Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

PHƯƠNG PHÁP CHÂM LOA TAI (NHĨ CHÂM)

Mục tiêu
1. Trình bày được cơ sở lý luận của phương pháp nhĩ châm.
2. Liệt kê đầy đủ những thay đổi bệnh lý ở loa tai khi cơ thể có bệnh và cách phát hiện.
3. Xác định được các phân vùng ở loa tai.
4. Trình bày được kỹ thuật châm cứu trên loa tai.
5. Nêu được những chỉ định, chống chỉ định, những tai biến và cách xử lý.
I. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển nhĩ châm
Nhĩ châm là một di sản quý báu trong châm cứu học cổ truyền của nhân loại. Nó có nguồn gốc rất xa xưa từ lối chữa bệnh dân gian của nhiều dân tộc thuộc vùng Địa trung hải vào thời đại văn minh cổ đại Ai Cập, đồng thời cũng được nêu lên trong kho tàng y học cổ truyền Đông phương.
A. Nhĩ châm và y học cổ truyền phương tây
1. Ai Cập thời cổ đại
ở thời kỳ này có đề cập đến việc gây tuyệt sản ở phụ nữ bằng cách châm trên loa tai.
2. Thế kỷ IV trước Công nguyên (Hippocrate)
Trong sách bàn về sự sinh sản có nêu: “Những người để cho chích bên cạnh tai, lúc giao hợp vẫn phóng tinh, song tinh dịch chỉ có ít tinh trùng, nên không có tác dụng làm thụ thai.
Trong sách Bàn về dịch tễ có nêu: “Đối với các chứng sung huyết tại các bộ phận ở phía dưới thì mở các tĩnh mạch ở tai”.
Tại Nhật Bản người ta có áp dụng phương pháp làm bỏng loa tai để trị một số bệnh. Và theo BS. P. Nogier, có thể người Nhật Bản đã học từ người Ba Tư.
3. Thế kỷ XVII
Năm 1637, trong cuốn Những thành tích kỳ lạ của Zacutus, tác giả Lusitanus (Bồ Đào Nha) đã đề cao lợi ích của việc dí bỏng loa tai để chữa chứng đau Thần kinh hông. Chính tác giả đã chứng kiến một người bạn là một nhà quý tộc được chữa trị bằng phương pháp nêu trên bởi một thầy lang cư trú lâu năm ở Nhật Bản. Thầy lang đã dùng một cành nho đã đốt cháy ở đầu để dí bỏng loa tai của nhà quý tộc. Việc này được lặp đi lặp lại trong 2 giờ. Hai ngày sau, tại chỗ bỏng, thanh dịch chảy ra và tới ngày thứ 20 thì bệnh khỏi. Tác giả cũng nêu lên những thành công của mình trong việc áp dụng phương pháp này cho một số trường hợp đau đầu và một số chứng sung huyết khác.
4. Thế kỷ XVIII
Năm 1717, trong cuốn Bàn về tai con người, Valsava đã miêu tả cùng một lúc trên cùng một bản vẽ của loa tai, giải phẫu các dây Thần kinh, các động mạch và một phần tĩnh mạch của loa tai. ông khu trú được nhánh của dây Thần kinh tai to (N. auricularis major) tại mặt phía sau của loa tai, là nơi mà người ta đã đốt nhẹ vào đó để chữa đau răng. ông hướng dẫn kỹ thuật thích hợp để có thể đạt được tác dụng trị liệu mà không làm bỏng tới sụn. ông cũng mô tả chính xác vùng cần đốt để chữa đau răng khác hẳn với vùng vẫn dùng chữa đau Thần kinh hông. Như vậy, đã xuất hiện sự khơi mào cho việc biểu diễn trên loa tai những vùng đại diện cho các bộ phận khác nhau của cả cơ thể (dù còn đơn giản). Có thể nói, cho đến thời điểm này, thủ thuật điều trị trên loa tai chủ yếu là dí bỏng và rạch cho ra máu.
5. Thế kỷ XIX
Năm 1810, Giáo sư Ignaz Colla (Parma - ý) thông báo về một ca liệt nhẹ chân nhất thời sau khi bị ong đốt ở vùng đối luân.
Giữa thế kỷ XIX, xuất hiện nhiều công trình trên các tạp chí y học của Pháp về vấn đề dí bỏng loa tai chữa chứng đau Thần kinh hông, đau Thần kinh mắt, đau răng (công trình của BS. Lucciana về đốt bỏng rễ luân chữa triệt để chứng đau Thần kinh hông trong tạp chí “Tạp chí các kiến thức nội - ngoại khoa “ số 9, năm 1850). Malgaigne, một thầy thuốc nổi tiếng lúc bấy giờ của bệnh viện Saint Louis kết luận như sau: “Theo dõi các trường hợp đau Thần kinh hông chữa theo cách dí bỏng loa tai thì có 1/3 trường hợp khỏi hẳn ngay sau buổi chữa đầu tiên; 1/3 khác giảm đau hoặc hết đau lúc chữa, đau trở lại sau 2,4, 6 hoặc 24 giờ; số ca còn lại không có kết quả”.
Sau thời kỳ này, người ta đã thảo luận sôi nổi về cơ chế tác dụng của thuật chữa bệnh dân gian này và đã có nhiều ý kiến nghi ngờ, bài xích (trong đó phải nói đến sự phủ định của nhà bác học nổi tiếng đương thời Duchenne de Boulogne). Giai đoạn này, nhĩ châm đã bị giới y học chính thống của châu âu vứt bỏ không thương tiếc, làm cho nó suýt bị chôn vùi trong dĩ vãng, nếu như không có những thầy thuốc dân gian tiếp tục sử dụng có hiệu quả cho bệnh nhân, nhất là nông dân, khỏi chứng đau Thần kinh hông khiến cho những nhà nghiên cứu sau này phải nghiêm túc xem xét lại.
6. Thế kỷ XX
Năm 1950, BS. P. Nogier (Toulon, Pháp) trong lúc khám và chữa bệnh theo cách xoa bóp và nắn cột sống (vertebrotherapie) đã quan tâm đến các vết sẹo đặc biệt trên loa tai của một số bệnh nhân (có nguồn gốc từ cách chữa dân gian nêu trên). ông đã thử áp dụng và thấy có kết quả, sau đó ông cũng tìm cách thay đổi việc dí bỏng bằng các mũi châm và cũng đạt được kết quả tương tự.
Bằng sự lao động miệt mài của một Nhà khoa học, với việc quan sát tỷ mỉ, với nhiều thí nghiệm trên nhiều loại đau, với ý định xây dựng một phản xạ liệu pháp theo kiểu kích thích xoang mũi như Bonnie (thất bại cũng nhiều). ông đã lần hồi xây dựng được bản đồ đầu tiên về các khu vực và các huyệt loa tai, phản ánh thân thể con người trên loa tai. Nhĩ châm hiện đại ra đời từ đây.
Tuy nhiên, sự ra đời của nhĩ châm hiện đại cũng rất ồn ào (kể từ tháng 2/1956 khi Nogier giới thiệu phát minh của mình độc lập hoàn toàn với châm cứu học cổ truyền tại Hội nghị lần thứ I của Hội Châm cứu Địa trung hải) với rất nhiều tranh cãi. GS. Vogralick giới thiệu ngay phép điều trị đặc sắc này trong cuốn Cơ sở của châm cứu học xuất bản năm 1960 tại Liên Xô cũ. BS.
Quaglia Santa (Turin-ý), một chuyên gia nghiên cứu châm cứu học theo góc độ Thần kinh, sau khi “phán xét” bản đồ định khu trên loa tai và bản đồ nội tạng định khu trên loa tai đã kết luận: “Trong hiện trạng về các kiến thức của chúng ta, nếu như chúng ta chưa thể đưa ra các bằng chứng để chứng minh cho tính đặc thù mà Nogier nêu lên, chúng ta lại ít được quyền để khước từ nó”.
Sau năm 1962, một trường phái nhĩ châm mới được hình thành “Nhĩ châm theo Nogier”và được áp dụng ở nhiều nước châu âu.
B. NHĩ CHâM Và Y HọC Cổ TRUYềN ĐôNG PHươNG
Nhĩ châm là phương pháp trị liệu có cơ sở lý luận được đề cập trong các tài liệu kinh điển và cũng được ghi nhận bởi các y gia từ thời cổ đại.
Trong những tài liệu Nội kinh và Nạn kinh, có nhiều đoạn kinh văn ghi chép về mối quan hệ giữa tai và toàn thân thông qua hệ thống kinh lạc, thể hiện tai không phải là một khí quan cô lập mà có quan hệ mật thiết với toàn thân, với lục phủ ngũ tạng.
− Biển Thước(thế kỷ IV trước Công nguyên): dạy chữa mắt mờ đục bằng cách cứu huyệt nhĩ tiêm nhiều lần. Biển Thước đã dùng châm tre châm vào loa tai 3 lần để cứu sống Quắc Thái tử.
− Trương Trọng Cảnh (đời nhà Hán, thế kỷ II trước Công nguyên): đã dùng nước hẹ đổ vào lỗ tai để cứu người bị chết đột ngột.
− Hoàng Phủ Bật (215 - 282): ghi lại 20 huyệt ở trước và sau loa tai, với huyệt nhĩ trung ngay chính giữa loa tai, trong cuốn Châm cứu Giáp ất kinh
− Cát Hồng (281 - 340): dùng phương pháp kích thích tai để cấp cứu hồi sinh cho một số trường hợp, đồng thời cũng là người sáng lập ra thuật thổi không khí và thuốc bột vào lỗ tai để chữa bệnh.
− Trần Tạng Khí (nhà Đường): có nêu cách dùng xác rắn lột nút hai lỗ tai chữa sốt rét trong bộ sách y học Chỉ nam ngược phương.
− Tôn Tự Mạo (581 - 682): châm huyệt nhĩ trung chữa bệnh vàng da, cứu huyệt dương duy ở mặt sau tai, chữa điếc và ù tai.
− Sách Vệ sinh bảo giám đời nhà Nguyên dạy cứu tĩnh mạch sau tai chữa trẻ em kinh phong.
− Dương Kế Châu (tác giả Châm cứu đại thành - đời nhà Minh): cứu nhĩ tiêm chữa vẩy cá giác mạc.
Tại vùng nông thôn Trung Quốc cũng như ở miền núi Việt Nam còn lưu truyền nhiều cách chữa dân gian bằng loa tai như: châm vào dái tai chữa bệnh đau mắt đỏ; dùng mảnh sành rạch nông trên loa tai chữa đau sườn, tiêu chảy.
C. TìNH HìNH NHĩ CHâM HIệN NAY
1. Tại châu âu
Từ năm 1962, khi trường phái nhĩ châm Nogier ra đời đã tập hợp được nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi như Jarricot, Pellin.... và với nhiều công trình nghiên cứu trên thực nghiệm và trên người đã chứng minh được sự ánh xạ của thân thể và phủ tạng trên loa tai. Những nghiên cứu cơ bản này đã làm cho nhĩ châm phát triển rất mạnh trong 30 năm sau đó. Tại các Hội nghị Châm cứu quốc tế trong những năm 70, người ta đã dành một nửa thời gian của Hội nghị cho nhĩ châm và châm tê.
Tại Liên Xô cũ, tiếp theo Vogralick, cũng có nhiều nhà nghiên cứu Liên Xô công bố các công trình nghiên cứu về nhĩ châm như Ia. Balacan (1962), E.S. Belkhova (1963), N.N. Kukharski (1962), V.I. Kvitrichvili (1969, 1972), K. Ia Mikhalpeskaia (1972), M.S. Kagan (1974), đã có nhiều tác phẩm về nhĩ châm được xuất bản. Đặc biệt trong cuốn Điện châm phản xạ liệu pháp của Portnop (1982), tác giả đã có giới thiệu những công trình thực nghiệm của mình trên chó và thỏ chứng minh sự tồn tại khách quan của các khu đại diện của các cơ quan nội tạng trên loa tai động vật và đề cập tới điện nhĩ châm và điện nhĩ liệu pháp.
2. Tại châu á
− Tại Trung Quốc:vấn đề nhĩ châm thật sự trở nên được quan tâm từ sau những công bố của Nogier. Năm 1959, xuất bản tập sách Nhĩ châm, chủ yếu tập hợp một số bài báo phản ảnh các công trình của trường phái Thượng Hải. Thời kỳ này các nhà châm cứu Trung Quốc lấy bản đồ huyệt loa tai của Nogier làm cơ sở. Trong sách chỉ có 1 bài giới thiệu 12 huyệt mới trên loa tai không phải của Nogier và chỉ đánh số mà chưa có tên. Cho đến năm 1970, cơ quan Quân y tỉnh Quảng Châu ấn hành bộ tranh châm cứu có phần hướng dẫn 115 huyệt loa tai trong đó có nhiều huyệt mới ra đời mang tên theo YHCT như Thần môn, tam tiêu, can dương (1 và 2…) (bản đồ huyệt vị này có những điểm dị đồng với bản đồ huyệt vị của trường phái Nogier). Nói chung tình hình nghiên cứu nhĩ châm của Trung Quốc chủ yếu dựa vào thực tiễn lâm sàng, ít có những công trình nghiên cứu cơ bản.
− Tại Việt Nam: từ tháng 5/62, Viện Nghiên cứu Đông y khởi sự nghiên cứu nhĩ châm. Tại Hội nghị Thuốc Nam châm cứu toàn ngành lần thứ 2 (11/62), Khoa Châm cứu của Viện đã giới thiệu những nét Đại cương về nhĩ châm.
ở Hội nghị thành lập Hội Châm cứu Việt Nam (1968), tổ nhĩ châm của Viện đã báo cáo tổng kết 5 năm nghiên cứu nhĩ châm trên 1923 đối tượng, khảo sát điểm đau trên loa tai để phòng và chữa bệnh, khảo sát sơ đồ loa tai, chẩn đoán với máy dò huyệt ở tai. Sau đó, Viện dừng nghiên cứu đề tài này.
Năm 1969, Nhà xuất bản Y học và Thể dục thể thao xuất bản cuốn Nhĩ châm, Thủy châm, Mai hoa châm. Tuy nhiên tài liệu về nhĩ châm vẫn chỉ dừng lại ở mức độ phổ biến một số kiến thức chung nhất.
ở Công ty Gang thép Thái Nguyên có nhóm nghiên cứu về nhĩ châm của DS Nguyễn Xuân Tiến hoạt động rất tích cực. Ngoài việc cố gắng thu thập tài liệu từ Trung Quốc và của Nogier, nhóm này còn cố gắng tự lực trang bị về các thiết bị cần thiết cho nghiên cứu như máy dò kinh lạc, máy điện châm... Nhóm đã có những bài báo Tình hình phát triển nhĩ châm liệu pháp (Tạp chí Đông y 130/1974), những bài báo về lịch sử, cơ sở khoa học của nhĩ châm....
Trong những năm 81 - 84, Bộ môn YHDT Trường Đại học Y khoa Hà Nội có thông báo về kết quả ứng dụng châm loa tai (trên 1000 ca theo dõi) như sau: + Châm loa tai có hiệu lực điều trị rõ rệt nhiều loại chứng bệnh + Số ngày điều trị không kéo dài, rất ít tai biến.
II. Cơ sở lý luận của nhĩ châm
A. Theo y học cổ truyền
1. Mối liên quan giữa tai và các kinh mạch
Trong những tài liệu kinh điển của châm cứu đều có đề cập mối liên quan giữa tai và các kinh mạch. Trong Linh khu có nêu “Tai là nơi tụ hội của tông mạch” (Khẩu vấn), hoặc “Khí huyết của 12 kinh mạch, 365 lạc đều lên mặt để tưới cho 5 quan, 7 khiếu, não tủy ở đầu mặt...trong đó có khí huyết tách ra để tưới nhuần cho tai có thể nghe được” (Tà khí tạng phủ bệnh hình).
Những đoạn kinh văn sau đây trong Linh khu và Tố vấn cũng cho thấy rõ mối quan hệ giữa tai với kinh mạch, kinh biệt, kinh cân....
“Kinh thiếu dương ở tay.....từ sau tai đi vào trong tai, rồi ra trước tai”
“Kinh thiếu dương ở chân.....từ sau tai đi vào trong tai, rồi ra trước tai”
“Kinh thái dương ở tay......có nhánh đến đuôi mắt, rồi vào trong tai...”
“Kinh thái dương ở chân.....có nhánh đi từ đỉnh đầu tới tai”
“Kinh dương minh ở chân đi qua giáp xa để đến trước tai”
 “Kinh nhánh của quyết âm Tâm bào ở tay.....đi ra sau tai hợp với thiếu dương Tam tiêu ở hoàn cốt”
 “Kinh cân thiếu dương ở chân vòng ra sau tai ở góc trán....”
 “Nhánh của kinh cân dương minh ở chân kết ở trước tai. Nhánh của kinh cân thái dương ở tay vào trong tai. Nhánh của kinh cân thiếu dương ở tay.....vòng trước tai”
 “Lạc của các kinh thiếu âm, thái âm ở chân tay; dương minh ở chân đều hội ở trong tai”
Những đoạn kinh văn nêu trên cho thấy có 5 kinh dương, 1 kinh biệt, 4 kinh cân dương ở chân và kinh cân dương minh ở tay liên quan với tai. Đồng thời chúng ta cũng biết rằng mỗi kinh âm và kinh dương chính đều có một kinh nhánh. Tất cả những kinh nhánh âm đều đổ vào kinh nhánh dương có quan hệ biểu lý tương ứng, và tất cả các kinh nhánh dương đều đổ vào kinh chính của nó. Như vậy tất cả các kinh âm và kinh dương chính đều thông với nhau qua kinh nhánh của chúng và hầu hết các kinh âm và dương chính đều có liên quan đến tai.
2. Mối liên quan giữa tai và các tạng phủ
Những đoạn kinh văn sau đây trong Linh khu và Tố vấn và các tài liệu kinh điển cho thấy rõ mối quan hệ giữa tai với các tạng phủ trong cơ thể.
“Thận khí thông ra tai. Thận hóa thì tai nghe được....”
“Tâm.....khai khiếu ra tai ”
“Tỳ..... không đầy đủ thì 9 khiếu không thông ”
“Tủy hải không đủ.... thì tai ù ”
“Bệnh ở can hư....thì tai không nghe được, khí nghịch thì đau đầu, điếc tai”
“Phế khí hư thì khí ít......., tai điếc”
“Phế chủ âm thanh, làm tai nghe được âm thanh”
Những ghi chép nêu trên cho thấy tai có quan hệ với tất cả các tạng phủ và 12 kinh mạch. Đây cũng chính là cơ sở lý luận về YHCT của phương pháp châm này.
B. THEO Thần KINH SINH Lý HọC
1. Phân bố thần kinh ở loa tai
Sự phân bố này rất phong phú: có các nhánh chính của dây Thần kinh tai to và dây Thần kinh chẩm nhỏ ở tiết đoạn Thần kinh cổ 2 - 3, nhánh thái dương của dây Thần kinh sinh ba, nhánh tai sau của dây Thần kinh mặt, nhánh tai sau của dây Thần kinh phế vị.
− Nhánh trước của dây Thần kinh tai - thái dương (nervus auriculotemporalis): nhánh này đi từ dây Thần kinh tai - thái dương của dây Thần kinh sinh ba. Nó cho ra 3 đến 4 nhánh nhỏ, phân bố + Trên da của luân tai và phía trước của hố tam giác.
+ Tại chân dưới của đối luân, ở trên và trước rễ luân.
+ Tại xoắn tai trên, bình tai và dái tai.
Dây Thần kinh tai - thái dương là một dây hỗn hợp (vận động và cảm giác) là một nhánh của dây Thần kinh hàm dưới và dây này lại là chi thứ 3 của dây Thần kinh sinh ba. Dây Thần kinh tai - thái dương có nhiều nhánh bên: 1 nhánh cho hạch thị (hạch Arnold ), 1 nhánh nối cho ổ mắt dưới (alveolus inferior), các nhánh mạch cho động mạch màng não giữa và cho động mạch hàm trong, 1 hoặc 2 nhánh nối chạy vào chi trên của dây Thần kinh mặt, các nhánh cho tuyến mang tai, các nhánh cho lỗ tai ngoài, 1 nhánh cho màng nhĩ, các nhánh cho bình tai và bộ phận phía trước của loa tai, các nhánh mạch cho động mạch thái dương.
Sau khi cho các nhánh nêu trên, dây Thần kinh tai thái dương đi lẫn vào trong tổ chức dưới da của vùng thái dương. Dây này có những nối kết với dây mặt và nó làm cho chúng ta chú ý đặt biệt đến mối quan hệ của nó với dây Thần kinh sinh ba. Cùng với dây mặt và dây Thần kinh phế vị, nó kiểm soát lỗ tai ngoài.
− Dây Thần kinh tai to (nervus auricularis major): đây là một nhánh của đám rối cổ nông (plexus cervicalis superficialis).
+ Các nhánh da của đám rối này là:
• Nhánh cổ ngang
• Nhánh tai
• Nhánh chũm
• Nhánh trên ức
• Nhánh trên đòn
• Nhánh trên mỏm cùng vai.
Mỗi một nhánh trong các nhánh kể trên được nối với hạch giao cảm cổ trên bởi các nhánh nối.
+ Phát xuất từ đám rối cổ, dây Thần kinh tai to men theo bề mặt của cơ ức đòn chũm, đi lên ngang dái tai, phân ra hai nhánh: nhánh trước tai và nhánh sau tai.
• Nhánh trước tai xuyên qua dái tai ra mặt trước của loa tai, cho một nhánh tương đối to theo thuyền tai đi lên phân bố ở 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đầu nhọn của hố tam giác, xoắn tai trên và một phần của rễ luân. Còn có một nhánh khác phân bố ở phần trên và giữa thuyền tai, ở phần giữa của luân tai. Da của phần dái tai dưới rãnh bình tai cũng có Thần kinh tai to phân bố.
• Nhánh sau tai phân bố tại da của phần giữa của mặt sau loa tai.
Nhờ các nối kết rải rác theo từng nấc, đám nối cổ nông được liên hệ với các dây phụ (nervus accessorius): dây mặt, dây phế vị, dây dưới lưỡi và dây hạch Thần kinh giao cảm.
− Nhánh tai của dây phế vị: nhánh này bắt đầu phát ra từ hạch Thần kinh cảnh của dây phế vị, ra phía trước hợp lại với sợi của Thần kinh mặt trong ống của dây này. Khi dây Thần kinh mặt thoát ra khỏi lỗ trâm chũm (foramen stylomastoideus), nhánh tai của dây phế vị thoát ra khỏi dây Thần kinh mặt, men theo rãnh của mặt sau loa tai, tại giữa rãnh tách ra hai nhánh xuyên trước của dây phế vị, xuyên qua sụn tai, phân bố tại xoắn tai dưới và ống tai ngoài.
− Nhánh tai của dây Thần kinh mặt: sau khi ra khỏi lỗ trâm chũm, dây mặt cho ra nhánh tai. Nhánh này đi trong rãnh sau loa tai lên phía trên và phân làm nhánh sau tai và nhánh xuyên trước của dây Thần kinh mặt. Nhánh thứ nhất phân bố ở mặt sau tai, nhánh thứ hai xuyên qua sụn của loa tai và phân bố tại xoắn tai trên, tại chỗ dưới và sau rễ luân, nơi giữa của chân đối luân. Thụ trạng (dendrites) của nhánh xuyên còn có khả năng vươn tới phần dưới của hố tam giác.
Nhánh tai của dây phế vị lại có một quãng chạy trong dây mặt: cho nên không thể loại trừ khả năng có những sợi nhỏ hỗn hợp của dây phế vị và dây mặt tạo thành. Giữa dây lưỡi hầu (nervus glossopharyngeus) và dây phế vị còn có nhánh kết hợp.
Trong nhánh tai của dây phế vị, có sợi của dây Thần kinh lưỡi hầu nên cũng có khả năng là hai dây này có cùng khu vực phân bố Thần kinh.
− Dây Thần kinh chẩm nhỏ (nervus occipitalis minor): cũng xuất phát từ đám rối cổ, đi lên theo cơ ức đòn chũm, phát ra một số phân nhánh tới phần trên của loa tai; trong đó nhánh sau tai phân bố trên da của 1/3 mặt sau loa tai, nhánh trước tai và nhánh đâm xuyên phân bố ở luân tai, phần trên của thuyền tai, chân trên của đối luân và một phần của hố tam giác.
2. Nhận xét chung về phân bố thần kinh ở loa tai
Với sự phân bố Thần kinh như trên, loa tai là ngã rẽ của nhiều đường Thần kinh làm cho nó gắn liền mật thiết với toàn thân. Nhờ sự phân bố Thần kinh cảm giác của nó, loa tai được liên hệ với:
− Các đường tủy: nhờ vào đám rối cổ nông là nơi đã phát ra dây Thần kinh tai to.
− Não bộ: chủ yếu dựa vào dây Thần kinh sinh ba, thứ đến nhờ dây trung gian Wrisberg và dây lưỡi hầu.
− Hệ Thần kinh thực vật:
+ Hệ giao cảm: có rất nhiều sợi của Thần kinh giao cảm cổ được phụ vào các nhánh của đám rối tủy cổ nông, của dây phế vị, của dây sinh ba và của dây lưỡi hầu. Dây lưỡi hầu lại được liên hệ trực tiếp với đám rối giao cảm của xoang cảnh (rất quan trọng trong sự điều hòa vận động tim mạch).
+ Hệ phó giao cảm: có các nhánh mạch và bài tiết nước bọt của dây phó giao cảm thuộc hành não, phụ vào dây trung gian Wrisberg, dây lưỡi hầu và chủ yếu là dây phế vị qua nhánh tai của nó.
3. Phân bố mạch máu và bạch mạch của loa tai
Loa tai được cung ứng máu khá đầy đủ, chủ yếu dựa vào động mạch thái dương nông của động mạch cổ ngoài và động mạch sau tai. Có 3 đến 4 nhánh trước tai của động mạch thái dương nông nuôi dưỡng khu vực chi phối bởi nhánh trước tai của Thần kinh thái dương; còn động mạch sau tai có nhánh sau tai và nhánh trước tai.
Nhánh động mạch sau tai đi cùng với dây Thần kinh mặt, dây Thần kinh tai to xuyên qua dái tai, đến mặt trước loa tai, nuôi dưỡng vùng 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đỉnh của hố tam giác, xoắn tai trên và một phần vành tai.
Các tĩnh mạch nhỏ của mặt trước loa tai đổ vào tĩnh mạch thái dương nông. Tĩnh mạch của mặt sau loa tai hợp lại thành 3 - 5 tĩnh mạch của mặt sau loa tai đổ vào tĩnh mạch sau tai.
Bạch mạch của loa tai khá phong phú, hình thành một mạng lưới tại loa tai. Bạch mạch ở mặt trước loa tai chảy vào mang tai. Đại bộ phận bạch mạch ở mặt sau loa tai đổ về hạch sau tai.
Cơ sở lý luận của nhĩ châm
- Theo Đông y, loa tai có được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị toàn thân, bởi vì:
+ Khí huyết trong hệ thống 12 kinh mạch đều trực tiếp hoặc gián tiếp đến với tai.
+ Hệ thống các chức năng tạng phủ đều có ảnh hưởng đến chức năng nghe của tai.
- Theo Tây y, loa tai có được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị toàn thân bởi vì loa tai có quan hệ với toàn cơ thể thông qua hệ Thần kinh. Nhờ sự phân bố Thần kinh cảm giác của nó, loa tai được liên hệ với các đường tủy (đám rối cổ nông), não bộ (Thần kinh sinh ba, dây trung gian Wrisberg và dây lưỡi hầu), hệ Thần kinh thực vật (Thần kinh giao cảm cổ của các nhánh ở đám rối tủy cổ nông, dây phế vị, dây sinh ba và của dây lưỡi hầu, đám rối giao cảm của xoang cảnh); hệ phó giao cảm: chủ yếu là dây phế vị.
III. Những thay đổi bệnh lý ở loa tai khi cơ thể có bệnh
Bình thường nhìn da ở loa tai thấy đồng màu, cũng có thể thấy những chấm hay những mảng sắc tố. Khi cơ thể có bệnh, từng vùng da trên loa tai có thể thay đổi (điểm phản ứng/loa tai), trở nên đỏ hỏn hoặc tái đi, xù xì, thô ráp, bong vẩy khác với xung quanh. Tại các vùng hay điểm nói trên, điện trở sẽ thấp hơn những vùng gần đấy, khi nắn hoặc dùng que tù đầu ấn vào, bệnh nhân thấy đau trội hơn ở vùng kế cận.
Trên lâm sàng ta có thể quan sát các hiện tượng sau:
− ở loa tai có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở đường kinh tương ứng với vùng bệnh không tìm thấy điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
− ở loa tai không có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở đường kinh tương ứng với vùng bệnh có điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
− ở loa tai và trên đường kinh tương ứng với vùng bệnh đều có điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
− Riêng loa tai: điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng có khi xuất hiện ở cả 2 loa tai; có khi chỉ có ở 1 loa tai; có khi một bệnh nhân có nhiều điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng, có khi cùng một bệnh trên các đối tượng khác nhau lại có những vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng ở các vị trí khác nhau, không theo một quy luật rõ rệt.
Những trạng thái này phản ánh sự đáp ứng khác nhau của cá thể đối với kích thích bệnh lý cho nên trong áp dụng lâm sàng, một mặt phải nắm được các điểm, các vùng phản ứng có quy luật đã được Nogier tổng kết; mặt khác phải luôn luôn nhớ đến các điểm phản ứng ngoài quy luật trên loa tai do ta tự tìm ra trên từng người bệnh cụ thể vì chúng quan hệ mật thiết đến tình trạng bệnh lý đang diễn ra trong cơ thể người bệnh.
IV. Cách phát hiện những thay đổi bệnh lý trên loa tai
Thực tiễn lâm sàng cho thấy: khi cơ thể có bệnh trong đa số trường hợp trên mặt của loa tai, tại những vị trí của loa tai có quan hệ với nơi đang bị bệnh xuất hiện những vùng phản ứng bệnh lý.
Điểm hoặc vùng này có thể xuất hiện từ lúc bắt đầu có bệnh đến khi khỏi bệnh. Hai tính chất phổ biến của điểm phản ứng này là ấn đau và điện trở da thấp.
Bệnh càng nặng, cảm giác ấn đau của vùng này càng rõ và sự rối loạn về điện trở càng lớn hơn (điện càng thấp).
Khi bệnh giảm hoặc khỏi, cảm giác ấn đau ở điểm này cũng giảm và mất đi và khi điện trở da trở lại bình thường.
Lưu ý: có lúc vùng hoặc điểm nào đó ở loa tai có 1 hoặc đủ 2 tính chất trên nhưng không báo hiệu, không phản ánh một trạng thái bệnh. Đó là khi ở loa tai có sung huyết do ta gây nên, hoặc khi độ ẩm của da cao và nhất là khi nắn hoặc ấn quá mạnh, miết hoặc dùng que dò tại một điểm quá lâu. Mặt khác có thể do bệnh nhân trả lời không đúng, đụng đến chỗ nào cũng kêu đau và thầy thuốc chưa có kinh nghiệm đo điện trở ở da.
Người ta dùng nhiều cách để phát hiện vùng hoặc điểm phản ứng bệnh lý trên loa tai.
1. Quan sát
Người có kinh nghiệm quan sát có thể nhận ra những biến đổi tại chỗ của da như hồng lên, tái đi, hoặc thô ráp không tươi nhuận, khác với xung quanh.
2. Tìm điểm ấn
Dùng đốc kim châm ấn với một lực vừa phải để dò tìm, khi đúng vào điểm phản ứng bệnh lý thường bệnh nhân sẽ chau mày, nhăn mặt hoặc nhích đầu ra. Muốn chắc chắn, cần so sánh với cảm giác vùng kế cận. Cảm giác đau tại điểm phản ứng bệnh lý rất đặc biệt mà bệnh nhân phân biệt được rất dễ dàng.
3. Đo diện trở da
Tại điểm phản ứng bệnh lý, điện trở da sẽ thấp hơn vùng kế cận. Nếu loại bỏ được yếu tố gây lầm lẫn thì việc đo điện trở da sẽ giúp xác định nhanh điểm phản ứng bệnh lý cần tìm.
Điểm phản ứng ở loa tai khi cơ thể có bệnh
- Khi cơ thể có bệnh, có thể xuất hiện phản ứng ở loa tai.
- Phản ứng trên loa tai (điểm hoặc vùng phản ứng): da trở nên đỏ hỏn hoặc tái đi, xù xì, thô ráp, bong vẩy khác với xung quanh, nhậy cảm hơn.
- Sự xuất hiện điểm (hoặc vùng) phản ứng trên loa tai không theo một quy luật nhất định, phản ánh sự đáp ứng khác nhau của cá thể đối với kích thích bệnh lý.
- Phương pháp phát hiện điểm phản ứng/loa tai:
+ Quan sát sự thay đổi màu sắc, hình thái da.
+ Dùng một que đầu tù ấn tìm điểm đau (điểm nhạy cảm).
+ Dùng máy đo điện trở da/huyệt.
+ Luôn luôn so sánh với vùng da xung quanh, kết hợp với sơ đồ huyệt nhĩ châm.
 
