủ yếu, tình chí uất ức phiền táo; ngực, sườn chướng đầy, bất thử, tức nhiều, ăn kém (nạp ngại), đới hạ bất chỉ, đục hoặc hồng, mạch huyền; lưỡi hơi xám, rêu trắng mỏng hoặc vàng mỏng.
+ Phương pháp điều trị: Sơ can lý khí, lợi thấp giải độc.
+ Phương thuốc thường dùng: “tiêu giao tán” gia thêm: bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, sinh ý dĩ nhân, sơn đậu căn.
2.2.2. Thể khí - huyết ứ trệ:Tại chỗ tẩm thấm là chính thuộc kết hạch, triệu chứng toàn thân nghèo nàn, đa phần do quá tổn thương thất tình, uất nộ ưu tư, khí trệ huyết ứ lâu ngày thành kết, thường thấy đới hạ không nhiều cát hữu thấp hạ; tại chỗ bệnh lý cổ tử cung rắn chắc, mạch huyền hoặc tế, đầu lưỡi hoặc rìa lưỡi có ban điểm ứ huyết, rêu trắng mỏng.
- Pháp điều trị: hoạt huyết - hóa ứ, nhuyễn kiên - tán kết.
- Phương thuốc: “hoạt huyết kháng nham thang”, “kháng nham tán”.
Đương qui Trạch lan
Hổ trượng Ô dược
Bạch thược Xích thược
Hương phụ Đan sâm
Phục linh Trạch tả
Bạch mao đằng Bạch hoa xà thiệt thảo.
2.2.3. Thể thấp nhiệt ứ độc:Thấp uẩn hóa nhiệt, lâu mà kết độc, ứ trở bào lạc mà thành; đa phần ung thư cổ tử cung do viêm nhiễm, đới hạ lượng nhiều, vàng trắng xen lẫn chất dính có màu sắc như Socola; khí tắc nếu kiêm huyết ứ thành cục, lưng mỏi, bụng chướng đau, miệng khô đắng, tiểu vàng, đại tiện táo, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng dày nhờn, mạch huyền sác hoặc huyền hoạt sác.
- Phương điều trị: thanh nhiệt lợi thấp - giải độc hóa ứ.
- Phương thuốc: “bát chính tán hoá nhiệt”, “giải độc kháng nham thang”.
2.2. Thời kỳ sau:
2.2.1. Thể tỳ thận dương hư:
Lịch sử bất tiết, đa sản thương thân, xung nhâm khí - huyết trở trệ, nội kết ứ độc; bệnh lâu ngày đới hạ băng lậu tiêu hao nhất định, toàn thân suy kiệt.Lâm sàng phần nhiều đới hạ như nước, kinh nguyệt băng trung trọc hạ thần quyện (mệt mỏi, vận động khí đoản), tứ chi không ấm, nạp ngại tiện lỏng, niệu trong dài, mạch tế, lưỡi nhợt bệu mềm, rêu trắng mỏng nhờn.
- Phương pháp điều trị: Bổ thận kiện tỳ - ôn hóa thủy thấp - cố sáp chỉ đới.
- Phương thuốc: “Nội bổ hoàn”, “sâm linh bạch truật tán”, “kháng nham phù chính đan”, hoàng kỳ, khuẩn linh chi, ô tặc cốt, sao tây thảo căn, tử hà sa, a giao, giác phiêu giao, lộc giác xương, huyết dư thán, sinh mẫu lệ, tang phiêu tiêu.
2.2.2. Thể can thận âm hưDo thấp nhiệt uất kết, ứ độc trong cơ thể lâu ngày gây tổn thương phần âm, can thận hao tổn xuất hiện triệu chứng nhiễm độc. Lâm sàng thấy âm đạo xuất huyết không theo qui tắc, đới hạ vàng trắng, đầu choáng, tai ù, lưng đau mỏi, miệng khát, tự hãn (mồ hôi trộm), tiểu tiện sáp đau, đại tiện bí kết, lưỡi đỏ rêu sáng hoặc vàng nhờn, mạch tế sác, huyền tế sác.
- Phương pháp điều trị: tư dưỡng can thận - giải độc tán tích.
- Phương thuốc: “bổ trung ích khí thang” gia thêm thuốc kháng nham.
Giai đoạn sau của bệnh cổ tử cung nham diễn biến phức tạp, tà chính tương tranh, phải kết hợp công bổ kiêm trị, tham khảo thêm các bài thuốc nghiệm phương, để biện chứng luận trị. Nếu kết hợp xạ trị và hoá dược trị thì phải chú ý các biến chứng phụ thường gặp.
. Phản ứng trực tràng: Khi xạ trị nhiệt độc đều tổn thương trung tiêu thấp nhiệt trở trệ, tỳ hư khí nhược, huyết mất thống nhiếp.