 
V. Phân bố vùng đại biểu trên loa tai
1. Các bộ phận của loa tai (xem hình 11.1) − Vành tai: bộ phận viền ngoài của loa tai.
− Chân vành tai: bộ phận của vành tai đi vào nằm ngang ở trong xoắn tai.
− Lồi củ vành tai: chỗ lồi lên của vành tai, nằm ở phía sau.
− Đuôi vành tai: chỗ ranh giới của đoạn cuối vành tai và dái tai.
− Đối vành tai: bộ phận nổi lên ở phía trong và đối xứng với vành tai, phía trên nó chia làm hai nhánh.
− Chân trên đối vành tai: nhánh phía trên của đối vành tai.
− Chân dưới đối vành tai: nhánh phía dưới của đối vành tai.
− Hố tam giác: chỗ lõm hình tam giác giữa chân trên và chân dưới đối vành tai.
− Thuyền tai: rãnh lõm giữa vành tai và đối vành tai.
− Bình tai: phía trước tai, trước lỗ tai ngoài.
− Đối bình tai: phần nổi lên ở phía dưới đối vành tai, đối xứng với bình tai.
− Rãnh trên bình tai: chỗ lõm giữa vành tai và bờ trên bình tai.
− Rãnh bình tai: chỗ lõm giữa bình tai và đối bình tai.
− Dái tai: phần không có sụn ở dưới cùng của loa tai.
− Xoắn tai trên: phần trên chân vành tai của xoắn tai.
− Xoắn tai dưới: phần dưới chân vành tai của xoắn tai.
2. Phân vùng ở loa tai
Theo Nogier, loa tai đại biểu cho hình thái của bào thai lộn ngược, đầu chúc xuống, chân ở trên.
Do đó, vị trí khái quát của các vùng đại biểu đó sắp xếp như sau:
Chi trên: chủ yếu ở thuyền tai
Từ trên xuống lần lượt là: ngón tay, bàn tay, cổ tay (ngang với lồi củ vành tai), cẳng tay, khuỷu tay, vai (ngang với rãnh trên bình tai), khớp vai, xương đòn (ngang với chỗ đối vành tai và đối bình tai giao nhau).
Chi dưới: chủ yếu ở trên 2 chân đối vành tai
Chân trên đối vành tai có từ trên xuống: ngón chân, bàn chân, cẳng chân, đầu gối. Chân dưới đối vành tai từ sau ra trước có mông và điểm dây Thần kinh hông.
− Bụng, ngực, sống lưng:
+ Bụng ngực nằm trên đoạn hợp nhất của 2 chân đối vành tai.
+ Bụng ở trên ngang với bờ dưới của chân dưới đốt vành tai.
+ Ngực ở dưới ngang với chân vành tai.
+ Sống lưng chạy suốt từ bờ dưới chân dưới đối vành tai vòng xuống hết đối vành tai.
• L5 - L1: bờ dưới của chân dưới đối vành tai.
• D12 - D1: bờ trong của đoạn chạy thẳng của đối vành tai.
• C1 - C7: bắt đầu từ chỗ tiếp giáp với đối vành tai lên đến đoạn nối với đốt sống lưng (D1).
− Đầu: chủ yếu ở dái tai và quanh bình tai.
+ Trán: phía trước và dưới đối bình tai.
+ Chẩm: phía sau và trên đối bình tai.
+ Mắt: giữa dái tai.
+ Mũi: phần bờ bình tai thuộc xoắn tai dưới.
+ Miệng: bờ ngoài ống tai.

Hình 11.1. Sơ đồ các bộ phận của loa tai
− Nội tạng: xoắn tai trên chủ yếu là vùng nội tạng ở bụng; xoắn tai dưới chủ yếu là vùng nội tạng ở ngực.
+ Xoắn tai trên: đại trường, tiểu trường, dạ dày lần lượt nằm sát phía trên chân vành tai (dạ dày bao vòng chỗ tận cùng của chân vành tai); giữa đại trường, sau thận là tụy (loa tai trái) hoặc túi mật (loa tai phải); gan ở sau dạ dày và dưới gan là lá lách.
+ Xoắn tai dưới: tâm vị, thực quản nằm sát bờ dưới chân vành tai, phía trước dạ dày; tim phổi nằm giữa lòng xoắn tai dưới.

Hình 11.2.Sơ đồ loa tai và các vùngđại biểu
− Vùng dưới vỏ: thành trong của đối bình tai.
+ Thần kinh giao cảm: đoạn che kín của chân dưới đối vành tai đi đến vành tai.
+ Sinh dục ngoài, ống đái, trực tràng: trên vành tai tương đương với chân dưới đối vành tai xếp từ trên xuống.
+ Tử cung (tinh cung): trong hố tam giác, vùng giữa bờ phía vành tai của hố tam giác.
Vị trí các vùng trên loa tai, đại biểu cho các vùng trong cơ thể, hệ thống lại theo cách này là hợp lý và đã được thực tiễn kiểm định nên độ tin cậy khá hơn.
VI. Dùng loa tai vào điều trị
Trong chữa trị bằng châm cứu nói chung, có cách châm vào nơi đau (huyệt a thị) để chữa bệnh. Cách này khá thông dụng được dùng riêng lẻ hay kết hợp trong một công thức huyệt. Thực tiễn cho thấy tác động trên huyệt a thị nhiều khi đạt được kết quả không ngờ. Trong phương pháp châm kim ở loa tai để chữa bệnh, người ta dùng 3 cách sau:
− Dùng huyệt a thị (cũng có thầy thuốc vừa châm kim ở các huyệt của 14 đường kinh của thân thể vừa châm vào huyệt a thị của loa tai).
− Châm kim vào các vùng ở loa tai được quy ước là có quan hệ với nơi đang có bệnh (ví dụ: bệnh dạ dày châm vào vùng dạ dày, bệnh ở đầu gối châm vùng đầu gối, đau Thần kinh hông châm vùng vùng Thần kinh hông). Cách này tuy chưa đầy đủ nhưng đơn giản và dễ áp dụng.
− Dùng các điểm phản ứng trên loa tai theo lý luận y học hiện đại và y học cổ truyền, thực tế chỉ cách này là đem lại kết quả tốt.
− Ví dụ: đau mắt đỏ cần châm vùng gan, mắt để bình can giáng hỏa (theo lý luận y học cổ truyền); tắc tia sữa châm vùng tuyến vú, nội tiết để thông sữa (theo y học hiện đại); hành kinh đau bụng châm vùng tử cung, thận, giao cảm, nội tiết (kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại).
Các thầy thuốc ngày càng có xu hướng kết hợp cách thứ 3 với huyệt a thị tìm thấy trên loa tai trong một công thức điều trị.
VII. Dùng loa tai vào chẩn đoán
Điểm phản ứng bệnh lý xuất hiện tại các vùng đại biểu ở loa tai của các cơ quan nội tạng bị bệnh trong khá nhiều trường hợp giúp cho thầy thuốc hướng chẩn đoán, xác định cơ quan tạng phủ bị bệnh.
Ví dụ: điểm ấn đau giữa vùng đại trường và tiểu trường trong bệnh viêm ruột thừa cấp; điểm ấn đau ở vùng dạ dày trong cơn đau dạ dày cấp....; điểm ấn đau có điện trở thấp tại vùng gan, thận trong một số trường hợp huyết áp cao.
Nói chung, sự thay đổi ở loa tai đến nay đã có những đóng góp nhất định vào chẩn đoán vị trí bệnh, nhưng phải biết đánh giá và chọn đúng những điểm phản ứng tiêu biểu. Trong công trình gần đây của mình, Nogier có giới thiệu một phương hướng tìm tòi thông qua sự đáp ứng của các điểm phản ứng bệnh lý trên loa tai đối với kích thích nóng lạnh để xác định trạng thái hàn nhiệt và hư thực của bệnh.
Thông thường các thầy thuốc kết hợp những dấu hiệu bệnh lý xuất hiện trên loa tai, các dấu hiệu trên đường kinh hoặc các biểu hiện về mạch chứng khác để chẩn đoán toàn diện và chính xác.
VIII. Dùng loa tai vào phòng bệnh
Ngoài ý kiến của người xưa xoa vành tai để bổ thận khí, “gõ trống trời” bật vành tai để bảo vệ tai, cho đến gần đây chưa có báo cáo ở nước ngoài về dùng loa tai trong phòng bệnh.
Viện Đông y, từ năm 1965 đã tiến hành tiêm liều lượng nhỏ (mỗi mũi kim vài giọt) sinh tố B1 0,025g (hoặc sinh tố B12 1000ó) pha loãng với nước cất tiêm vào vùng lách, dạ dày để đạt kết quả ăn ngủ tốt, qua đó tăng sức chống đỡ của cơ thể. Người ta cũng đã tiêm novocain 0,25 - 0,5% 1/10ml vào vùng họng, amiđan để giảm số lần viêm nhiễm của các cơ quan này ở người lớn và trẻ em (nhất là trẻ em) có viêm họng, viêm amiđan; mỗi tuần tiêm 3 lần tiêm trong 3 - 4 tuần thấy đạt kết quả tốt.
Phân bố vùng đại biểu trên loa tai
- Vùng loa tai và cơ thể tương ứng:
+ Chi trên: chủ yếu ở thuyền tai.
+ Chi dưới: chủ yếu ở trên hai chân đối vành tai.
+ Cột sống: chạy suốt từ chân dưới đối vành tai đến hết đối vành tai.
+ Đầu: chủ yếu ở dái tai và quanh bình tai.
+ Nội tạng: xoắn tai trên chủ yếu là vùng nội tạng ở bụng, xoắn tai dưới chủ yếu là vùng nội tạng ở ngực.
+ Vùng dưới vỏ: thành trong của đối bình tai.
- Nguyên tắc phối hợp huyệt trong nhĩ châm để phòng và trị bệnh:
+ Điểm (vùng) phản ứng.
+ Huyệt nhĩ châm được quy ước là có quan hệ với nơi đang có bệnh.
IX. Kỹ thuật châm cứu trên loa tai
Cấu tạo loa tai chủ yếu trên da dưới sụn, một vài chỗ có vài cơ dẹt mỏng, vì vậy châm ở loa tai khác với châm ở cơ thể.
Châm kim: có thể theo hai hướng (châm thẳng góc với da sâu 0,1 - 0, 2cm không châm xuyên qua sụn hoặc châm chếch 30 - 40 độ) hoặc khi cần có thể châm luồn dưới da xuyên vùng này qua vùng khác.
− Cảm giác đạt được khi châm (cảm giác đắc khí/loa tai):
+ Châm vào huyệt a thị trên loa tai, bệnh nhân thường có cảm giác đau buốt, nóng bừng và đỏ ứng bên tai châm.
+ Cảm giác căng tức: do đặc điểm tổ chức học của loa tai (có rất ít cơ) nên cảm giác hầu như rất khó đạt được
Cài kim: thủ pháp thường áp dụng khi thầy thuốc muốn kéo dài tác dụng của nhĩ châm. Kim được sử dụng là loại kim đặc biệt, giúp thầy thuốc dễ dàng cài đặt và cố định trên loa tai. Kim này có tên là nhĩ hoàn.
Cứu: rất ít sử dụng vì khó thực hiện.
Thủ thuật bổ tả: trong nhĩ châm, phương pháp bổ tả được thực hiện đơn giản hơn hào châm, (kích thích mạnh tả, kích thích nhẹ: bổ).
− Liệu trình:
+ Khi chữa bệnh cấp tính, nếu bệnh giảm thì có thể ngưng châm.
+ Nếu chữa bệnh mạn tính, nên ước định một liệu trình khoảng 10 lần châm. Có thể thực hiện tiếp liệu trình thứ 2 (nếu cần thiết). Giữa hai liệu trình nên nghỉ vài ngày.
+ Khi cần điều trị dự phòng, có thể châm cách 7 - 10 ngày/lần.
Lưu kim: tùy theo mục đích chữa bệnh mà quyết định lưu kim lâu mau.
+ Điều trị bệnh cấp, nhất là có kèm đau: rút kim khi hết đau hoặc khi bệnh giảm nhiều.
+ Muốn duy trì tác dụng, có thể lưu kim 24 - 48 giờ, thậm chí cả 7 - 10 ngày.
X. Tai biến và cách xử trí
Châm ở loa tai cũng có thể gây vựng châm như ở hào châm. Cách xử trí hoàn toàn giống như trong trường hợp vựng châm ở hào châm.
Có thể đề phòng vựng châm bằng cách để bệnh nhân nằm châm, thầy thuốc châm kim cần tránh những thao tác đột ngột và quá mạnh; cần có thời gian để cho bệnh nhân thích nghi dần, tránh gây căng thẳng không cần thiết cho bệnh nhân. Cũng như hào châm, đừng châm khi bệnh nhân no quá, đói quá hoặc đang mệt nhọc.
XI. Chỉ định và chống chỉ định của phương pháp châm loa tai
1. Chỉ định
− Thứ nhất: châm loa tai được dùng nhiều nhất để điều trị các chứng đau (chống đau và ngăn ngừa tái phát). Gần đây đã phát triển thêm, ứng dụng thành công vào châm tê để mổ.
− Thứ đến, châm loa tai cũng còn được dùng trong một số trường hợp rối loạn chức năng của cơ thể.
2. Chống chỉ định
Những cơn đau bụng cấp chưa xác định được chẩn đoán.

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Tám mạch khác kinh (Phần 2)

Những triệu chứng kèm theo khi mạch Đốc rối loạn có liên quan chặt chẽ đến những nhánh của mạch Đốc:
+ Đau thắt lưng kèm sốt cơn; nếu bệnh nặng, người bệnh có cảm giác lưng cứng như gỗ kèm không giữ được nước tiểu (Thiên 41, sách Tố vấn).
+ Đau vùng hố chậu lan lên ngực.
+ Đau vùng tim lan ra sau lưng. Thiên 58, sách Tố vấn... “Khi mất cân bằng giữa âm và dương, làm xuất hiện tâm thống lan ra trước hoặc ra sau, lan xuống hạ sườn kèm có cảm giác khí dồn lên trên (thượng tiêu)”.
− Châm cứu đại thành nêu lên những triệu chứng khá cụ thể như:
+ Đau lưng, đau thắt lưng, đau các chi, cứng cổ, trong trường hợp trúng phong: co giật, mất tiếng nói.
+ Cứng và run các chi.
+ Đau đầu, đau mắt, chảy nước mắt, đau răng, sưng hầu họng. + Cứng ưỡn lưng, tê các chi.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt) của mạch Đốc và cách sử dụng
Huyệt hậu khê, nằm trên đường tiếp giáp da gan và mu bàn tay, bờ trong bàn tay ngang với đầu trong đường văn tim, là huyệt khai của mạch Đốc. Huyệt có quan hệ với huyệt thân mạch (quan hệ chủ - khách).
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt hậu khê.
− Kế tiếp là châm những huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt thân mạch.

Mạch đốc
- Mạch đốc có những đặc điểm:
+ Mạch khác kinh có huyệt riêng của mình (không mượn huyệt của các đường kinh khác để đi).
+ Phân bố chủ yếu toàn bộ vùng lưng và đầu (phần dương của cơ thể).
+ Phân bố sâu trong phủ kỳ hằng: não.
+ Ngoài ra còn có phân bố ở vai, bụng dưới, ngực (phần trước của thân).
- Do những đặc điểm phân bố trên mà rối loạn mạch Đốc sẽ có những biểu hiện:
+ Những triệu chứng của dương hư, khí hư: đầu trống rỗng, váng đầu.
+ Những triệu chứng không chỉ ở thắt lưng, lưng, cổ gáy mà cả những triệu chứng ở bụng dưới, ngực (phần trước của thân).
- Giao hội huyệt của mạch Âm kiểu: hậu khê.