. Phản ứng lúc đầu: Lỵ cấp hậu trọng ngày tới 10 lần hoặc hơn, phân lẫn niêm dịch hoặc ra máu tươi, có khi tiện lỏng như nước, lưỡi có gai hồng, rêu vàng nhờn, mạch tế sác. Điều trị phải thanh nhiệt - giải độc, kiện tỳ hóa thấp thường dùng “bạch đầu ông thang” gia vị, giai đoạn sau phải dùng “sinh mạch tán” hợp với “bạch đầu ông thang” gia vị (Bạch đầu ông, tần bì, hoàng liên, hoàng bá).
. Phản ứng bàng quang: Phải dùng “tri bá địa hoàng thang” gia thêm: biển xúc, mộc thông, sa tiền tử. Nếu niệu huyết phải hợp phương “Tiêu kế ẩm tử” hợp “nhị chí hoàn” (nữ trinh tử, hạn liên thảo).
. Biến chứng bạch cầu giảm:
Dương hư: Phải ôn thận kiện tỳ, ích khí dưỡng huyết; thường dùng “qui tỳ thang”, “bổ trung ích khí hoàn”, “du thang” (thục địa, đương qui, đẳng sâm, bạch thược, xuyên khung, hoàng kỳ).
Âm hư: Phải tư âm thanh nhiệt, ích khí sinh tân, thường dùng “tri bá địa hoàng thang” + “sâm mạch tán”.
Nếu tâm phiền, thất miên thì thêm: hoàng liên, bá tử nhân, dạ giao đằng, thủ ô đằng.Nếu tiểu đỏ đau thì thêm: đại kế, hoàng bá, ích nguyên tán; đại tiện táo thêm qua lâu nhân.
Là một loại thũng lưu ác tính có ở cơ quan sinh dục nữ giới. Đặc điểm lâm sàng thời kỳ đầu thường triệu chứng nghèo nàn, bệnh nhân thường không có cảm giác gì đặc biệt, chỉ khi thũng nham phát triển đến mức độ nhất định thì triệu chứng mới rõ, chủ yếu là bài xuất dịch ở âm đạo, sau kỳ kinh thấy âm đạo xuất huyết.
Thời kỳ đầu xuất huyết là do tiếp xúc, hoặc xuất huyết không theo qui tắc nào. Khi lượng máu mất nhiều, đau dữ dội, âm đạo ra máu liên tục là diễn biến nặng.
Hiện nay, theo YHHĐ điều trị bệnh này chủ yếu là dùng xạ trị hoặc hóa học trị liệu, thủ thuật trị liệu, hoặc là điều trị tổng hợp. Tuy nhiên, tất cả phương pháp trị liệu trên đều có phạm vi thích ứng nhất định và đều có phản ứng phụ của thuốc, bệnh nhân thường không muốn áp dụng.
1.1. Chẩn đoán theo YHHĐ: Ung thư cổ tử cung thời đầu khu trú ở lớp cơ, quan sát mắt thường không phân biệt được, cần phải khám phụ khoa kết hợp kiểm tra xét nghiệm toàn thân, xét nghiệm tế bào, sinh thiết, kiểm tra tổ chức học, soi âm đạo để chẩn đoán sớm, biết được phạm vi của khối u.
- Triệu chứng chủ yếu là âm đạo chảy máu, âm đạo xuất tiết dịch và đau nhức buốt, mức độ nặng hay nhẹ liên quan đến thời gian sớm hay muộn.
- Các thời kỳ lâm sàng: Tiêu chuẩn của Hội nghị phụ khoa Quốc tế, (1985) chia làm 4 thời kỳ:
. Giai đoạn 0: Nham nguyên vị tẩm thấm tiền nham.
. Giai đoạn I: Xác định sinh thiết (tổn thương phát triển đến thân tử cung).
. Giai đoạn II: Tổn thương vượt quá cổ tử cung lan đến <1/3 âm đạo.
. Giai đoạn III: U phát triển đến thành xương chậu (xâm phạm đến 1/3 âm đạo).
. Giai đoạn IV: U phát triển khắp tử cung và lan đến các cơ quan khác.
- Thời kỳ đầu thường có loét cổ tử cung: Ban đỏ kết thạch lồi ra hoặc loét nát. Dựa vào mức độ phát triển người ta chia làm 3 mức:
. Nhóm ngoài sinh dục, thể tự như dạng hoa.
. Nhóm trong sinh dục, nhóm kết hạch.
. Nhóm loét mụn.
1.2. Theo quan niệm YHCT:Bệnh cổ tử cung nham thường được mô tả trong các phạm trù, “băng lậu” “đới hạ” “tạp sắc đới”. Nguyên nhân chủ yếu là do 3 tạng: can, tỳ, thận bị tổn thương làm cho thấp nhiệt - nhiệt độc ngưng tụ ở bào cung. YHCT cho rằng: “ bệnh thuộc về bản hư, tiêu thực”.
Điều trị bệnh vừa phối hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng cao chức năng miễn dịch của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng nham, bảo tồn chức năng sinh dục và chức năng sinh lý bình thường của cơ thể. Ngoài ra, có thể phối hợp hóa trị liệu, xạ trị để giảm bớt tác dụng phụ, cải thiện chứng trạng, nâng cao hiệu qủa, kéo dài đời sống cho bệnh nhân.