Hình 7.3. Mạch Đốc và Hình 7.4. Mạch Dương kiểu
B. Mạch dương kiểu
1. Lộ trình đường kinh
Mạch Dương kiểu xuất phát từ huyệt thân mạch, nằm dưới mắt cá ngoài, chạy đến huyệt bộc tham, chạy lên theo mặt ngoài cẳng chân đến huyệt dương phụ, chạy tiếp lên theo mặt ngoài đùi, mông nối với kinh chính Đởm tại huyệt cự liêu. Từ động mạch Dương kiểu chạy tiếp theo mặt ngoài thân đến vai nối với kinh chính Tiểu trường và mạch Dương duy tại huyệt nhu du, nối với kinh Tam tiêu tại huyệt kiên liêu và kinh chính Đại trường tại huyệt cự cốt; sau đó nối với kinh Vị và mạch Nhâm tại huyệt địa thương, cự liêu và thừa khấp. Chạy tiếp lên trên đến khóe mắt trong tại huyệt tình minh, chạy tiếp lên trán, vòng ra sau gáy để tận cùng tại huyệt phong trì.
2. Những mối liên hệ của mạch Dương kiểu Mạch Dương kiểu có quan hệ với:
− Tất cả những kinh dương chính của tay và chân: liên hệ với kinh Đởm tại huyệt dương phụ, cự liêu, liên hệ với kinh Bàng quang tại huyệt bộc tham, thân mạch, liên hệ với kinh Vị tại huyệt địa thương, cự liêu, thừa khấp; liên hệ với kinh Tiểu trường tại huyệt nhu du; liên hệ kinh Tam tiêu tại huyệt kiên liêu và kinh Đại trường tại huyệt cự cốt.
− Mạch âm kiểu tại huyệt tình minh. Trương Cảnh Thông chú: “Mạch âm kiểu đi từ chân lên trên ứng với địa khí tăng lên, cho nên ở người con gái phải tính vào số âm. Mạch âm kiểu lên để thuộc vào khóe mắt trong và hợp với mạch Dương kiểu để lên trên, đó là Dương kiểu thọ khí của âm kiểu để từ chân tóc đi xuống đến chân, ứng với thiên khí trên đường giáng xuống dưới, vì thế người con trai phải tính vào số dương”.
3. Triệu chứng khi mạch Dương kiểu rối loạn
Trong tài liệu Trung y học khái luận: “Mạch Dương kiểu có bệnh, âm (thủy) suy hư, dương (hỏa) thực nên người bệnh mất ngủ”.
Triệu chứng chủ yếu này có thể có kèm theo (hoặc không) những tình trạng sau:
− Đau thắt lưng như bị đập, có thể kèm sưng tại chỗ (sách Tố vấn, chương 41).
− Đau mắt, chảy nước mắt, luôn khởi phát từ khóe mắt trong (sách Tố vấn, chương 43).
− Triệu chứng mạch Dương kiểu theo tài liệu Châm cứu đại thành:
+ Cứng cột sống.
+ Phù các chi.
+ Đau đầu, đau mắt, sưng đỏ mắt, đau vùng mi mắt.
+ ít sữa.
4. Huyệt khai (huyệt giao hội) của mạch Dương kiểu và cách sử dụng
Huyệt thân mạch (1 thốn dưới mắt cá ngoài), là huyệt khai của mạch Dương kiểu. Huyệt thân mạch có quan hệ với huyệt hậu khê trong mối quan hệ chủ - khách.
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt thân mạch.
− Kế tiếp là châm những huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt hậu khê.
Mạch dương kiểu
- Mạch Dương kiểu có đặc điểm: mạch đi từ mắt cá ngoài đến khóe mắt trong. Lộ trình của mạch Dương kiểu theo phần dương của cơ thể (mặt ngoài chi dưới, hông sườn, mặt bên mặt và đầu).
- Mạch Dương kiểu được chỉ định trong điều trị những trường hợp dương khí thịnh (âm khí hư suy): mất ngủ.
- Những huyệt mà mạch Dương kiểu mượn đường để đi: dương phụ, cự liêu (Đởm); bộc tham, thân mạch (kinh Bàng quang); địa thương, cự liêu, thừa khấp (kinh Vị); nhu du (kinh Tiểu trường); kiên liêu (kinh Tam tiêu) và cự cốt (kinh Đại trường)
- Giao hội huyệt của mạch Dương kiểu: thân mạch
V. Hệ thống mạch đới, mạch dương duy
Mạch Đới và mạch Dương duy là hệ thống thứ 2 thuộc kỳ kinh mang tính chất dương. Mạch Đới và mạch Dương duy không có huyệt chung, chúng sử dụng kinh Đởm làm cầu nối giữa chúng với nhau.
A. Mạch Đới
1. Lộ trình đường kinh
Mạch Đới xuất phát từ huyệt đới mạch (kinh Đởm), chạy chếch xuống vùng thắt lưng và chạy nối vùng quanh bụng.
2. Những mối liên hệ của mạch Đới
Mạch Đới có mối liên hệ với:
− Kinh Đởm tại những huyệt mà nó mượn sử dụng (đới mạch, ngũ xu, duy đạo), ngoài ra còn có huyệt lâm khấp là huyệt khai của mạch. Kinh thiếu dương đóng vai trò như “chốt cửa” “bản lề”, do đó, khi vai trò này bị rối loạn, sẽ xuất hiện rối loạn vận động. Thiên Căn kết, sách Linh khu có đoạn: “Kinh (túc) thái dương đóng vai trò khai (mở cửa), kinh (túc) dương minh đóng vai trò hạp (đóng cửa), kinh (túc) thiếu dương đóng vai trò khu (chốt cửa). Cho nên khi nào cửa bị gãy thì bên trong cơ nhục bị nhiễu loạn.... Khi nào cửa đóng bị gãy thì khí không còn chỗ để ngừng nghỉ và chứng nuy tật nổi lên.
− Những kinh chính mà nó bao quanh: Thiên 44, sách Tố vấn có đoạn: “ở vùng bụng và thắt lưng, kinh dương minh, mạch Xung, kinh thiếu âm, kinh thái âm, mạch Nhâm và mạch Đốc là những kinh mạch được bao bọc và chỉ huy bởi mạch Đới”. Và như vậy kinh quyết âm và thái dương không được bao bên ngoài bởi mạch Đới.
− Mạch Dương duy trong mối quan hệ chủ - khách.
3. Những triệu chứng khi mạch Đới rối loạn
Thông thường khi mạch Đới bị rối loạn sẽ xuất hiện chứng trạng:
− Bụng đầy chướng, kinh nguyệt không đều.
− Cảm giác như “ngồi trong nước” (tê từ thắt lưng xuống hai chi dưới).
− Yếu, liệt 2 chi dưới.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt) và cách sử dụng
Huyệt lâm khấp là huyệt khai của mạch Đới, nằm ở góc giữa xương bàn ngón 4 và 5. Huyệt lâm khấp có quan hệ với huyệt ngoại quan.
Huyệt lâm khấp có tác dụng khác kinh trên những bệnh lý yếu chi dưới và hệ sinh dục.
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt lâm khấp.
− Kế tiếp là châm những huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt ngoại quan.
Mạch đới
- Mạch Đới có đặc điểm: mạch đi vòng quanh thân, ngang đoạn ở bụng (giống như dây đai - đới).
- Mạch Đới được chỉ định chủ yếu trong điều trị những trường hợp khí huyết không thông suốt dẫn đến yếu liệt, rối loạn cảm giác 2 chi dưới.
- Những huyệt mà mạch Đới mượn đường để đi: đới mạch, ngũ xu, duy đạo (kinh Đởm). - Giao hội huyệt của mạch Đới: lâm khấp
B. Mạch Dương duy
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch Dương duy bắt đầu từ huyệt kim môn (kinh Bàng quang), chạy theo mặt ngoài cẳng chân đến huyệt dương giao (kinh Đởm), chạy tiếp lên vùng mông đến huyệt cự liêu (kinh Đởm), chạy theo mặt ngoài thân lên vai đến huyệt nhu du (kinh Tiểu trường), chạy đến huyệt kiên liêu (kinh Tam tiêu) rồi đến kiên tỉnh (kinh Đởm, cũng là giao hội với túc dương minh Vị), chạy tiếp đến á môn, phong phủ (mạch Đốc), sau đó vòng từ phía sau đầu ra trước để đến tận cùng ở dương bạch sau khi đã đến các huyệt chính doanh, bản Thần, lâm khấp (kinh Đởm).
Với lộ trình như trên, mạch Dương duy (cũng như mạch âm duy) đã nối với toàn bộ các kinh dương của cơ thể (thái dương, dương minh và mạch Đốc).
 2. Những mối liên hệ của mạch Dương duy Mạch Dương duy có những mối liên hệ với:
− Kinh chính Thái dương nơi nó xuất phát (kim môn)
− Kinh chính Thiếu dương mà nó chủ yếu mượn đường để đi và qua đó đã nối với tất cả các kinh dương của cơ thể dương giao, cự liêu, kiên tĩnh, dương bạch, chính doanh, bản Thần, lâm khấp - kinh Đởm; kiên liêu, kinh Tam tiêu; nhu du, kinh Tiểu trường; á môn, phong phủ - mạch Đốc.
− Mạch Đới trong mối quan hệ chủ - khách.
3. Triệu chứng khi mạch Dương duy rối loạn
Triệu chứng chủ yếu của rối loạn mạch Dương duy là sốt và ớn lạnh.
Trung y học khái luận có nêu lên vấn đề này như sau: “Khi mạch Dương duy có bệnh sẽ phát nhiều cơn ớn lạnh và sốt cao vì mạch Dương duy phân bố ở phần dương của cơ thể nơi phần vệ quản lý. Vì thế mà có sốt và ớn lạnh”.
Trong Y học nhập môn: “Mạch Dương duy nối liền tất cả các khí dương. Nếu khí dương bị tắc trở sẽ xuất hiện sốt cao. Bệnh trạng là sốt cao và lạnh nhiều”.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào mức độ thâm nhập của tà khí vào phần dương nào của cơ thể mà có thể xuất hiện kèm các triệu chứng như:
− Đau đầu, miệng đắng, chóng mặt, ù tai, buồn nôn (nếu bệnh ở vùng đầu).
− Đau cứng cổ gáy sợ gió (nếu bệnh ở vùng gáy).
− Đau vai lan đến cổ (nếu bệnh ở vùng vai).
4. Huyệt khai (giao hội huyệt) và cách sử dụng
Huyệt ngoại quan là huyệt khai của mạch Dương duy, nằm ở 2 thốn trên nếp cổ tay mặt ngoài cẳng tay. Huyệt ngoại quan có quan hệ với huyệt lâm khấp (quan hệ chủ - khách).
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt ngoại quan.
− Kế tiếp là châm những huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt lâm khấp.

Hình 6.5. Mạch Đới và Mạch Dương duy
Mạch dương duy
- Mạch Dương duy có chức năng nối liền tất cả các kinh dương của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh dương, để duy trì sức chống đỡ của cơ thể đối với nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài.
- Do tính chất trên mà rối loạn mạch Dương duy sẽ sinh chứng ngoại cảm với biểu hiện chủ yếu là sốt.
- Những huyệt mà mạch Dương duy mượn đường để đi: dương giao, cự liêu, kiên tỉnh, dương bạch, chính doanh, bản Thần, lâm khấp (kinh Đởm); kiên liêu (kinh Tam tiêu); nhu du (kinh Tiểu trường); á môn, phong phủ (mạch Đốc).
- Giao hội huyệt của mạch Dương duy: ngoại quan

TỰ LƯỢNG GIÁ
Câu hỏi 5 chọn 1 - Chọn câu ĐÚNG
1. Mạch nào hợp với mạch Xung thành một hệ thống
A. Mạch âm duy
B. Mạch Nhâm
C. Mạch âm kiểu
D. Mạch Dương duy
E. Mạch Đốc
2. Mạch nào hợp với mạch âm kiểu thành một hệ thống
A. Mạch âm duy
B. Mạch Nhâm
C. Mạch Đốc
D. Mạch Đới
D. Mạch Dương kiểu
3. Mạch nào hợp với mạch Đốc thành một hệ thống
A. Mạch Đới
B. Mạch Nhâm
C. Mạch Dương kiểu
D. Mạch Dương duy
E. Mạch âm duy
4. Mạch nào hợp với mạch Dương duy thành một hệ thống
A. Mạch âm duy
B. Mạch Nhâm
C. Mạch Đốc
D. Mạch Dương kiểu
E. Mạch Đới
5. Triệu chứng khi mạch Xung rối loạn
A. Đau bả vai
B. Đau mặt ngoài chi dưới
C. Đau bụng kinh lan xuống bẹn
D. Đau đầu
E. Hồi hộp, mất ngủ
6. Giao hội huyệt của mạch âm duy
A. Nội quan
B. Chiếu hải
C. Lâm khấp
D. Công tôn
E. Thân mạch
7. Giao hội huyệt của mạch Nhâm
A. Chiếu hải
B. Liệt khuyết
C. Thân mạch
D. Nội quan
E. Ngoại quan
8. Triệu chứng khi mạch âm duy rối loạn
A. Sốt, ớn lạnh
B. Đau bụng kinh
C. Đau vùng tim
D. Mất ngủ
E. Ly bì
9. Giao hội huyệt của mạch âm kiểu
A. Chiếu hải
B. Liệt khuyết
C. Thân mạch
D. Nội quan
E. Ngoại quan
10. Triệu chứng khi mạch âm kiểu rối loạn
A. Sốt, ớn lạnh
B. Đau bụng kinh
C. Đau vùng tim
D. Mất ngủ
E. Ly bì
11. Giao hội huyệt của mạch Đốc
A. Thân mạch
B. Chiếu hải
C. Liệt khuyết
D. Hậu khê
E. Nội quan
12. Giao hội huyệt của mạch Dương kiểu
A. Thân mạch
B. Chiếu hải
C. Liệt khuyết
D. Hậu khê
E. Nội quan
13. Giao hội huyệt của mạch Đới
A. Đới mạch
B. Ngũ xu
C. Duy đạo
D. Lâm khấp
E. Chiếu hải
14. Giao hội huyệt của mạch Dương duy
A. Công tôn
B. Nội quan
C. Thân mạch
D. Lâm khấp
E. Ngoại quan
15. Triệu chứng khi mạch Dương duy rối loạn
A. Mất ngủ
B. Sốt, ớn lạnh
C. Đau vùng tim
D. Rối loạn kinh nguyệt
E. Đau bụng lan lên ngực
Câu hỏi 5 chọn 1 - chọn câu SAI
1. Đặc điểm của kỳ kinh bát mạch
A. Lộ trình đi từ dưới lên trên
B. Dẫn tinh khí của thận lên đầu
C. Lộ trình đi sâu vào các tạng phủ
D. Được ví như hồ (nếu xem kinh chính là sông)
E. Liên lạc và điều hòa các vùng chi phối bởi kinh chính
2. Vùng chi phối bởi mạch Xung
A. Mặt trong cột sống
B. Các khoảng liên sườn trước ngực
C. Lộ trình bên ngoài của kinh Thận
D. Bộ phận sinh dục ngoài
E. Mặt ngoài chi dưới
3. Triệu chứng khi mạch Xung rối loạn
A. Sưng đau bộ phận sinh dục ngoài
B. Đau tức bụng dưới
C. Đau khoảng liên sườn của vùng trước tim
D. Đau hông sườn
E. Đau bụng, ói mữa
4. Vùng chi phối của mạch âm duy
A. Mặt trong đùi
D. Mặt trong tay
B. Vùng bụng E. Vùng cổ
C. Vùng hông sườn
5. Triệu chứng khi mạch âm duy rối loạn
A. Cảm sốt, ớn lạnh
B. Đau vùng tim
C. Đau ngực kèm đau lưng
D. Đau ngực kèm đau hông sườn
E. Cảm giác bó nghẹt vùng tim
6. Vùng chi phối của mạch âm kiểu
A. Mặt trong chân
B. Mắt cá ngoài
C. Mặt trong thành bụng ngực
D. Khoé mắt trong
E. Xương hàm trên
7. Vùng chi phối của mạch Đốc
A. Lưng
B. Vai
C. Hông sườn
D. Bụng
E. Ngực
8. Triệu chứng khi mạch Đốc rối loạn
A. Đau mặt ngoài chân
B. Đau thắt lưng
C. Đau hố chậu lan lên ngực
D. Đau vùng tim lan sau lưng
E. Đau cứng cổ gáy
9. Vùng chi phối của mạch Dương kiểu
A. Mắt cá ngoài
B. Mặt ngoài chân
C. Mặt bên của thân
D. Mặt bên của đầu
E. Khoé mắt ngoài
10. Vùng chi phối của mạch Dương duy
A. Mặt ngoài chân
B. Mặt bên của thân
C. Mặt ngoài của vai
D. Hố thượng đòn
E. Mặt bên của đầu

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Châm Cứu Học - NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu
 

Tám mạch khác kinh (Phần 1)

TÁM MẠCH KHÁC KINH
(KỲ KINH BÁT MẠCH)
Mục tiêu
1. Nêu được tên gọi của 8 mạch khác kinh và xếp được 8 mạch thành 4 cặp tương ứng.
2. Mô tả chính xác lộ trình của 8 mạch khác kinh.
3. Trình bày được những tính chất chung trong sinh lý bình thường và trong bệnh lý của 8 mạch khác kinh.
4. Liệt kê và phân tích được triệu chứng chủ yếu và 4 triệu chứng phụ khi mạch khác kinh tương ứng có bệnh.
5. Nêu được tên gọi của 8 huyệt giao hội của 8 mạch khác kinh (bát mạch giao hội huyệt ).
6. Trình bày được cách sử dụng huyệt của 8 mạch khác kinh trong điều trị.
I. Đại cương
Tám mạch khác kinh (Kỳ kinh bát mạch) bao gồm các mạch:
− Mạch Xung
− Mạch âm kiểu
− Mạch Đới
− Mạch Dương kiểu
− Mạch Đốc
− Mạch âm duy
− Mạch Nhâm
− Mạch Dương duy
Những mạch khác kinh có nhiệm vụ liên lạc và điều hòa sự thịnh suy của khí huyết trong 12 kinh chính để đảm bảo sự cân bằng của cơ thể. Những nhà châm cứu xưa đã xem “những đường kinh như là sông, những mạch khác kinh như là hồ. Một cách tổng quát như sau:
− Các mạch Nhâm, Đốc, Xung, Đới: chức năng sinh đẻ.
− Mạch Dương kiểu, âm kiểu: chức năng vận động.
− Mạch Dương duy, âm duy: chức năng cân bằng.
A. Ý nghĩa của những tên gọi
Đốccó nghĩa là chỉ huy, cai trị. Mạch Đốc có lộ trình chạy theo đường giữa sau thân và quản lý tất cả các kinh dương của cơ thể, vì thế còn có tên “bể của các kinh dương.
Nhâmcó nghĩa là trách nhiệm, có chức năng hướng dẫn. Mạch Nhâm chạy theo đường giữa trước thân và quản lý tất cả các kinh âm, vì thế còn có tên “bể của các kinh âm.
Xungcó nghĩa là nơi tập trung, giao lộ. Mạch Xung nối những huyệt của kinh Thận ở bụng và ngực.
Kiểucó nghĩa là thăng bằng, linh hoạt. Đây cũng là tên gọi khác kinh cho mắt cá chân của các vũ công. Hai mạch Kiểu đều bắt nguồn từ mắt cá chân, có nhiệm vụ chỉ đạo các vận động của cơ thể, đến chấm dứt ở khóe mắt trong để duy trì hoạt động của mí mắt.
Duycó nghĩa là nối liền. Mạch âm duy có lộ trình ở phần âm của cơ thể và nối các kinh âm với nhau. Mạch Dương duy có lộ trình ở phần dương của cơ thể và nối các kinh dương với nhau.
Đới có nghĩa là đai. Mạch đới chạy vòng quanh thân, bên dưới các sườn và bọc lấy những đường kinh chính như bó lúa (ngoại trừ kinh Can và kinh Bàng quang).
B. Đặc điểm chung của 8 mạch khac kinh
1. Những mạch khác kinh tạo thành 4 hệ thống, bao gồm:
− Hai hệ thống mạch âm - âm
− Hai hệ thống mạch dương - dương.
Có nghĩa là 4 hệ thống liên lạc được gọi “hệ thống chủ - khách”
− Hệ thống 1: mạch Xung (âm) với mạch âm duy (âm).
− Hệ thống 2: mạch Nhâm (âm) với mạch âm kiểu (âm).
− Hệ thống 3: mạch Đốc (dương) với mạch Dương kiểu (dương).
− Hệ thống 4: mạch Đới (dương) với mạch Dương duy (dương).
2. Những mạch khác kinh không có lộ trình đi sâu vào các tạng phủ, ngoại trừ có một số mạch đi vào phủ khác thường (mạch Đốc, Xung, Nhâm đi từ dạ con (nữ tử bào; mạch Đốc vào não tủy). Mạch khác kinh là những đường dẫn tinh khí của Thận lên đầu.
3. Trừ mạch Đới đi vòng quanh lưng, 7 mạch còn lại đều đi từ dưới lên và tất cả đều bắt nguồn từ Thận - Bàng quang.
Thiên Động du, sách Linh khu có đoạn: “Xung mạch là biển của 12 kinh, cùng với đại lạc của kinh túc thiếu âm, khởi lên từ bên dưới Thận (khởi vu Thận hạ)...”.
Thiên Bản du, sách Linh khu có đoạn: “Mạch Nhâm và Đốc bắt nguồn từ Thận và thông với âm dương của trời đất”.
Những mạch âm kiểu, Dương kiểu, âm duy và Dương duy xuất phát tuần tự từ những huyệt chiếu hải, thân mạch, trúc tân, kim môn thuộc hệ thống Thận - Bàng quang.
4. Những mạch khác kinh không gắn với ngũ hành, không có quan hệ biểu lý như kinh chính.
5. Chỉ có 2 mạch Nhâm và Đốc có huyệt riêng, các mạch còn lại đều mượn huyệt của các đường kinh chính khi nó đi qua.
C. Phương pháp sử dụng kỳ kinh bát mạch
Những mạch khác kinh có quan hệ chặt chẽ với những kinh chính. Người xưa đã ví kinh chính như sông, mạch khác kinh như hồ. Sự quan hệ này được thể hiện ở bát mạch giao hội huyệt.
Trong bệnh lý rối loạn của mạch khác kinh, phương pháp chọn huyệt như sau:
− Chọn giao hội huyệt của mạch bị bệnh.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị triệu chứng.
− Cuối cùng là huyệt giao hội của mạch khác kinh có quan hệ chủ - khách với mạch bị bệnh.
Do phương pháp sử dụng trên nên kỳ kinh bát mạch được khảo sát theo 4 hệ thống chủ khách.
− Hệ thống 1: âm - âm: mạch Xung với mạch âm duy.
− Hệ thống 2: âm - âm: mạch Nhâm với mạch âm kiểu.
− Hệ thống 3: dương - dương: mạch Đốc với mạch Dương kiểu.
− Hệ thống 4: dương - dương: mạch Đới với mạch Dương duy.
Chúng tôi không đề cập trong bài này phương pháp sử dụng bát mạch giao hội huyệt theo Linh quy bát pháp. Phương pháp sử dụng huyệt theo thời gian “mở” của những huyệt khóa này sẽ được trình bày trong phương pháp châm theo Linh quy bát pháp (xin tham khảo tên bài tương ứng trong tập Phương pháp châm cứu).
Kỳ kinh bát mạch
- Hệ thống 8 mạch khác kinh gồm: mạch Xung, mạch âm kiểu, mạch Dương kiểu, mạch âm duy, mạch Dương duy, mạch Nhâm, mạch Đốc và mạch Đới.
- Tất cả 8 mạch khác kinh dều bắt nguồn (trực tiếp hay gián tiếp) từ hệ thống Thận - Bàng quang.
- Tám mạch khác kinh tạo thành 4 hệ thống chủ - khách gồm:
+ Mạch Xung và mạch Âm duy
+ Mạch Nhâm và mạch Âm kiểu
+ Mạch Đốc và mạch Dương kiểu
+ Mạch Đới và mạch Dương duy
- Hệ thống 8 mạch khác kinh thường được sử dụng trong:
+ Hỗ trợ chẩn đoán và điều trị những bệnh khó (những đường kinh như là sông, những mạch khác kinh như là hồ).
+ Điều trị theo Linh quy bát pháp (sử dụng bát mạch giao hội huyệt).
- Cách phối huyệt trong sử dụng kỳ kinh bát mạch
+ Huyệt số 1 (huyệt mở - huyệt khai): giao hội huyệt của mạch bị bệnh (hoặc có liên hệ đến bệnh được chẩn đoán).
+ Kế tiếp là những huyệt điều trị triệu chứng
+ Huyệt cuối cùng (huyệt đóng - huyệt hạp): huyệt giao hội của mạch có quan hệ chủ-khách với mạch bị bệnh.
II. Hệ thống mạch xung, mạch âm duy
Lộ trình của mạch Xung sử dụng những huyệt của kinh Thận, lộ trình của mạch âm duy sử dụng những huyệt của kinh Tỳ và kinh Can. Lộ trình của chúng đi theo những kinh âm chính và nối với mạch Nhâm tại huyệt liêm tuyền.
A. Mạch xung
1. Lộ trình đường kinh
Mạch Xung khởi nguồn từ Thận. Từ Thận, mạch Xung chạy xuống dưới đến huyệt hội âm của mạch Nhâm. Từ đây, mạch Xung chia làm 2 nhánh:
− Nhánh sau: chạy đến mặt trong của cột sống.
− Nhánh trước: theo mạch Nhâm đến huyệt quan nguyên. Từ đây đến nối với huyệt hoành cốt (ngang trung cực, cách 1/2 thốn), chạy dọc theo kinh Thận đoạn ở bụng đến huyệt u môn (ngang cự khuyết, cách 1/2 thốn). Trên đoạn ở bụng này, mạch Xung có những nhánh nhỏ nối với kinh cân ở trường vị. Đường kinh chạy tiếp tục lên trên theo kinh Thận đến huyệt du phủ. Trên đoạn đường ở ngực, mạch Xung lại cũng cho nhiều nhánh nối với các khoảng liên sườn. Đường kinh chạy tiếp tục lên hầu họng và nối với huyệt liêm tuyền của mạch Nhâm và sau đó lên mặt, vòng quanh môi.
Từ huyệt hoành cốt có nhánh đi xuống theo mặt trong đùi để đi chung với kinh Thận (sách Linh khu, Thiên Động du) đến bắp chân, mắt cá trong. Trên đoạn này, mạch Xung có nhiều nhánh đến những vùng của chi dưới nhằm làm “ấm cho chân và cẳng chân”.
Cũng từ huyệt Hoành cốt, có 1 nhánh khác đến huyệt khí xung của kinh Vị, sau đó tiếp tục đi chéo xuống mặt sau cẳng chân và chấm dứt ở ngón chân cái. Thiên 62 sách Linh khu có ghi “...Khi xuống dưới chân, nó có 1 chi biệt đi lệch vào bên trong mắt cá, xuất ra trên mu bàn chân, nhập vào trong khoảng ngón chân cái, rót vào các lạc mạch, nhằm làm ấm cho chân và cẳng chân.
2. Những mối liên hệ của mạch Xung
− Liên hệ với kinh chính Thận: ở đoạn bụng ngực, mạch Xung mượn những huyệt của kinh Thận (hoành cốt, u môn, du phủ).
− Liên hệ với mạch Nhâm: mạch Xung có những nhánh đến nối với mạch Nhâm ở mặt tại huyệt liêm tuyền thừa tương, đến vùng bụng dưới nối với huyệt quan nguyên, âm giao.
− Liên hệ với kinh chính Vị: tại huyệt khí xung để từ đó chạy tiếp xuống mặt trong cẳng chân.
− Liên hệ với mạch âm duy trong mối quan hệ chủ khách.
3. Triệu chứng khi mạch Xung rối loạn
Một cách tổng quát, dựa vào lộ trình đường kinh, chúng ta có thể thấy những biểu hiện sau:
3.1. Do rối loạn nhánh ở bụng
− Đau vùng thắt lưng, cảm giác hơi bốc từ bụng dưới.
− Đau tức bụng dưới, ói mửa sau khi ăn.
− ở phụ nữ:
+ Ngứa âm hộ, đau sưng âm hộ.
+ Kinh kéo dài, sa tử cung, thống kinh.
+ Co thắt âm hộ, huyết trắng, hiếm muộn.
− ở đàn ông:
+ Sưng đau dương vật, tinh hoàn; viêm niệu đạo.
+ Liệt dương, di tinh.
3.2. Do rối loạn nhánh ngực và mặt − Đau vùng trước tim.
− Khó thở kèm cảm giác hơi bốc ngược lên.
− Khô họng, nói khó.
Theo sách Châm cứu đại thành (quyển 5): “Những triệu chứng khi mạch Xung có bệnh: tức ngực, đau thượng vị, ói mửa sau khi ăn, hơi dồn ở ngực, đau hạ sườn, đau quanh rốn, bệnh ở trường vị do phong kèm sốt, ớn lạnh và đau vùng tim. ở phụ nữ, bệnh phụ khoa, sót nhau, rong kinh”.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch Xung) và cách sử dụng
Huyệt công tôn là huyệt khai của mạch Xung, nằm ở mặt trong bàn chân, trước đầu sau của xương bàn ngón 1. Huyệt công tôn có quan hệ với huyệt nội quan trong bát mạch giao hội huyệt (mối quan hệ chủ khách).
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt công tôn.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt nội quan.
Mạch xung
- Lộ trình mạch Xung có những đặc điểm:
+ Quan hệ chặt chẽ với mạch Nhâm ở bụng dưới (hệ thống sinh dục - tiết niệu).
+ Phân bố ở các khoảng liên sườn ở ngực (đoạn theo kinh Thận ở ngực)
+ Phân bố mặt trong chi dưới (giống như kinh chính Thận)
- Do những đặc điểm phân bố trên mà những rối loạn của sinh dục - tiết niệu, triệu chứng đau vùng trước tim, khó thở… là những chỉ định điều trị của mạch Xung.
- Những huyệt mà mạch Xung mượn đường để đi: hoành cốt, u môn, du phủ (kinh Thận); quan nguyên, âm giao, liêm tuyền, thừa tương (mạch Nhâm); khí xung (kinh Vị).
- Giao hội huyệt của mạch Xung: công tôn.
B. Mạch âm duy
1. Lộ trình đường kinh
Mạch âm duy xuất phát từ huyệt trúc tân của kinh Thận, đi dọc lên trên theo mặt trong của đùi đến nếp bẹn tại huyệt phú xá (kinh Tỳ), đến bụng tại huyệt đại hoành và phúc ai (kinh Tỳ), đến cạnh sườn tại huyệt kỳ môn (kinh Can), xuyên cơ hoành lên ngực vào vú, lên cổ tại huyệt thiên đột và liêm tuyền của mạch Nhâm.
2. Những mối liên hệ của mạch âm duy
Mạch âm duy có quan hệ với:
− Kinh chính của Thận: mạch âm duy khởi phát từ huyệt trúc tân của kinh Thận.
− Kinh chính Tỳ (phú xá, đại hoành, phúc ai), kinh Can (kỳ môn) và mạch Nhâm (liêm tuyền, thiên đột).
Vì những mối quan hệ trên mà mạch âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
3. Triệu chứng khi mạch âm duy bị rối loạn
Rối loạn chủ yếu khi mạch âm duy bị bệnh là đau vùng tim.
Trong Y học nhập môn có đoạn “Mạch âm duy nối liền các khí âm. Nếu khí này không hành thì huyết sẽ không hành được và gây chứng đau ở tim”.
Trong Châm cứu đại thành: “Mạch âm duy khởi ở hội của kinh âm. Nếu khí âm không nối liền với khí âm, người bệnh sẽ bất định. Chứng bệnh chủ yếu là đau vùng tim”.
Nêu rõ vấn đề này, Trung y học khái luận có đoạn: “Khi mạch âm duy bệnh, người bệnh than đau ở tim vì mạch âm duy nối các kinh âm và nằm ở phần âm của cơ thể”.
Một cách tổng quát, chứng hậu đau vùng tim gây nên do huyết ứ tại mạch âm duy và do mạch âm duy nối liền với các kinh (Tỳ, Can) và mạch Nhâm nên chứng đau ngực này có nhiều loại khác nhau:
− Đau ngực có liên quan đến Tỳ (kiểu Tỳ): đau ngực có đặc điểm như kim đâm. Có thể có kèm với mất ý thức và đau đầu. Thiên 24, sách Linh khu có nêu “Chứng quyết tâm thống làm cho bệnh nhân đau như dùng cây chùy đâm vào Tâm. Tâm bị thống nặng gọi là Tỳ tâm thống....
− Đau ngực có liên quan đến Can (kiểu Can): đau ngực kiểu Can rất nặng làm bệnh nhân không thở được, có thể kèm với đau đầu vùng thái dương. Thiên Quyết bệnh sách Linh khu: “Chứng quyết tâm thống làm cho sắc mặt bị xanh, xanh như màu của người chết, suốt ngày không thở được một hơi dài....
− Đau ngực có liên quan đến mạch Nhâm (đau ngực kiểu mạch Nhâm): loại đau ngực này đồng nghĩa với rối loạn toàn bộ 3 kinh âm và như thế tạo nên ngay tức khắc sự mất cân bằng âm dương của cơ thể dẫn đến đau vùng tim. Đau ngực này có đặc điểm lan ra sau lưng; thường kèm với đau hạ sườn, đau vùng cổ gáy....Thường xuất hiện triệu chứng co thắt ngực hoặc hơi dồn lên hay cảm giác thiếu hơi. Đau đầu trong loại này thường khởi đầu ở cổ rồi lan xuống vùng thận.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch âm duy) và cách sử dụng
Huyệt khai của mạch âm duy là nội quan, nằm trên nếp cổ tay 2 thốn, giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé. Huyệt nội quan có quan hệ với huyệt công tôn (mối quan hệ chủ - khách) trong bát mạch giao hội huyệt.
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt nội quan.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt công tôn.
Mạch âm duy
- Mạch Âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hoà quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
- Tất cả các kinh Âm đều bắt nguồn hoặc chấm dứt ở ngực. Do đó, rối loạn mạch Âm duy sẽ sinh chứng đau ở ngực.
- Những huyệt mà mạch Âm duy mượn đường để đi: phú xá, đại hoành, phúc ai (kinh Tỳ); liêm tuyền, thiên đột (mạch Nhâm); kỳ môn (kinh Can); trúc tân (kinh Thận).
- Giao hội huyệt của mạch Xung: nội quan.

Hình 6.1. Mạch Xung và mạch âm duy
III. Hệ thống mạch nhâm, mạch âm kiểu
Mạch Nhâm và mạch âm kiểu là hệ thống thứ 2 mang tính chất âm của 8 mạch khác kinh. Một cách tổng quát, mạch Nhâm hội khí của 3 kinh âm và điều hòa phần trước của cơ thể; mạch âm kiểu điều hòa phần trước của bụng. Như thế mạch Nhâm và mạch âm kiểu có cùng một số tính chất chung:
− Điều hòa khí âm ở phần trước cơ thể.
− Có những huyệt hội chung với nhau (tình minh và trung cực).
A. Mạch nhâm
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch Nhâm khởi lên từ Thận, đến vùng hội âm tại huyệt hội âm, chạy vòng ngược lên xương vệ, qua huyệt quan nguyên, theo đường giữa bụng ngực lên mặt đến hàm dưới tại huyệt thừa tương.
− Từ huyệt thừa tương có những mạch vòng quanh môi, lợi rồi liên lạc với mạch Đốc tại huyệt ngân giao. Cũng từ huyệt thừa tương xuất phát 2 nhánh đi lên 2 bên đến huyệt thừa khấp rối đi sâu vào trong mắt.
2. Những mối liên hệ của mạch Nhâm
− Mạch Nhâm có vai trò rất quan trọng trong vận hành khí huyết ở phần âm của cơ thể (vùng bụng ngực).
− Mạch Nhâm là nơi hội tụ của 3 kinh âm ở chân:
+ Trung quản là huyệt hội của khí thái âm.
+ Huyệt ngọc đường là huyệt hội của khí quyết âm.
+ Huyệt liêm tuyền là huyệt hội của khí thiếu âm.
3. Triệu chứng khi mạch Nhâm rối loạn
Khi mạch Nhâm rối loạn, chủ yếu xuất hiện những triệu chứng sau:
− Đau tức vùng bụng dưới.
− Hơi dồn từ dưới lên.
Thiên 41 sách Tố vấn: “Bệnh ở mạch Nhâm làm đau thắt lưng, đau trước .......... vùng thấp kèm xuất hạn mồ hôi; mồ hôi xuất ra, người bệnh khát nhiều...”.
− Những biểu hiện bệnh lý:
+ ở nam: co rút bìu, đau tinh hoàn, tinh hoàn ứ nước.
+ ở nữ: khí hư, rối loạn kinh nguyệt, hiếm muộn.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch Nhâm) và cách sử dụng
Huyệt liệt khuyết là huyệt khai của mạch Nhâm, nằm ở bờ ngoài cẳng tay, trên nếp cổ tay 1,5 thốn. Huyệt liệt khuyết có quan hệ với huyệt chiếu hải của mạch âm kiểu (mối quan hệ chủ - khách).
Theo sách Châm cứu đại thành, huyệt liệt khuyết được chỉ định trong những trường hợp: trĩ, sa trực tràng, khạc đờm có máu, tiểu khó, tiểu máu, đau vùng tim, đau bụng. ở phụ nữ dùng chữa chứng rối loạn tinh Thần sau khi sinh kèm đau khớp, đau lưng, lạnh quanh rốn, thai chết trong bụng, đau thắt lưng.
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt liệt khuyết.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt chiếu hải.
Mạch nhâm
- Mạch nhâm có những đặc điểm:
+ Mạch khác kinh có huyệt riêng của mình (không mượn huyệt của các đường kinh khác để đi).
+ Phân bố chủ yếu vùng bụng và ngực (phần âm của cơ thể).
- Do những đặc điểm phân bố trên mà những rối loạn của sinh dục - tiết niệu là những chỉ định điều trị của mạch Nhâm.
- Giao hội huyệt của mạch Nhâm: liệt khuyết