Hiện nay, điều trị ung thư cổ tử cung phải dựa vào giai đoạn lâm sàng của YHHĐ với biện chứng luận trị Trung y.
Ví dụ: Thể “can thận âm hư” đa phần thuộc thấp nhiệt hạ trú, khí âm lưỡng thương; thể kết hạch đa phần thuộc khí trệ huyết ứ. Hiện nay, người ta dùng đơn thuần thuốc Trung dược có thể điều trị khỏi nham chứng trước khi có biến chứng di căn.
Muốn đạt hiệu quả phải kết hợp hóa trị liệu, phóng xạ trị liệu hoặc điều trị kết hợp với phẫu thuật, vận dụng thuốc thảo mộc có thể giảm được các biến chứng phản ứng của đại tràng ,bàng quang, trực tràng. Tuỳ theo từng thời kỳ mà vận dụng thuốc uống trong, thuốc dùng ngoài hay kết hợp cả hai.
2. Biện chứng luận trị:
+ Những điểm trọng yếu biện chứng:
Đặc điểm bệnh sinh của cổ tử cung nham là bản hư tiêu thực, hoặc hư thực phối hợp nhưng phần nhiều là chứng hư. Vì vậy phải bổ ích xung nhâm, bồi bổ can thận tỳ là phép tắc chủ yếu:
- Kiện tỳ ích khí, tư bổ can thận, phù dương cố thể (bản) chi pháp.
- Khí - huyết ứ trệ, nhiệt độc trệ lưu, hình thành tích tụ là tiêu thực.
- Ứng dụng lý khí hoạt huyết, hóa ứ nhuyễn kiên, trừ thấp giải độc, kháng nham tiêu lưu.
+ Về pháp điều trị:
Phải nắm vững tà chính thịnh – suy; chọn dùng trước công, sau bổ, công bổ kiêm trị (thường thời đầu phải công, thời kỳ sau phải bổ). Nhìn chung không kể sớm hay muộn đều phải chọn các vị thuốc kháng nham.
2.1. Biện chứng phương trị thời kỳ đầu:
2.2.1. Thể khí uất thấp khốn:
Ức uất thương can, can khí uất kết, uất lâu thương tỳ, thủy thấp lâu thương tỳ, thủy thấp nội đình uẩn kết xung nhâm dẫn đến bệnh. Nhìn chung hệ thống thần kinh trung ương thất điều, chức năng của hệ thần kinh thực vật bị rối loạn là chủ yếu, tình chí uất ức phiền táo; ngực, sườn chướng đầy, bất thử, tức nhiều, ăn kém (nạp ngại), đới hạ bất chỉ, đục hoặc hồng, mạch huyền; lưỡi hơi xám, rêu trắng mỏng hoặc vàng mỏng.
+ Phương pháp điều trị: Sơ can lý khí, lợi thấp giải độc.
+ Phương thuốc thường dùng: “tiêu giao tán” gia thêm: bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, sinh ý dĩ nhân, sơn đậu căn.
2.2.2. Thể khí - huyết ứ trệ:Tại chỗ tẩm thấm là chính thuộc kết hạch, triệu chứng toàn thân nghèo nàn, đa phần do quá tổn thương thất tình, uất nộ ưu tư, khí trệ huyết ứ lâu ngày thành kết, thường thấy đới hạ không nhiều cát hữu thấp hạ; tại chỗ bệnh lý cổ tử cung rắn chắc, mạch huyền hoặc tế, đầu lưỡi hoặc rìa lưỡi có ban điểm ứ huyết, rêu trắng mỏng.
- Pháp điều trị: hoạt huyết - hóa ứ, nhuyễn kiên - tán kết.
- Phương thuốc: “hoạt huyết kháng nham thang”, “kháng nham tán”.
Đương qui Trạch lan
Hổ trượng Ô dược
Bạch thược Xích thược
Hương phụ Đan sâm
Phục linh Trạch tả
Bạch mao đằng Bạch hoa xà thiệt thảo.
2.2.3. Thể thấp nhiệt ứ độc:Thấp uẩn hóa nhiệt, lâu mà kết độc, ứ trở bào lạc mà thành; đa phần ung thư cổ tử cung do viêm nhiễm, đới hạ lượng nhiều, vàng trắng xen lẫn chất dính có màu sắc như Socola; khí tắc nếu kiêm huyết ứ thành cục, lưng mỏi, bụng chướng đau, miệng khô đắng, tiểu vàng, đại tiện táo, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng dày nhờn, mạch huyền sác hoặc huyền hoạt sác.
- Phương điều trị: thanh nhiệt lợi thấp - giải độc hóa ứ.
- Phương thuốc: “bát chính tán hoá nhiệt”, “giải độc kháng nham thang”.
2.2. Thời kỳ sau:
2.2.1. Thể tỳ thận dương hư:
Lịch sử bất tiết, đa sản thương thân, xung nhâm khí - huyết trở trệ, nội kết ứ độc; bệnh lâu ngày đới hạ băng lậu tiêu hao nhất định, toàn thân suy kiệt.Lâm sàng phần nhiều đới hạ như nước, kinh nguyệt băng trung trọc hạ thần quyện (mệt mỏi, vận động khí đoản), tứ chi không ấm, nạp ngại tiện lỏng, niệu trong dài, mạch tế, lưỡi nhợt bệu mềm, rêu trắng mỏng nhờn.
- Phương pháp điều trị: Bổ thận kiện tỳ - ôn hóa thủy thấp - cố sáp chỉ đới.
- Phương thuốc: “Nội bổ hoàn”, “sâm linh bạch truật tán”, “kháng nham phù chính đan”, hoàng kỳ, khuẩn linh chi, ô tặc cốt, sao tây thảo căn, tử hà sa, a giao, giác phiêu giao, lộc giác xương, huyết dư thán, sinh mẫu lệ, tang phiêu tiêu.
2.2.2. Thể can thận âm hưDo thấp nhiệt uất kết, ứ độc trong cơ thể lâu ngày gây tổn thương phần âm, can thận hao tổn xuất hiện triệu chứng nhiễm độc. Lâm sàng thấy âm đạo xuất huyết không theo qui tắc, đới hạ vàng trắng, đầu choáng, tai ù, lưng đau mỏi, miệng khát, tự hãn (mồ hôi trộm), tiểu tiện sáp đau, đại tiện bí kết, lưỡi đỏ rêu sáng hoặc vàng nhờn, mạch tế sác, huyền tế sác.
- Phương pháp điều trị: tư dưỡng can thận - giải độc tán tích.
- Phương thuốc: “bổ trung ích khí thang” gia thêm thuốc kháng nham.
Giai đoạn sau của bệnh cổ tử cung nham diễn biến phức tạp, tà chính tương tranh, phải kết hợp công bổ kiêm trị, tham khảo thêm các bài thuốc nghiệm phương, để biện chứng luận trị. Nếu kết hợp xạ trị và hoá dược trị thì phải chú ý các biến chứng phụ thường gặp.
. Phản ứng trực tràng: Khi xạ trị nhiệt độc đều tổn thương trung tiêu thấp nhiệt trở trệ, tỳ hư khí nhược, huyết mất thống nhiếp.
. Phản ứng lúc đầu: Lỵ cấp hậu trọng ngày tới 10 lần hoặc hơn, phân lẫn niêm dịch hoặc ra máu tươi, có khi tiện lỏng như nước, lưỡi có gai hồng, rêu vàng nhờn, mạch tế sác. Điều trị phải thanh nhiệt - giải độc, kiện tỳ hóa thấp thường dùng “bạch đầu ông thang” gia vị, giai đoạn sau phải dùng “sinh mạch tán” hợp với “bạch đầu ông thang” gia vị (Bạch đầu ông, tần bì, hoàng liên, hoàng bá).
. Phản ứng bàng quang: Phải dùng “tri bá địa hoàng thang” gia thêm: biển xúc, mộc thông, sa tiền tử. Nếu niệu huyết phải hợp phương “Tiêu kế ẩm tử” hợp “nhị chí hoàn” (nữ trinh tử, hạn liên thảo).
. Biến chứng bạch cầu giảm:
Dương hư: Phải ôn thận kiện tỳ, ích khí dưỡng huyết; thường dùng “qui tỳ thang”, “bổ trung ích khí hoàn”, “du thang” (thục địa, đương qui, đẳng sâm, bạch thược, xuyên khung, hoàng kỳ).
Âm hư: Phải tư âm thanh nhiệt, ích khí sinh tân, thường dùng “tri bá địa hoàng thang” + “sâm mạch tán”.
Nếu tâm phiền, thất miên thì thêm: hoàng liên, bá tử nhân, dạ giao đằng, thủ ô đằng.Nếu tiểu đỏ đau thì thêm: đại kế, hoàng bá, ích nguyên tán; đại tiện táo thêm qua lâu nhân.
Bì phu nham (ung thư da)
1. Đại cương:
Ung thư da là một bệnh thũng lưu ác tính ở biểu bì.
Bệnh thường dễ phát hiện, cho nên có lợi cho dự phòng và điều trị sớm. Sau điều trị thường kéo dài đời sống 5 năm trở lên khoảng 90%. Gần đây, người ta cho rằng : bệnh thường khởi phát từ bệnh da mãn tính: bệnh sắc tố da khô hoặc là loét da lâu liền và những yếu tố kích thích hóa học, lý học. Điều kiện thuận lợi là bệnh nhân tiếp xúc với:Tia phóng xạ,tia tử ngoại,tia X...
- YHCT thường mô tả ung thư da thuộc các phạm trù "Thạch đinh, nhũ can, thạch can".
Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất, thấp trọc trở ở cơ phu lâu ngày sẽ tổn thương khí - huyết, cơ phu mất nuôi dưỡng mà dẫn đến bệnh.
2. Biện chứng luận trị về thể bệnh:
Theo biện chứng luận trị Đông y, chủ yếu là vận dụng thuốc hoạt huyết - hóa ứ, thuốc lợi thấp - giải độc, thuốc ích khí - huyết; quan trọng là phải chọn dùng các phương thuốc điều trị có hiệu qủa.