Hình 6.2. Mạch Nhâm và mạch Âm kiểu
B. Mạch âm kiểu
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch âm kiểu xuất phát từ kinh chính Thận (từ huyệt nhiên cốc), chạy đến huyệt chiếu hải (nằm ngay dưới mắt cá trong) rồi đến huyệt giao tín; chạy lên theo mặt trong cẳng chân và đùi, đi vào trong bụng dưới; chạy theo mặt trong thành bụng lên ngực và xuất hiện ở hố thượng đòn tại huyệt khuyết bồn, chạy tiếp đến huyệt nhân nghinh; chạy tiếp lên mặt, đi sâu vào xương hàm trên và đến tận cùng ở khóe mắt trong để nối với túc thái dương Bàng quang kinh tại huyệt tình minh (huyệt giao hội của các kinh thái dương, dương minh và mạch âm kiểu).
2. Những mối liên hệ của mạch âm kiểu Mạch âm kiểu có những liên hệ với:
− Kinh chính Thận qua việc xuất phát từ huyệt nhiên cốc của kinh Thận và thông qua những huyệt chiếu hải, giao tín.
− Kinh chính của Vị thông qua những huyệt khuyết bồn nhân nghinh.
− Mạch Nhâm trong mối quan hệ chủ - khách và thông qua huyệt trung cực.
3. Triệu chứng khi mạch âm kiểu rối loạn
Triệu chứng chủ yếu xuất hiện khi mạch âm kiểu bị rối loạn là tình trạng ngủ gà hoặc ly bì.
Thiên Đại luận, sách Linh khu có đoạn: “Khi mà vệ khí lưu lại ở âm phận mà không vận hành đến được nơi dương phận thì âm khí sẽ bị thịnh. âm khí thịnh thì mạch âm kiểu đầy.... vì thế mắt cứ phải nhắm lại”.
Thiên thứ 21 (Hàn nhiệt bệnh), sách Linh khu có đoạn: “Khi đầu hay mắt bị khổ thống, thủ huyệt nằm ở giữa 2 đường gân giữa cổ nhập vào não. Đây là nơi tương biệt với mạch âm kiểu và Dương kiểu, là nơi giao hội giữa các đường kinh âm dương, là nơi mà mạch Dương kiểu nhập vào âm và mạch âm kiểu xuất ra ở dương để rồi giao nhau ở khóe mắt trong. Khi nào dương khí thịnh thì mắt mở trừng, khi nào âm khí thịnh thì mắt nhắm lại”.
Để tổng kết về triệu chứng chủ yếu của mạch âm kiểu khi bị rối loạn, có thể nêu ra đây đoạn văn sau trong Trung y học khái luận, chương I: “Khi mạch âm kiểu bị rối loạn, dương khí của cơ thể bị hư, âm khí trở nên thịnh. Vì thế người bệnh luôn luôn cảm thấy buồn ngủ.
Một triệu chứng khác cũng được đề cập trong những tài liệu kinh điển khi mạch âm kiểu bị rối loạn là chứng nói khó. Thiên 41, sách Tố vấn có đoạn: “Mạch âm kiểu cảm phải ngoại tà, làm đau thắt lưng lan đến cổ, người bệnh nhìn thấy mờ. Nếu cảm nặng, thời người ngửa ra sau, lưỡi cứng và không nói ra được.
Ngoài ra mạch âm kiểu còn được đề cập đến trong trị liệu chứng đau nhức mà vị trí đau khó xác định.
Thiên Quan năng, sách Linh khu có đoạn: “Nếu có chứng đau nhức mà không có bộ vị nhất định, ta chọn huyệt thân mạch là nơi mà mạch Dương kiểu đi qua, hoặc huyệt chiếu hải là nơi mà mạch âm kiểu đi qua; ở người đàn ông thì ta chọn mạch Dương kiểu, ở người đàn bà thì ta chọn mạch âm kiểu”.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt) của mạch âm kiểu và cách sử dụng
Huyệt khai của mạch âm kiểu là huyệt chiếu hải của kinh Thận, nằm ở hõm dưới mắt cá trong. Huyệt chiếu hải có quan hệ với huyệt liệt khuyết trong mối quan hệ chủ - khách của hệ thống mạch Nhâm và mạch âm kiểu.
Theo sách Châm cứu đại thành thì huyệt chiếu hải được sử dụng trong những trường hợp co thắt thanh quản, tiểu đau, đau bụng dưới, đau vùng hố chậu, tiểu máu lẫn đàm nhớt. Trên người phụ nữ, có thể dùng điều trị khó sinh do tử cung không co bóp, rong kinh.
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt chiếu hải.
− Kế tiếp là châm nhữmg huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt liệt khuyết.
Mạch âm kiểu
- Mạch âm kiểu có đặc điểm: mạch đi từ mắt cá trong đến khoé mắt trong. Lộ trình của mạch Âm kiểu theo phần âm của cơ thể (mặt trong chi dưới, mặt trong bụng ngực).
- Mạch Âm kiểu được chỉ định trong điều trị những trường hợp âm khí thịnh (dương khí hư suy): tri giác lơ mơ, ngủ gà, nói khó, cứng lưỡi.
- Những huyệt mà mạch Âm kiểu mượn đường để đi: khuyết bồn, nhân nghinh (kinh Vị); nhiên cốc, chiếu hải, giao tín (kinh Thận).
- Giao hội huyệt của mạch Âm kiểu: chiếu hải.
IV. Hệ thống mạch đốc, mạch dương kiểu
Mạch Đốc và mạch Dương kiểu hợp thành hệ thống mạch thứ nhất mang tính chất dương. Cả 2 mạch đều có một đặc điểm chung là phân bố ở vùng phần dương của cơ thể và hợp nhau ở huyệt tình minh nhánh lên của mạch Đốc theo kinh cân của túc thái dương đến cổ, mặt rồi đến huyệt tình minh. Mạch Dương kiểu chạy theo vùng dương của cơ thể lên mặt và tận cùng ở huyệt tình minh).
A. Mạch Đốc
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch Đốc bắt nguồn từ Thận, chạy đến huyệt hội âm, chạy tiếp đến huyệt trường cường. Từ đây đường kinh chạy tiếp lên trên dọc theo cột sống đến cổ tại huyệt phong phủ (từ đây đường kinh có nhánh đi sâu vào não), chạy tiếp lên đỉnh đầu đến huyệt bách hội, vòng ra trước trán, xuống mũi, môi trên (huyệt nhân trung) và ngân giao ở nướu răng hàm trên.
Từ huyệt phong phủ (ở gáy), có nhánh đi ngược xuống 2 bả vai để nối với kinh cân của túc thái dương Bàng quang, chạy tiếp xuống mông và tận cùng ở bộ sinh dục - tiết niệu. Từ đây (từ huyệt trung cực) xuất phát 2 nhánh:
− Nhánh đi lên trên: theo kinh cân Tỳ đến rốn. Tiếp tục đi lên theo mặt sau thành bụng, qua Tâm, xuất hiện trở ra ngoài da ở ngực để nối với kinh cân của Bàng quang ở ngực, chạy tiếp đến cổ, mặt, đi sâu vào đồng tử và chấm dứt ở huyệt tình minh.
− Nhánh đi xuống: theo bộ phận sinh dục - tiết niệu đến trực tràng, đến mông (nối với kinh cân Bàng quang tại đây) rồi chạy ngược lên đầu đến tận cùng ở huyệt tình minh (từ đây đi sâu vào não). Lại theo kinh chính Thận đi xuống đến thắt lưng ở huyệt Thận du rồi cho nhánh đi vào Thận.
2. Những mối liên hệ của mạch Đốc
Mạch Đốc nhận tất cả kinh khí từ các đường kinh dương của cơ thể (bể của các kinh dương). Mạch Đốc cùng với tất cả những kinh dương (thái dương, dương minh, thiếu dương) hòa hợp với nhau và tạo thành dương của cơ thể.
Mạch Đốc có tác dụng:
− Điều chỉnh và phấn chấn dương khí toàn thân.
− Duy trì nguyên khí của cơ thể.
3. Triệu chứng khi mạch Đốc bị rối loạn
Tùy theo tình trạng thực hay hư mà có biểu hiện khác nhau:
− Trong trường hợp thực: đau và cứng cột sống.
− Trong trường hợp hư: cảm giác đầu trống rỗng, váng đầu.

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Châm Cứu Học - NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu

Vị trí và tác dụng điều trị của những huyệt thông dụng (Phần 3)

86. Giản sử
− Kinh kim huyệt của Tâm bào. Huyệt còn có tên gian sử, quỷ lộ.
− Vị trí: huyệt nằm trên nếp cổ tay 3 thốn, giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé.
− Tác dụng: định Thần, khử đờm, điều tâm khí, thanh Thần chí, sơ giải tà khí ở quyết âm và thái dương; dùng điều trị đau cánh tay, nóng gan bàn tay, tâm phiền, hồi hộp, đau vùng tim, trúng phong đờm dãi nhiều, nôn, khản tiếng, điên cuồng.
87. Nội quan
− Lạc huyệt của Tâm bào, giao hội huyệt của kinh thủ quyết âm và âm duy mạch.
− Vị trí: từ đại lăng đo lên 2 thốn, giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé.
− Tác dụng: thanh tâm bào, sơ tam tiêu, định tâm an Thần, hòa vị, lý khí, trấn thống; dùng để điều trị đau tại chỗ, hồi hộp, đánh trống ngực, nôn, đầy bụng.
88. Đại lăng
− Nguyên huyệt, du thổ huyệt của Tâm bào. Huyệt còn có tên tâm chủ, quỷ tâm.
− Vị trí: mặt trong tay, trên nếp cổ tay, giữa 2 gân cơ gan tay dài và gấp chung các ngón.
thanh tâm định Thần, hòa vị thư ngực, thanh dinh lương huyết;
dùng điều trị đau tại chỗ, lòng bàn tay nóng, đau sườn ngực, đau vùng tim, nôn, cười mãi không ngớt, dễ hoảng hốt.
89. Lao cung
− Huỳnh hỏa huyệt của Tâm bào. Huyệt còn có tên ngũ lý, chưởng trung, quỷ lộ.
− Vị trí: trên đường văn tim, giữa xương bàn ngón 3 và 4.
− Tác dụng: thanh tâm hỏa, trừ thấp nhiệt, tức phong lương huyết, an Thần hòa vị; dùng để điều trị run bàn tay, ra mồ hôi lòng bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim hồi hộp, cười mãi không thôi, loét miệng, sốt về đêm.
90. Trung xung
− Tỉnh mộc huyệt của Tâm bào.
− Vị trí: huyệt ở giữa đầu ngón giữa, chỗ cao nhất của đầu ngón tay, cách móng tay độ 0,2 thốn.
− Tác dụng: điều trị lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi, đau vùng tim, tâm phiền, trúng phong, bất tỉnh, hôn mê, sốt không ra mồ hôi.
J. Kinh tam tiêu
91. Quan xung
− Tỉnh kim huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: huyệt ở trên đường tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn tay của bờ trong ngón nhẫn, ngang gốc móng tay, cách góc móng tay 0,2 thốn.
− Tác dụng: sơ khí hỏa kinh lạc, giải uất nhiệt ở tam tiêu; dùng để điều trị đau tay, đau bụng, nứt lưỡi, đau nặng đầu, phiền táo, sốt không ra mồ hôi.
92. Dịch môn
− Huỳnh thủy huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: huyệt nằm ở khe ngón tay 4 - 5, nơi tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn tay (ngang chỗ tiếp nối giữa thân và đầu gần xương đốt 1 ngón tay).
− Tác dụng: điều trị đau bàn tay, đau cánh tay, sưng đau họng, điếc, đau mắt, sốt rét.
93. Trung chữ
− Du mộc huyệt của Tam tiêu. Huyệt còn có tên là hạ đô.
− Vị trí: trên lưng bàn tay, giữa xương bàn ngón 4 -5, ngang với nơi tiếp giáp của đầu gần và thân xương bàn ngón 4.
Tác dụng: sơ khí cơ của thiếu dương, giải tà nhiệt ở Tam tiêu, lợi nhĩ khiếu; dùng điều trị ngón tay co duỗi khó khăn, đau cánh tay, sưng họng, ù điếc tai, mắt mờ, đau đầu, sốt.
94. Dương trì
− Nguyên huyệt của Tam tiêu. Huyệt còn có tên là biệt dương.
− Vị trí: mặt ngoài tay, lõm giữa 2 gân co duỗi chung các ngón tay và duỗi riêng ngón út.
− Tác dụng: thư cân, thông lạc giải nhiệt, giải tà ở bán biểu bán lý; dùng để điều trị đau tại chỗ, đau vai, đau tai, điếc tai, đau họng, sốt rét, tiêu khát.
95. Ngoại quan
− Lạc huyệt của Tam tiêu, một trong bát mạch giao hội thông ở Dương duy mạch.
− Vị trí: trên nếp gấp cổ tay 2 thốn, giữa xương quay và xương trụ.
− Tác dụng: khu lục dâm ở biểu, sơ uất nhiệt ở tam tiêu, sơ giải biểu nhiệt, thông khí trệ ở kinh lạc; dùng để điều trị đau tại chỗ, run tay, co tay khó, ù điếc tai, đau đầu, giải nhiệt ngoại cảm.
96. Chi câu
− Kinh hỏa huyệt của Tam tiêu. Huyệt còn có tên chi cấu, phi hổ.
− Vị trí: trên nếp gấp cổ tay 3 thốn, giữa xương quay và xương trụ.
− Tác dụng: thanh tam tiêu, thông phủ khí, giáng nghịch hỏa, tuyên khí cơ, tán ứ kết, thông trường phủ; dùng để điều trị tay vai ê nhức, đau sưng bên cạnh cổ, đau nhói vùng tim, đau sườn ngực, sốt, đầu váng mắt hoa sau khi sinh, táo bón.
97. Hội tông
− Khích huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: lấy ở sát bờ xương trụ, mặt sau cẳng tay, trên huyệt dương trì 3 thốn, cách ngoại quan 1 khoát ngón tay về phía ngón út.
− Tác dụng: điều trị điếc tai, động kinh.
98. Thiên tỉnh
− Hợp thổ huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: chỗ lõm ngay trên đầu mỏm khuỷu xương trụ, trên khớp khuỷu 1 thốn.
− Tác dụng: điều trị đau khớp khuỷu, run tay, đau vai, đau gáy, đau cổ, đau họng, điếc tai, đau mắt, đau nửa đầu, động kinh, co giật.
99. ế phong
− Giao hội huyệt của thủ túc thiếu dương.
− Vị trí: ấn dái tai xuống khe giữa xương chũm và xương hàm dưới, tận cùng dái tai chạm đâu thì đó là huyệt.
− Tác dụng: điều khí cơ của tam tiêu, thông khiếu, thông nhĩ, minh mục, khu phong tiết nhiệt, sơ phong thông lạc; dùng để điều trị đau tai, ù điếc tai, viêm họng, quai bị, liệt mặt.
K. Kinh đởm
100. Phong trì
− Hội của thủ túc thiếu dương và Dương duy mạch.
− Vị trí: dưới đáy hộp sọ, bờ trong cơ ức đòn chũm và bờ ngoài cơ thang.
− Tác dụng: khu phong, giải biểu nhiệt, sơ tà thanh nhiệt, thông nhĩ minh mục; dùng để điều trị đau đầu vùng gáy, cảm, đau mắt, cận, nghẹt mũi, cao huyết áp, sốt, trúng phong.
101. Nhật nguyệt
− Mộ huyệt của Đởm, giao hội huyệt của túc thái âm và túc thiếu dương với Dương duy mạch. Huyệt còn có tên là Thần quang.
− Vị trí: huyệt nằm ở kẽ liên sườn 7 - 8 trên đường trung đòn.
− Tác dụng: sơ đởm khí, hóa thấp nhiệt, hòa trung tiêu; dùng để điều trị đau cạnh sườn, đau vùng gan mật, nôn nấc.
102. Kinh môn
− Mộ huyệt của Thận.
− Vị trí: đầu xương sườn tự do 12.
− Tác dụng: ôn thận hàn, dẫn thủy thấp, giáng vị nghịch; dùng để điều trị cơn đau quặn thận, đầy bụng, tiêu chảy.
103. Hoàn khiêu
− Giao hội huyệt của túc thiếu dương, thái dương. Huyệt còn có tên là bân cốt, tẩn cốt, bễ chu, bễ xu, phân trung, bễ yếu, khu trung, hoàn cốc.
− Vị trí: giao điểm của 1/3 ngoài và 2/3 trong đường nối từ mỏm cùng cụt đến mấu chuyển lớn xương đùi.
− Tác dụng: đau ở mông, đau Thần kinh tọa, liệt nửa người.
104. Dương lăng tuyền
− Hội huyệt của cân, hợp thổ huyệt của Đởm.
Vị trí: hõm trước và dưới đầu trên xương mác.
− Tác dụng: thư cân mạch, mạnh gân cốt, thanh đởm nhiệt, thanh thấp nhiệt; dùng để điều trị đau đầu gối, đau Thần kinh tọa rễ L5, đau nửa đầu, liệt nửa người, đau hông sườn, chân tay co rút khó co duỗi.

Hình 7.4. Huyệt vùng bụng ngực
105. Dương giao
− Khích huyệt của Dương duy mạch. Huyệt còn có tên là biệt dương, túc mão.
− Vị trí: huyệt ở trên mắt cá ngoài chân 7 thốn, gần bờ sau xương mác, trong khe cơ mác bên dài và cơ mác bên ngắn.
− Tác dụng: liệt chân, đau đầu gối, ngực sườn đầy tức, miệng đắng.
106. Ngoại khâu
− Khích huyệt của Đởm. Huyệt còn có tên là ngoại khưu.
− Vị trí: huyệt ở trên mắt cá ngoài chân 7 thốn, bờ sau xương mác, trong khe cơ mác bên dài và cơ dép.
− Tác dụng: điều trị đau cẳng chân, đau túi mật, đau tức ngực, điên.
107. Quang minh
− Lạc huyệt của Đởm.
− Vị trí: đỉnh cao mắt cá ngoài đo lên 5 thốn, sát bờ trước xương mác.
− Tác dụng: điều Can, minh mục, khu phong lợi thấp; dùng để điều trị đau cẳng chân, đau đầu gối, hoa mắt, mờ mắt.
108. Dương phụ
− Kinh hỏa huyệt của Đởm. Huyệt còn có tên là phân nhục, phân gian.
Vị trí: huyệt ở trên mắt cá ngoài chân 4 thốn, sát bờ trước xương mác.
− Tác dụng: đau cẳng chân, đầu gối, chuột rút, đau họng, đau mắt, đau đầu, đau các khớp toàn thân.
109. Huyền chung
− Hội huyệt của tủy, lạc huyệt của túc tam dương. Huyệt còn có tên là tủy hội, tuyệt cốt.
− Vị trí: huyệt ở trên mắt cá ngoài chân 4 thốn, sát bờ trước xương mác.
− Tác dụng: tiết đởm hỏa, thanh tủy nhiệt, đuổi phong thấp ở kinh lạc; dùng để điều trị đau cẳng chân, đau khớp gối, đau lưng, liệt nửa người, cổ vẹo, đau họng, nhức trong xương.
110. Khâu khư
− Nguyên huyệt của Đởm. Huyệt còn có tên là khưu khư, khoeo hư.
− Vị trí: hõm trước dưới mắt cá ngoài (giữa huyệt giải khê và thân mạch).
− Tác dụng: khu tà ở bán biểu bán lý, sơ can lợi đởm, thông lạc, hóa thấp nhiệt, sơ huyết khí; dùng để điều trị đau bàn chân, cổ chân, đau hông sườn, đắng miệng, vẹo cổ, mắt có màng, chuột rút.
111. Túc lâm khấp
− Du mộc huyệt của Đởm, giao hội với Đới mạch.
− Vị trí: huyệt ở kẽ xương bàn chân 4 và 5, chỗ lõm sau gân cơ duỗi ngón chân út của cơ duỗi chung các ngón chân.
− Tác dụng: thanh hỏa tức phong, minh mục thông nhĩ, sơ khí trệ can đởm, hóa đởm nhiệt, thông điều đới mạch; dùng để điều trị sưng đau bàn chân, đau tức mạng sườn, hoa mắt, đau đầu.
112. Hiệp khê
− Huỳnh thủy huyệt của Đởm.
− Vị trí: huyệt ở đầu kẽ giữa 2 ngón chân 4 và 5 (khi ép 2 đầu của các ngón chân 4 và 5 lại với nhau).
− Tác dụng: đau sưng lưng bàn chân, ngực sườn đầy tức, hoa mắt, đau mắt, ù tai, điếc tai, sốt.
113. Túc khiếu âm
− Tỉnh kim huyệt của Đởm. Huyệt còn có tên là khiếu âm.
− Vị trí: huyệt trên đường tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn chân, phía ngoài ngón chân thứ 4, ngang với góc của móng chân và cách góc móng chân 0,2 thốn.
Tác dụng: tức phong dương, thanh can đởm, sơ phong hỏa; dùng để điều trị đau sườn ngực, đau họng, đau đầu, đau mắt, điếc tai, mất tiếng đột ngột, sốt.
L. Kinh can
114. Đại đôn
− Tỉnh mộc huyệt của Can. Huyệt còn có tên thủy tuyền, đại thuận.
− Vị trí: huyệt ở trên đầu ngón chân cái, cách góc móng chân 0,2 thốn.
− Tác dụng: sơ tiết quyết khí, điều kinh hòa vinh, lý hạ tiêu, thanh Thần chí, hồi quyết nghịch; dùng điều trị băng huyết, sa dạ con, sưng tinh hoàn, đái dầm, đái đục, thoát vị.
115. Hành gian
− Huỳnh hỏa huyệt của Can.
− Vị trí: đầu nếp ép ngón chân 1 và 2.
− Tác dụng: tiết can hỏa, lương huyết nhiệt, thanh hạ tiêu, dập tắt phong dương, sơ khí trệ; dùng điều trị đau ngón chân, đau vùng sinh dục ngoài, đau sườn, đau mắt đỏ, động kinh, nôn, mất ngủ, tiêu chảy.
116. Thái xung
− Nguyên huyệt, du thổ huyệt của Can.
− Vị trí: kẽ xương bàn ngón chân 1 và 2, nơi tiếp nối đầu và thân xương bàn chân.
− Tác dụng: bình can lý huyết, thông lạc, thanh tức can hỏa, sơ tiêu hạ tiêu thấp nhiệt; dùng để điều trị đau bàn chân, rong kinh, tiểu đục, kinh phong trẻ em, cao huyết áp.
117. Trung phong
− Kinh kim huyệt của Can. Huyệt còn có tên là huyền tuyền.
− Vị trí: huyệt ở trước mắt cá trong 1 thốn (chỗ lõm sát bờ trong gân cơ chày trước).
− Tác dụng: sơ can, thông lạc; dùng để điều trị bàn chân lạnh, đau mắt cá trong, đau bụng dưới, thoát vị, đái khó, đái rắt, di tinh.
118. Lãi câu
− Lạc huyệt của Can. Huyệt còn có tên là lai cấu, giao nghi.
− Vị trí: đỉnh cao mắt cá trong đo lên 5 thốn (huyệt ở khoảng 1/3 sau của mặt trong xương chày).
− Tác dụng: đau cẳng chân, kinh nguyệt không đều, băng huyết, tiểu khó.

Hình 7.5. Huyệt vùng chân
119. Trung đô
− Khích huyệt của Can. Huyệt còn có tên là trung khích, thái âm.
− Vị trí: đỉnh cao mắt cá trong đo lên 7 thốn (huyệt ở khoảng 1/3 sau của mặt trong xương chày).
− Tác dụng: đau bụng dưới, sưng tinh hoàn, băng huyết, viêm bàng quang cấp, đái khó, đái buốt.
120. Khúc tuyền
− Hợp thủy huyệt của Can.
− Vị trí: huyệt ở đầu trong nếp gấp khoeo chân, trước và trên huyệt âm cốc, trong khe của gân cơ bán mạc và gân cơ thẳng trong.
− Tác dụng: thanh thấp nhiệt, lợi bàng quang, tiết can hỏa, thông hạ tiêu, tiêu đờm ứ, trợ vận hóa; dùng để điều trị đau mặt trong khớp gối và mặt trong đùi, đau bụng dưới, đau bộ phận sinh dục ngoài, hoa mắt, chóng mặt.
121. Chương môn
− Mộ huyệt của Tỳ. Huyệt còn có tên là trương bình, lặc liêu, quy lặc.
− Vị trí: đầu xương sườn tự do 11.
Tác dụng: tán hàn khí ở ngũ tạng, hóa tích trệ ở trung tiêu, tiêu ứ đờm; dùng để điều trị đau Thần kinh liên sườn, đầy bụng, sôi bụng, kém ăn, nôn.
122. Kỳ môn
− Mộ huyệt của can.
− Vị trí: giao điểm của đường trung đòn với liên sườn 6 (kẽ sườn 6 và 7).
− Tác dụng: đuổi tà nhiệt ở huyết, điều hòa bán biểu bán lý, hóa đờm tiêu ứ, bình can lợi khí; dùng để điều trị đau hạ sườn, mờ mắt, ợ và nôn nước chua, không ăn được.
M. Mạch nhâm
123. Trung cực
− Mộ huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: đường giữa bụng, bờ trên xương mu đo lên 1 thốn (rốn xuống 4 thốn).
− Tác dụng: đau bụng kinh, rối loạn kinh nguyệt, bí tiểu, tiểu buốt, rắt, di tinh, liệt dương, phù thũng.
124. Quan nguyên
− Mộ huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: từ rốn đo xuống 3 thốn (đường giữa bụng).
− Tác dụng: điều trị đau bụng kinh, rối loạn kinh nguyệt, di mộng tinh, tiểu dầm, buốt, rắt; phù thũng, cấp cứu chứng thoát của trúng phong. Huyệt dùng để bổ các chứng hư tổn.
125. Thạch môn
− Mộ huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: huyệt nằm dưới rốn 2 thốn.
− Tác dụng: điều trị đau quặn bụng dưới, tiêu chảy, tiểu đục, tiểu buốt rắt, băng huyết, rong huyết, bế kinh, ăn không tiêu, phù thũng.
126. Trung quản
− Mộ huyệt của Vị.
− Vị trí: từ rốn đo lên 4 thốn (đường giữa bụng).
− Tác dụng: điều trị đau ngực, ợ hơi, nôn mửa, đầy hơi, kiết lỵ, tiêu chảy.
127. Cự khuyết
− Mộ huyệt của Tâm.
− Vị trí: từ rốn lên 6 thốn (đường giữa ngực).
− Tác dụng: điều trị đau ngực, nấc, nôn, ợ chua, hồi hộp, điên cuồng, kinh giật, hay quên.
128. Đản trung
− Mộ huyệt của Tâm bào.
− Vị trí: giao điểm của đường giữa ngực với kẽ liên sườn 4 - 5.
− Tác dụng: điều trị đau tức ngực, hen suyễn, khó thở, nấc, ít sữa.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu hỏi 5 chọn 1 - Chọn câu ĐúNG
1. Huyệt trung phủ nằm ở khoảng liên sườn 2
A. Ngoài mạch Nhâm 4 thốn
B. Ngoài mạch Nhâm 5 thốn
C. Ngoài mạch Nhâm 6 thốn
D. Ngoài mạch Nhâm 7 thốn
E. Ngoài mạch Nhâm 8 thốn
2. Huyệt xích trạch có vị trí
A. Trên nếp gấp khuỷu tay, bờ ngoài tấm gân cơ 2 đầu
B. Trên nếp gấp khuỷu tay, bờ trong tấm gân cơ 2 đầu
C. Cuối nếp gấp trong khuỷu tay
D. Cuối nếp gấp ngoài khuỷu tay
E. Chân móng ngón tay út (phía trong)
3. Huyệt tam gian là
A. Du thổ huyệt
B. Huỳnh thủy huyệt
C. Du mộc huyệt
D. Huỳnh hỏa huyệt
E. Nguyên huyệt
4. Huyệt hợp cốc là
A. Lạc huyệt
B. Khích huyệt
C. Nguyên huyệt
D. Du thổ huyệt
E. Du mộc huyệt
5. Huyệt thiên lịch nằm trên đường nối từ dương khê đến khúc trì
A. Từ huyệt dương khê đo lên 1,5 thốn
B. Từ huyệt dương khê đo lên 2 thốn
C. Từ huyệt dương khê đo lên 3 thốn
D. Từ huyệt dương khê đo lên 4 thốn
E. Từ huyệt dương khê đo lên 5 thốn
6. Huyệt giáp xa thuộc kinh
A. Tiểu trường
B. Đại trường
C. Đởm
D. Vị
E. Bàng quang
7. Huyệt thiên xu là mộ huyệt của kinh
A. Tiểu trường
B. Đại trường
C. Đởm
D. Vị
E. Bàng quang
8. Huyệt nội đình của kinh Vị là
A. Khích huyệt
B. Huỳnh thủy huyệt
C. Du mộc huyệt
D. Huỳnh hỏa huyệt
E. Du thổ huyệt
9. Huyệt thương khâu có vị trí
A. Chỗ lõm dưới mắt cá trong
B. Chỗ lõm dưới mắt cá ngoài
C. Chỗ lõm trước dưới mắt cá trong
D. Chỗ lõm trước dưới mắt cá ngoài
E. Trước đầu xa xương bàn ngón 1
10. Huyệt tam âm giao có vị trí ở bờ sau trong xương chày và
A. Từ đỉnh cao mắt cá trong đo lên 1,5 thốn
B. Từ đỉnh cao mắt cá trong đo lên 2 thốn
C. Từ đỉnh cao mắt cá trong đo lên 2,5 thốn
D. Từ đỉnh cao mắt cá trong đo lên 3 thốn
E. Từ đỉnh cao mắt cá trong đo lên 3,5 thốn
11. Huyệt âm lăng tuyền nằm sát bờ sau trong xương chày
A. Trên mâm xương chày 0,5 thốn
B. Trên mâm xương chày 1 thốn
C. Dưới mâm xương chày 0,5 thốn
D. Dưới mâm xương chày 1 thốn
E. Ngay dưới mâm xương cày
12. Huyệt thiếu hải là
A. Khích huyệt
B. Hợp thổ huyệt
C. Huyệt đặc hiệu chữa mất ngủ
D. Kinh kim huyệt
E. Hợp thủy huyệt
13. Huyệt thông lý nằm ở bờ ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ và trên huyệt Thần môn
A. 0,5 thốn
B. 1 thốn
C. 1,5 thốn
D. 2 thốn
E. 2,5 thốn
14. Huyệt âm khích nằm ở bờ ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ và trên huyệt
Thần môn
A. 0,5 thốn D. 2 thốn
B. 1 thốn E. 2,5 thốn
C. 1,5 thốn
15. Huyệt dưỡng lão có vị trí từ đầu mỏm trâm trụ đo lên
A. 0,5 thốn D. 2 thốn
B. 1 thốn E. 3 thốn
C. 1,5 thốn
16. Huyệt chi chính nằm trên đường nối từ mỏm trâm trụ với rãnh trụ, từ mỏm trâm trụ đo lên
A. 2 thốn D. 5 thốn
B. 3 thốn E. 6 thốn
C. 4 thốn
17. Huyệt phế du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D1 -D2 D. Đốt sống lưng D4 -D5
B. Đốt sống lưng D2 -D3 E. Đốt sống lưng D5 -D6
C. Đốt sống lưng D3 -D4
18. Huyệt tâm du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D2 - D3 D. Đốt sống lưng D5 - D6
B. Đốt sống lưng D3 - D4 E. Đốt sống lưng D6 - D7
C. Đốt sống lưng D4 - D5
19. Huyệt cách du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D4 - D5
B. Đốt sống lưng D5 - D6 D. Đốt sống lưng D7 - D8
E. Đốt sống lưng D8 - D9
C. Đốt sống lưng D6 - D7
20. Huyệt cách du là huyệt hội của
A. Khí D. Phủ
B. Tạng E. Cân
C. Huyết
21. Huyệt vị du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D10 -D11
B. Đốt sống lưng D11 -D12
E. Đốt sống thắt lưng L2 -L3
C. Đốt sống lưng D12 -L1
D. Đốt sống thắt lưng L1 -L2
22. Huyệt tam tiêu du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D10 - D11 D. Đốt sống thắt lưng L1 - L2
B. Đốt sống lưng D11 - D12 E. Đốt sống thắt lưng L2 - L3
C. Đốt sống lưng D12 - L1
23. Huyệt thận du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D10 - D11 D. Đốt sống thắt lưng L1 - L2 B. Đốt sống lưng D11 - D12 E. Đốt sống thắt lưng L2 - L3
C. Đốt sống lưng D12 - L1
24. Huyệt đại trường du có vị trí từ đường giữa đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn và ngang khoảng
A. Đốt sống lưng D12 - L1 D. Đốt sống thắt lưng L3 - L4
B. Đốt sống thắt lưng L1 - L2 E. Đốt sống thắt lưng L4 - L5 C. Đốt sống thắt lưng L2 - L3
25. Huyệt ủy trung có vị trí
A. Chính giữa nếp lằn khoeo chân đo lên 0,5 thốn
B. Chính giữa nếp lằn khoeo chân đo lên 1 thốn
C. Chính giữa nếp lằn khoeo chân
D. Chính giữa nếp lằn khoeo chân đo xuống 0,5 thốn
E. Chính giữa nếp lằn khoeo chân đo xuống 1 thốn
26. Huyệt phi dương có vị trí
A. Từ đỉnh mắt cá trong kéo thẳng lên 5 thốn
B. Từ đỉnh mắt cá trong kéo thẳng lên 7 thốn
C. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 3 thốn
D. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 5 thốn
E. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 7 thốn
27. Huyệt phụ dương có vị trí
A. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 2 thốn
B. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 3 thốn
C. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 4 thốn
D. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 5 thốn
E. Từ đỉnh mắt cá ngoài kéo thẳng lên 7 thốn
28. Huyệt túc khiếu âm là
A. Tỉnh kim huyệt
B. Huỳnh thủy huyệt
C. Tỉnh mộc huyệt
D. Huỳnh hỏa huyệt
E. Giao hội huyệt của kinh Đởm và mạch Dương duy
29. Huyệt đại đôn là A. Tỉnh mộc huyệt
B. Huỳnh hỏa huyệt
C. Lạc huyệt
D. Tỉnh kim huyệt
E. Huỳnh thủy huyệt
30. Huyệt thái xung có vị trí A. Đầu nếp ép ngón chân 1 và 2
B. Kẽ xương bàn ngón chân 1 và 2, nơi tiếp nối đầu gần và thân xương bàn chân
C. Kẽ xương bàn ngón chân 1 và 2, nơi tiếp nối đầu xa và thân xương bàn chân
D. Kẽ xương bàn ngón chân 2 và 3, nơi tiếp nối đầu gần và thân xương bàn chân
E. Kẽ xương bàn ngón chân 2 và 3, nơi tiếp nối đầu xa và thân xương bàn chân

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Châm Cứu Học - NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu

Vị trí và tác dụng điều trị của những huyệt thông dụng (Phần 2)