2.1. Thể can uất huyết ứ:Biểu hiện lâm sàng là da nổi cục, rắn; sau khi vỡ loét thì khô liền miệng, xung quanh bờ nổi cộm, sắc hồng xám. Bệnh tính cấp táo, bệnh nhân dễ giận dữ, cáu gắt, ngực sườn chướng đau, rêu lưỡi trắng hoặc là vàng mỏng, chất lưỡi có điểm ban ứ huyết, mạch huyền hơi hoạt.
- Pháp điều trị: Sơ can - lý khí - thông kinh - hoạt lạc - hóa ứ - tán kết.
- Phương thuốc:
Sài hồ 15g Hậu phác 10g
Nga truật 10g Tử thảo 9g
Xà mẫu 15g Uất kim 15g
Ty qua lạc 10g Tam lăng 10g
Hương phụ 15g Hồng hoa 10g
Xích thược 10g Xuyên luyện tử 15g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30 - 40g
2.2. Thể thấp độc:Biểu hiện lâm sàng: tổn thương da thành bờ cộm lở loét nhưng khô dính, người gầy gò, vô lực, đại tiện nát, hay chảy nước mũi và tắc mũi, mạch hoạt sác, chất lưỡi hồng xám, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày nhờn.
- Pháp điều trị: giải độc lợi thấp, khư ứ tiêu thũng.
- Bài thuốc:
Thổ phục linh 30g Khổ sâm 15g
Đan bì 15g Phượng vỹ thảo 30g
Địa long 15g Thanh đại diệp 9g
Tử thảo căn 30g Cương tàm 15g
Trư linh 30g.
2.3. Thể tỳ hư:Hòn khối rắn lồi trên mặt da, tổn thương da bị loét trợt, chung quanh lồi cao, rắn, xơ như dạng hoa, sờ có máu. Toàn thân mệt mỏi, ăn kém, vô lực, gầy gò, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoãn.
- Phương trị: Lấy kiện tỳ lợi thấp - nhuyễn kiên hóa đàm.
- Phương thuốc:
Bạch truật 10g Biển đậu 10g
Trư linh 10g Thổ phục linh 30g
Hạ khô thảo 10g Thảo hà sa 10g
Bạch cương tàm 10g Hoài sơn dược 15g
Qua lâu 10g Sinh ý dĩ nhân 10g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30g.
Ung thư da là một bệnh thũng lưu ác tính ở biểu bì.
Bệnh thường dễ phát hiện, cho nên có lợi cho dự phòng và điều trị sớm. Sau điều trị thường kéo dài đời sống 5 năm trở lên khoảng 90%. Gần đây, người ta cho rằng : bệnh thường khởi phát từ bệnh da mãn tính: bệnh sắc tố da khô hoặc là loét da lâu liền và những yếu tố kích thích hóa học, lý học. Điều kiện thuận lợi là bệnh nhân tiếp xúc với:Tia phóng xạ,tia tử ngoại,tia X...
- YHCT thường mô tả ung thư da thuộc các phạm trù "Thạch đinh, nhũ can, thạch can".
Bì phu nham phát sinh và phát triển chủ yếu là do hỏa độc ngoại xâm tỳ trệ mất kiện vận, thấp trọc nội sinh dẫn đến khí trệ hỏa uất, thấp trọc trở ở cơ phu lâu ngày sẽ tổn thương khí - huyết, cơ phu mất nuôi dưỡng mà dẫn đến bệnh.
2. Biện chứng luận trị về thể bệnh:
Theo biện chứng luận trị Đông y, chủ yếu là vận dụng thuốc hoạt huyết - hóa ứ, thuốc lợi thấp - giải độc, thuốc ích khí - huyết; quan trọng là phải chọn dùng các phương thuốc điều trị có hiệu qủa.
2.1. Thể can uất huyết ứ:Biểu hiện lâm sàng là da nổi cục, rắn; sau khi vỡ loét thì khô liền miệng, xung quanh bờ nổi cộm, sắc hồng xám. Bệnh tính cấp táo, bệnh nhân dễ giận dữ, cáu gắt, ngực sườn chướng đau, rêu lưỡi trắng hoặc là vàng mỏng, chất lưỡi có điểm ban ứ huyết, mạch huyền hơi hoạt.
- Pháp điều trị: Sơ can - lý khí - thông kinh - hoạt lạc - hóa ứ - tán kết.
- Phương thuốc:
Sài hồ 15g Hậu phác 10g
Nga truật 10g Tử thảo 9g
Xà mẫu 15g Uất kim 15g
Ty qua lạc 10g Tam lăng 10g
Hương phụ 15g Hồng hoa 10g
Xích thược 10g Xuyên luyện tử 15g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30 - 40g
2.2. Thể thấp độc:Biểu hiện lâm sàng: tổn thương da thành bờ cộm lở loét nhưng khô dính, người gầy gò, vô lực, đại tiện nát, hay chảy nước mũi và tắc mũi, mạch hoạt sác, chất lưỡi hồng xám, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày nhờn.
- Pháp điều trị: giải độc lợi thấp, khư ứ tiêu thũng.
- Bài thuốc:
Thổ phục linh 30g Khổ sâm 15g
Đan bì 15g Phượng vỹ thảo 30g
Địa long 15g Thanh đại diệp 9g
Tử thảo căn 30g Cương tàm 15g
Trư linh 30g.
2.3. Thể tỳ hư:Hòn khối rắn lồi trên mặt da, tổn thương da bị loét trợt, chung quanh lồi cao, rắn, xơ như dạng hoa, sờ có máu. Toàn thân mệt mỏi, ăn kém, vô lực, gầy gò, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoãn.
- Phương trị: Lấy kiện tỳ lợi thấp - nhuyễn kiên hóa đàm.
- Phương thuốc:
Bạch truật 10g Biển đậu 10g
Trư linh 10g Thổ phục linh 30g
Hạ khô thảo 10g Thảo hà sa 10g
Bạch cương tàm 10g Hoài sơn dược 15g
Qua lâu 10g Sinh ý dĩ nhân 10g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30g.
Vị nham (ung thư dạ dày)
1.Đại cương:
Vị nham là một loại u ác tính, phát sinh ở lớp tuyến thượng bì của niêm mạc dạ dày.
Đặc điểm lâm sàng: ở thời kỳ đầu thường là triệu chứng và thể bệnh không rõ ràng; ở thời kỳ giữa thường xuất hiện đầy đủ các triệu chứng, do vị trí dạ dày không cố định, di chuyển nhiều cho nên triệu chứng lâm sàng cũng khác nhau theo vị trí.
Điều trị có những khó khăn nhất định. Hiện nay YHHĐ phần nhiều xử trí bằng phẫu thuật thì có thể ổn định về lâm sàng 90%; ở thời kỳ giữa sau phẫu thuật cần phải phối hợp với hóa chất hoặc phóng xạ trị liệu. Tuy nhiên những phương pháp này đều có chống chỉ định và có tác dụng phụ nhất định.
Quan điểm YHCT thường mô tả vị nham trong các phạm trù “Vị quản thống, tích tụ...”.
Bản chất bệnh thuộc về bản hư tiêu thực, phương pháp trị liệu thường phải kết hợp chặt chẽ giữa phù chính với trừ tà, nhằm kéo dài đời sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Việc phối hợp dùng thuốc thảo mộc với phương pháp điều trị bằng hóa chất chẳng những nâng cao hiệu qủa điều trị mà còn giảm được nhiều tác dụng phụ do hóa chất gây nên, nâng cao công năng tạng phủ, công năng miễn dịch của cơ thể và nâng cao hiệu qủa điều trị.
2. Biện chứng luận trị:
2.1. Những điểm chú ý trong biện chứng:
Đặc điểm của bệnh vị nham là “ Bản hư tiêu thực”. Tuỳ theo sự phát triển của bệnh có thể dẫn hư đến thực hoặc nhận thực dẫn đến hư hoặc hư - thực thác tạp. Trên lâm sàng không đơn thuần ở một thể hư chứng hay thực chứng. Khi điều trị, nguyên tắc cơ bản là phù chính - trừ tà hỗ tương kết hợp.
- Phù chính bao gồm: Kiện tỳ hòa vị, tu bổ can thận, bổ ích khí - huyết.
- Trừ tà bao gồm: Thanh nhiệt - giải độc, nhuyễn kiên tán kết, hoạt huyết hóa ứ.
Cần vận dụng linh hoạt hoặc bổ hư là chủ, phối hợp thêm 1 số thuốc trừ tà; hoặc trừ tà là chủ và chọn dùng thêm một số thuốc bổ hư, phù chính hoặc là tiêu bản đồng trị.
2.2. Biện chứng và phương pháp điều trị :
2.2.1. Can vị bất hòa:
Hay gặp ở vị nham giai đoạn I và giai đoạn II (thời kỳ sớm). Vị quản khi đau, khi chướng đầy, khí uất bất thư tắc đông thống nặng thêm, chất lưỡi nhợt hồng, rêu lưỡi bạc trắng, mạch trầm huyền hoặc huyền tế.
- Phương pháp điều trị: Sơ can hòa vị, giáng nghịch chỉ thống.
- Phương thuốc thường dùng: “Sài hồ thư can thang” hợp “bình vị tán” gia giảm.
2.2.2. Tỳ vị hư hàn:
Gặp ở vị nham, giai đoạn I,II. Vị quản đau âm ỉ liên tục, thích ấm, thiện án, đói thì đau nặng, hơi sốt, ăn kém, có khi nôn ra nước trong, gầy gò vô lực, nặng thì tay chân lạnh hoặc đại tiện nát, lưỡi bệu nhợt có hằn răng, mạch hư nhược hoặc trì hoãn.
- Phương trị: Ôn trung kiện tỳ.
- Phương thuốc: “Hoàng kỳ kiến trung thang”.
Nếu như hàn nặng, đau kịch liệt, bụng lạnh, nôn mửa có thể dùng “đại kiến trung thang” hoặc “lý trung hoàn”. Sau khi đau giảm có thể dùng “hương sa lục quân” để điều lý.
2.2.3. Nội trở độc ứ:Thường gặp ở vị nham giai đoạn III, IV. Vị quản đau chói, hạ tâm hòn khối (bĩ) ấn đau hoặc nôn ra máu, đại tiện sắc đen, da khô sác, chất lưỡi xám tía hoặc có ban điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi căng đầy máu xám tía, mạch trầm tế hoặc sáp.
- Phương trị: Giải độc hóa ứ.
- Phương thuốc: Hợp phương “thất tiếu tán” và “đan sâm ẩm” gia giảm. Nếu chính khí bất túc có thể dùng “ điều doanh liễm can ẩm” gia giảm.
2.2.4. Vị âm hao hư:Thường gặp ở vị nham thời kỳ muộn. Vị quản đau, miệng khô lưỡi ráo, sau khi ăn thì đau nặng hơn, đại tiện khô táo, lưỡi đỏ ít tân, mạch tế sác.
- Phương trị: dưỡng âm tư vị.
- Phương thuốc: Hợp phương “nhất quán tiễn” và “thược dược cam thảo thang” gia giảm.
2.2.5. Khí - huyết song hư:Thường gặp ở vị nham thời kỳ muộn, tổn thương phạm vi rộng (đau lan tỏa). Vị quản đau kịch liệt, hình thể gày gò, diện sắc vô hoa; má, mắt và mặt hư thũng, toàn thân vô lực, tâm quí khí đoản, đầu choáng, mắt hoa, ăn ít, không muốn ăn, thượng vị hòn khối, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế vô lực hoặc kết hư đại.
- Phương trị: bổ khí dưỡng huyết.
- Phương thuốc: “Bát chân thang” hoặc “thập toàn đại bổ ” gia giảm.
2.3. Biện chứng về pháp điều trị giai đoạn phản vị:
2.3.1. Tỳ vị hư hàn:
Sau khi ăn, quản phúc chướng đầy, buồn nôn hoặc nôn mửa; khi nôn thì dễ chịu, gầy gò vô lực, diện sắc thiểu hoa, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế vô lực.
- Phương trị: kiện tỳ hòa vị, ôn dương tán hàn.
- Phương thuốc: đinh hương thấu cách tán gia giảm.
2.3.2. Tỳ thận dương hư:Ăn vào là nôn, không ăn được, sắc mặt xám trắng, tứ chi lạnh, lưỡi nhợt rêu trắng, mạch trầm tế.
- Phương trị: Ôn bổ tỳ thận.
- Phương thuốc: “Phụ tử lý trung (thang) hoàn” gia thêm: ngô thù du, đinh hương, nhục quế (sau phẫu thuật K dạ dày). Nếu có triệu chứng nôn (phản vị) cũng điều trị như trên. Điều trị sau phẫu thuật K dạ dày thường chú ý:
. Kiện tỳ hoà vị: Dùng “lục quân tứ thang” gia vị, có thể dùng sau hoặc kết hợp với hóa trị liệu để điều trị K dạ dày.
. Ích khí kiện tỳ dưỡng bổ can thận, thuốc “bát chân thang” gia giảm.
Vị nham là một loại u ác tính, phát sinh ở lớp tuyến thượng bì của niêm mạc dạ dày.
Đặc điểm lâm sàng: ở thời kỳ đầu thường là triệu chứng và thể bệnh không rõ ràng; ở thời kỳ giữa thường xuất hiện đầy đủ các triệu chứng, do vị trí dạ dày không cố định, di chuyển nhiều cho nên triệu chứng lâm sàng cũng khác nhau theo vị trí.
Điều trị có những khó khăn nhất định. Hiện nay YHHĐ phần nhiều xử trí bằng phẫu thuật thì có thể ổn định về lâm sàng 90%; ở thời kỳ giữa sau phẫu thuật cần phải phối hợp với hóa chất hoặc phóng xạ trị liệu. Tuy nhiên những phương pháp này đều có chống chỉ định và có tác dụng phụ nhất định.
Quan điểm YHCT thường mô tả vị nham trong các phạm trù “Vị quản thống, tích tụ...”.
Bản chất bệnh thuộc về bản hư tiêu thực, phương pháp trị liệu thường phải kết hợp chặt chẽ giữa phù chính với trừ tà, nhằm kéo dài đời sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Việc phối hợp dùng thuốc thảo mộc với phương pháp điều trị bằng hóa chất chẳng những nâng cao hiệu qủa điều trị mà còn giảm được nhiều tác dụng phụ do hóa chất gây nên, nâng cao công năng tạng phủ, công năng miễn dịch của cơ thể và nâng cao hiệu qủa điều trị.
2. Biện chứng luận trị:
2.1. Những điểm chú ý trong biện chứng:
Đặc điểm của bệnh vị nham là “ Bản hư tiêu thực”. Tuỳ theo sự phát triển của bệnh có thể dẫn hư đến thực hoặc nhận thực dẫn đến hư hoặc hư - thực thác tạp. Trên lâm sàng không đơn thuần ở một thể hư chứng hay thực chứng. Khi điều trị, nguyên tắc cơ bản là phù chính - trừ tà hỗ tương kết hợp.
- Phù chính bao gồm: Kiện tỳ hòa vị, tu bổ can thận, bổ ích khí - huyết.
- Trừ tà bao gồm: Thanh nhiệt - giải độc, nhuyễn kiên tán kết, hoạt huyết hóa ứ.
Cần vận dụng linh hoạt hoặc bổ hư là chủ, phối hợp thêm 1 số thuốc trừ tà; hoặc trừ tà là chủ và chọn dùng thêm một số thuốc bổ hư, phù chính hoặc là tiêu bản đồng trị.
2.2. Biện chứng và phương pháp điều trị :
2.2.1. Can vị bất hòa:
Hay gặp ở vị nham giai đoạn I và giai đoạn II (thời kỳ sớm). Vị quản khi đau, khi chướng đầy, khí uất bất thư tắc đông thống nặng thêm, chất lưỡi nhợt hồng, rêu lưỡi bạc trắng, mạch trầm huyền hoặc huyền tế.
- Phương pháp điều trị: Sơ can hòa vị, giáng nghịch chỉ thống.
- Phương thuốc thường dùng: “Sài hồ thư can thang” hợp “bình vị tán” gia giảm.
2.2.2. Tỳ vị hư hàn:
Gặp ở vị nham, giai đoạn I,II. Vị quản đau âm ỉ liên tục, thích ấm, thiện án, đói thì đau nặng, hơi sốt, ăn kém, có khi nôn ra nước trong, gầy gò vô lực, nặng thì tay chân lạnh hoặc đại tiện nát, lưỡi bệu nhợt có hằn răng, mạch hư nhược hoặc trì hoãn.
- Phương trị: Ôn trung kiện tỳ.
- Phương thuốc: “Hoàng kỳ kiến trung thang”.
Nếu như hàn nặng, đau kịch liệt, bụng lạnh, nôn mửa có thể dùng “đại kiến trung thang” hoặc “lý trung hoàn”. Sau khi đau giảm có thể dùng “hương sa lục quân” để điều lý.
2.2.3. Nội trở độc ứ:Thường gặp ở vị nham giai đoạn III, IV. Vị quản đau chói, hạ tâm hòn khối (bĩ) ấn đau hoặc nôn ra máu, đại tiện sắc đen, da khô sác, chất lưỡi xám tía hoặc có ban điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi căng đầy máu xám tía, mạch trầm tế hoặc sáp.
- Phương trị: Giải độc hóa ứ.
- Phương thuốc: Hợp phương “thất tiếu tán” và “đan sâm ẩm” gia giảm. Nếu chính khí bất túc có thể dùng “ điều doanh liễm can ẩm” gia giảm.
2.2.4. Vị âm hao hư:Thường gặp ở vị nham thời kỳ muộn. Vị quản đau, miệng khô lưỡi ráo, sau khi ăn thì đau nặng hơn, đại tiện khô táo, lưỡi đỏ ít tân, mạch tế sác.
- Phương trị: dưỡng âm tư vị.
- Phương thuốc: Hợp phương “nhất quán tiễn” và “thược dược cam thảo thang” gia giảm.
2.2.5. Khí - huyết song hư:Thường gặp ở vị nham thời kỳ muộn, tổn thương phạm vi rộng (đau lan tỏa). Vị quản đau kịch liệt, hình thể gày gò, diện sắc vô hoa; má, mắt và mặt hư thũng, toàn thân vô lực, tâm quí khí đoản, đầu choáng, mắt hoa, ăn ít, không muốn ăn, thượng vị hòn khối, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế vô lực hoặc kết hư đại.
- Phương trị: bổ khí dưỡng huyết.
- Phương thuốc: “Bát chân thang” hoặc “thập toàn đại bổ ” gia giảm.
2.3. Biện chứng về pháp điều trị giai đoạn phản vị:
2.3.1. Tỳ vị hư hàn:
Sau khi ăn, quản phúc chướng đầy, buồn nôn hoặc nôn mửa; khi nôn thì dễ chịu, gầy gò vô lực, diện sắc thiểu hoa, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế vô lực.
- Phương trị: kiện tỳ hòa vị, ôn dương tán hàn.
- Phương thuốc: đinh hương thấu cách tán gia giảm.
2.3.2. Tỳ thận dương hư:Ăn vào là nôn, không ăn được, sắc mặt xám trắng, tứ chi lạnh, lưỡi nhợt rêu trắng, mạch trầm tế.
- Phương trị: Ôn bổ tỳ thận.
- Phương thuốc: “Phụ tử lý trung (thang) hoàn” gia thêm: ngô thù du, đinh hương, nhục quế (sau phẫu thuật K dạ dày). Nếu có triệu chứng nôn (phản vị) cũng điều trị như trên. Điều trị sau phẫu thuật K dạ dày thường chú ý:
. Kiện tỳ hoà vị: Dùng “lục quân tứ thang” gia vị, có thể dùng sau hoặc kết hợp với hóa trị liệu để điều trị K dạ dày.
. Ích khí kiện tỳ dưỡng bổ can thận, thuốc “bát chân thang” gia giảm.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)