− Tác dụng: thông tỵ khiếu, tán phong nhiệt, thanh khí hỏa; dùng để điều trị sổ mũi, nghẹt mũi, liệt dây VII.
C. Kinh vị
18. Địa thương
− Huyệt hội của kinh dương minh ở tay và chân với mạch Dương kiểu. Huyệt này còn có tên vị duy, hộ duy.
− Vị trí: giao điểm của đường kéo dài từ khoé miệng ngang ra và rãnh mũi miệng.
− Tác dụng: khu phong tà, thông khí trệ; dùng để điều trị đau răng, liệt dây VII, đau dây Thần kinh mặt.
19. Giáp xa
− Huyệt giáp xa có tên khúc nha, cơ quan, quỷ sàng.
− Vị trí: trên đường nối góc hàm với khoé miệng, cách góc hàm 1 thốn; huyệt nằm trên bờ cao nhất của cơ nhai (khi cắn răng).
− Tác dụng: sơ phong thông lạc, lợi răng khớp; dùng để điều trị đau răng, liệt mặt, đau dây Thần kinh V.
20. Thiên xu
− Mộ huyệt của Đại trường. Huyệt này còn có tên thiên khu, tường khê, cốc môn, trường cốc, tuần tế, tuần nguyên, phát nguyên.
− Vị trí: từ rốn đo ngang ra 2 bên mỗi bên 2 thốn.
− Tác dụng: sơ điều đại trường, lý khí tiêu trệ; dùng để điều trị đau bụng, rối loạn tiêu hóa, ăn không tiêu, nôn, táo bón, tiêu chảy.
21. Lương khâu
− Khích huyệt của Vị. Huyệt còn có tên lương khưu, hạc đỉnh, khóa cốt.
Vị trí: huyệt ở trên góc trên ngoài xương bánh chè 2 thốn, trong khe giữa gân cơ thẳng trước và cơ rộng ngoài của cơ tứ đầu đùi.
− Tác dụng: thông điều vị khí, hòa trung giáng nghịch, khu phong hóa thấp; dùng để điều trị đau sưng gối, cơn đau dạ dày, tắc tia sữa, viêm tuyến vú.
22. Túc tam lý
− Hợp thổ huyệt của Vị. Huyệt này còn có tên là hạ tam lý, hạ lăng, quỷ tà.
− Vị trí: hõm dưới ngoài xương bánh chè đo xuống 3 thốn, cách mào chày 1 thốn.
− Tác dụng: lý tỳ vị, điều trung khí, hòa trường tiêu trệ, thông điều kinh lạc khí huyết, phù chính, bồi nguyên, bổ hư nhược; dùng để điều trị đau sưng gối, liệt nửa người, đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa, tắc tia sữa, viêm tuyến vú, nâng tổng trạng.
23. Phong long
− Lạc huyệt của Vị.
− Vị trí: bờ trước mắt cá ngoài đo lên 8 thốn, huyệt nằm trong khe cơ duỗi chung các ngón và cơ mác bên ngắn (vểnh bàn chân và xoay bàn chân ra ngoài để nhìn rõ khe cơ).
− Tác dụng: hòa vị khí, hóa đờm thấp, định Thần chí; dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, liệt nửa người, đau bụng, đau ngực, đau họng, đau đầu, nôn, đờm tích, hen suyễn, điên cuồng.
24. Giải khê
− Kinh hỏa huyệt của Vị. Huyệt này còn có tên là hài đái, hài đới.
− Vị trí: lấy ở nếp gấp trước của khớp cổ chân, trong khe gân cơ cẳng chân trước và gân cơ duỗi riêng ngón cái.
− Tác dụng: trợ tỳ khí, hóa thấp trệ, thanh vị nhiệt, định Thần chí; dùng để điều trị đau nhức cổ chân, đầy bụng, đau đầu, đau mắt, mặt sưng nề, đau răng, tắc tia sữa, viêm tuyến vú, đại tiện khó, điên cuồng.
25. Xung dương
− Nguyên huyệt của Vị. Huyệt này còn có tên hội nguyên, phụ dương, hội cốt, hội dũng.
− Vị trí: trung điểm đường nối từ hõm giữa gân cơ chày trước và gân cơ gấp riêng ngón chân cái (ở lằn chỉ cổ chân) đến hõm giữa 2 xương đốt bàn chân
2 và 3.
− Tác dụng: phò thổ hóa thấp, hòa vị định Thần; dùng để điều trị bàn chân sưng đau, đau bụng, liệt nửa người, đau răng, điên cuồng.
26. Hãm cốc
− Du mộc huyệt của Vị.
− Vị trí: khe ngón chân 2 - 3, nơi nối giữa thân và đầu gần xương bàn ngón 2.
− Tác dụng: đau sưng bàn chân, đau bụng, đau mắt, sốt không có mồ hôi.
27. Nội đình
− Huỳnh thủy huyệt của Vị.
− Vị trí: ép sát 2 đầu ngón chân 2 và 3, huyệt ở đầu nếp kẽ 2 ngón chân, huyệt nằm ở mặt lưng bàn chân, ngang chỗ nối thân với đầu gần xương đốt 1 ngón chân.
− Tác dụng: thông giáng vị khí, thanh vị tiết nhiệt, lý khí trấn thống, hòa trường hóa trệ; dùng điều trị đau nhức tại chỗ, đau bụng, đau răng hàm trên, chảy máu cam, đau họng, liệt mặt, lỵ, tiêu chảy, bí trung tiện, sốt không có mồ hôi.
28. Lệ đoài
− Tỉnh kim huyệt của Vị. Huyệt còn có tên tráng cốt, Thần thượng đoan.
− Vị trí: trên đường tiếp giáp da gan chân với da lưng bàn chân, huyệt ở góc ngoài gốc móng chân 2.
− Tác dụng: thông kinh, chống huyết nghịch, hòa vị thanh Thần, sơ tiết tà nhiệt ở dương minh; dùng để điều trị chân lạnh, đầy bụng, đau bụng, đau răng, chảy máu cam, liệt mặt, không muốn ăn, mộng mị, sốt không có mồ hôi.


Hình 7.1. Huyệt vùng đầu

Hình 7.2. Huyệt vùng chi trên
D. Kinh tỳ
29. Ẩn bạch
− Tỉnh mộc huyệt của Tỳ. Huyệt còn có tên quỷ luật, quỷ lũy, quỷ nhãn.
− Vị trí: ở góc trong gốc móng chân cái 0,2 thốn, trên đường tiếp giáp da gan chân với da lưng bàn chân.
− Tác dụng: điều huyết, thống huyết, ích tỳ, phò tỳ, ôn tỳ, thanh tâm, định Thần, ôn dương hồi nghịch; dùng để ùng điều trị tại chỗ, liệt chi dưới, đầy bụng, không muốn ăn, nôn, tiêu chảy, điên cuồng, mạn kinh phong.
30. Đại đô
− Huỳnh hỏa huyệt của Tỳ.
− Vị trí: huyệt ngang chỗ tiếp nối của thân với đầu gần xương đốt 1 ngón cái, ở trên đường tiếp giáp giữa da lưng và da gan bàn chân.
− Tác dụng: dùng để điều trị đau nhức tại chỗ và lân cận, đầy bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, tiêu chảy, người nặng nề, sốt không có mồ hôi.
31. Thái bạch
− Nguyên huyệt, du thổ huyệt của Tỳ.
− Vị trí: mặt trong bàn chân trên đường tiếp giáp giữa da lưng và gan bàn chân, huyệt nằm ở hõm giữa thân và đầu xa của xương bàn chân ngón 1.
− Tác dụng: phò tỳ thổ, hòa trung tiêu, điều khí cơ, trợ vận hóa; dùng để điều trị tại chỗ sưng đau bàn chân, đầy bụng, đau bụng, ăn không tiêu, kiết lỵ, người nặng nề, khó chịu, sốt không có mồ hôi.
32. Công tôn
− Lạc huyệt của Tỳ, một trong bát mạch giao hội huyệt thông với mạch Xung.
− Vị trí: mặt trong bàn chân trên đường tiếp giáp giữa da lưng và gan bàn chân, huyệt nằm ở hõm giữa thân và đầu gần xương bàn ngón chân 1.
− Tác dụng: phò tỳ vị, lý khí cơ, điều huyết hải, hòa Xung mạch; dùng để điều trị sưng đau bàn chân, đau bụng dưới, đau dạ dày, kém ăn, nôn, động kinh.
33. Thương khâu
− Kinh kim huyệt của Tỳ. Huyệt còn có tên là thương khưu.
− Vị trí: ở chỗ hõm dưới mắt cá trong.
− Tác dụng: kiện tỳ vị, tiêu thấp trệ; dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, đau mặt trong đùi, đầy bụng, ăn không tiêu, tiêu lỏng hoặc táo bón, hoàng đản, kinh phong trẻ em, cứng lưỡi.
34. Tam âm giao
− Huyệt hội của 3 kinh thái âm, thiếu âm, quyết âm của chân. Huyệt còn có tên là đại âm, thừa mạng, hạ tam lý.
− Vị trí: đỉnh cao mắt cá trong đo lên 3 thốn, bờ sau trong xương chày.
− Tác dụng: bổ tỳ thổ, trợ vận hóa, thông khí trệ, sơ hạ tiêu, điều huyết thất tinh cung, đuổi phong thấp ở kinh lạc, kiện tỳ hóa thấp, sơ can ích thận; dùng để điều trị đau cẳng chân, tiêu hóa kém, đầy bụng, kinh nguyệt không đều, rong kinh, khí hư, bế kinh, di mộng tinh, rối loạn đường tiểu, đái dầm, toàn thân đau nhức nặng nề, mất ngủ.
35. Địa cơ
− Khích huyệt của Tỳ. Huyệt còn có tên là tỳ xá.
− Vị trí: huyệt ở dưới huyệt âm lăng tuyền 3 thốn, ở sát bờ sau trong xương chày.
− Tác dụng: hòa tỳ lý huyết, hòa vinh huyết, điều bào cung; dùng để điều trị đau bụng, căng tức sườn, không muốn ăn, đau lưng, đái khó, di mộng tinh, trưng hà, kinh nguyệt không đều.
36. Âm lăng tuyền
− Hợp thủy huyệt của Tỳ. Huyệt còn có tên âm chỉ lăng tuyền.
− Vị trí: huyệt nằm sát bờ sau trong xương chày, ngay dưới mâm xương chày.
− Tác dụng: vận trung tiêu, hóa thấp trệ, điều hòa bàng quang, lợi hạ tiêu; dùng điều trị tại chỗ đau sưng gối, lạnh bụng, không muốn ăn, ngực sườn căng tức, bụng cổ trướng, di tinh, đái không tự chủ, đái khó, đái dầm.
37. Huyết hải
− Vị trí: điểm giữa bờ trên xương bánh chè đo lên 1 thốn vào trong 2 thốn.
− Tác dụng: đau mặt trong đùi, mẩn ngứa, kinh nguyệt không đều.
E. Kinh tâm
38. Thiếu hải
− Hợp thủy huyệt của Tâm. Huyệt còn có tên khúc tiết.
− Vị trí: cuối nếp gấp trong nếp khuỷu tay.
− Tác dụng: sơ tâm khí, thanh bào lạc, định Thần chí, hóa đờm diên, thông lạc; dùng để điều trị tại chỗ khuỷu tay co rút, đau vùng tim, đầu váng, mắt hoa, hay quên, điên cuồng.
39. Linh đạo
− Kinh kim huyệt của Tâm.
− Vị trí: huyệt nằm trên huyệt Thần môn 1,5 thốn, bờ ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ.
− Tác dụng: dùng để điều trị đau tại chỗ đau cẳng tay, khuỷu tay, đau vùng tim, kinh sợ, mất tiếng đột ngột.
40. Thông lý
− Lạc huyệt của Tâm.
− Vị trí: huyệt nằm trên huyệt Thần môn 1 thốn, bờ ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ.
− Tác dụng: định tâm an Thần chí, điều tâm khí, tức phong hòa vinh; dùng để điều trị đau tại chỗ, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, đầu đau, hoa mắt, cứng lưỡi không nói được.
41. âm khích
− Khích huyệt của Tâm. Huyệt còn có tên thiếu âm khích, thạch cung, âm ty.
− Vị trí: huyệt nằm trên huyệt Thần môn 0,5 thốn, bờ ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ.
− Tác dụng: thanh tâm hỏa, tiềm hư dương, an Thần chí; dùng để điều trị ngực đầy tức, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu cam.
42. Thần môn
− Nguyên huyệt - du thổ huyệt của Tâm. Huyệt còn có tên đoài lệ, đoài xung, trung đô, duệ trung.
− Vị trí: trên nếp gấp cổ tay, giữa xương đậu và xương trụ, phía ngoài gân cơ gấp cổ tay trụ.
− Tác dụng: an Thần, định tâm, thông lạc, thanh hỏa lương vinh, thanh tâm nhiệt, điều khí nghịch; dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, hay quên, mất ngủ, động kinh, loạn nhịp.
43. Thiếu phủ
− Huỳnh hỏa huyệt của Tâm. Huyệt còn có tên đoài cốt.
− Vị trí: huyệt nằm trong lòng bàn tay, trên đường văn tim, giữa xương bàn ngón 4 và 5.
− Tác dụng: dùng để điều trị ngón tay út co quắp, lòng bàn tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim hồi hộp.
44. Thiếu xung
− Tỉnh mộc huyệt của Tâm. Huyệt còn có tên kinh thỉ.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn tay, trên đường ngang qua chân móng tay 5, góc ngoài gốc móng tay út.
− Tác dụng: khai tâm khiếu, thanh Thần chí, tiết tà nhiệt; dùng để điều trị đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt cao.
F. KINH TIểU TRườNG
45. Thiếu trạch
− Tỉnh kim huyệt của Tiểu trường. Huyệt này còn có tên tiểu cát.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn tay, trên đường ngang qua chân móng tay 5, góc trong gốc móng tay út.
− Tác dụng: thanh tâm hỏa, tán phong nhiệt, thông sữa; dùng để điều trị cứng gáy, cứng lưỡi, đau họng, đau mắt, cấp cứu ngất, hôn mê, sốt cao, sốt rét, viêm tuyến vú, thúc sữa.
46. Tiền cốc
− Huỳnh thủy huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn tay, cạnh trong bàn tay, ngang đường tiếp giáp giữa đầu gần và thân xương đốt 1 ngón thứ 5.
− Tác dụng: dùng để điều trị ngón tay tê, đau, ngứa, đau tay, đau họng, cứng gáy, chảy máu mũi, ù tai, sốt, sốt rét, viêm vú, động kinh, tiểu đỏ.
47. Hậu khê
− Du mộc huyệt của Tiểu trường, một trong bát mạch giao hội huyệt thông với Đốc mạch.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn tay, cạnh trong bàn tay, ngang đường tiếp giáp giữa đầu xa và thân xương bàn tay thứ 5.
thanh Thần chí, đuổi nội nhiệt, thông Đốc mạch, củng cố biểu phận, thư cân mạch; dùng để điều trị ngón tay đau duỗi khó khăn, đau cứng gáy, đau đầu, chảy máu mũi, đau mắt, ù tai, điếc tai, sốt rét, động kinh, tiểu đỏ.
48. Uyển cốt
− Nguyên huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và da lưng bàn tay, cạnh trong bàn tay, giữa xương bàn ngón 5 và xương móc.
− Tác dụng: sơ tà khí của kinh thái dương, thanh thấp nhiệt ở tiểu trường; dùng điều trị đau nhức tại chỗ, đau đầu, cứng gáy, ù tai, mờ mắt, hoàng đản, sốt không có mồ hôi.
49. Dương cốc
− Kinh hỏa huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: huyệt ở chỗ lõm sát đầu mỏm trâm xương trụ.
− Tác dụng: dùng để điều trị đau cổ tay, đau phía sau trong cánh tay, đau cổ gáy, ù tai, điếc tai, sốt, điên cuồng, trẻ em bại liệt, cứng lưỡi không nói được.
50. Dưỡng lão
− Khích huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: từ huyệt dương cốc đo lên 1 thốn.
− Tác dụng: thư cân, thông lạc sáng mắt; dùng điều trị sưng đau phía sau trong cẳng tay, đau nhức cánh tay và tai, mắt mờ.
51. Chi chính
− Lạc huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: chỗ lõm đầu xương trụ, ngoài bàn tay nối với rãnh trụ, từ chỗ lõm đo lên 5 thốn.
− Tác dụng: tay co, ngón tay không nắm được, sốt, điên, kinh sợ.
52. Tiểu hải
− Hợp thổ huyệt của Tiểu trường. Huyệt còn có tên là thửu khúc tuyền.
− Vị trí: trên nếp khuỷu tay, trong rãnh ròng rọc.
− Tác dụng: tán tà ở kinh thái dương, thông nhiệt kết ở tiểu trường, đuổi phong khí, thanh Thần khí; dùng để điều trị đau sưng khuỷu tay, đau vai, đau cổ, đau hàm, đau răng, điếc, điên.
53. Thính cung
− Hội huyệt của thủ túc thiếu dương, thủ thái dương. Huyệt còn có tên là đa sở văn.
− Vị trí: huyệt nằm ở trước và giữa nắp tai (há miệng ra có chỗ lõm).
− Tác dụng: tuyên nhĩ khí, định Thần chí; dùng để diều trị đau, ù tai, điếc tai.
G. Kinh bàng quang
54. Phế du
− Bối du huyệt của Phế.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D3 - D4 đo ra 2 bên mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: điều phế lý khí, bổ hư tổn, thanh hư nhiệt, hòa vinh huyết, thối nhiệt; dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, đau lưng, cứng gáy, vẹo cổ, sốt, ho hen.
55. Quyết âm du
− Bối du huyệt của Tâm bào bạc. Huyệt còn có tên khuyết âm du, quyết du, khuyết du.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D4 - D5 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: đau tại chỗ, hồi hộp, ho, đánh trống ngực, nôn.
56. Tâm du
− Bối du huyệt của Tâm.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D5 - D6 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: dưỡng tâm an Thần, thanh Thần định chí, lý huyết điều khí;dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, hồi hộp, đánh trống ngực, hoảng hốt, hay quên, trẻ em chậm nói, ho, ho ra máu, nôn, nuốt khó, động kinh.
57. Cách du
− Huyệt hội của Huyết.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D7 - D8 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: lý khí hóa ứ, bổ hư tổn, hòa vị khí, thư hung cách; dùng để điều trị đau lưng, nấc, ăn kém, sốt, ra mồ hôi trộm, huyết hư, huyết nhiệt.
58. Can du
− Bối du huyệt của Can.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D9 - D10 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
bổ vinh huyết, tiêu ngưng ứ, khử thấp nhiệt ở can đởm;dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, hoa mắt, sưng đau mắt, chóng mặt, đau dạ dày, ho có đau tức sườn ngực, hoàng đản, cuồng.
59. Đởm du
− Bối du huyệt của Đởm.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D10 - D11 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: thanh đởm hỏa, thanh tiết tà nhiệt ở can đởm, khử thấp nhiệt, hòa vị lý khí, thư ngực, dùng để điều trị đau tại chỗ, đau Thần kinh liên sườn, đầy bụng, nôn mửa, miệng đắng, nuốt khó, hoàng đản.
60. Tỳ du
− Bối du huyệt của Tỳ.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D11 - D12 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: phò thổ trừ thủy thấp, điều tỳ khí, trợ vận hóa, hòa vinh huyết;dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, tiêu hóa kém, đầy bụng, không muốn ăn, nấc, tiêu chảy, hoàng đản, mạn kinh phong trẻ em, các chứng về đờm, phù thũng.
61. Vị du
− Bối du huyệt của Vị.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng D12 - L1 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: điều vị khí, hóa thấp tiêu trệ; dùng để điều trị đau nhức tại chỗ, cơn đau dạ dày, đầy bụng, lạnh bụng, nôn, ợ hơi, sườn ngực đầy tức, trẻ bú rồi nôn, tiêu chảy.
62. Tam tiêu du
− Bối du huyệt của Tam tiêu.
− Vị trí: giữa đốt sống thắt lưng L1 - L2 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: điều khí hóa, lợi thủy thấp;dùng để điều trị đầy bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, phù thũng.
63. Thận du
− Bối du huyệt của Thận.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng L2 - L3 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
Tác dụng: bổ thận, chấn khí hóa, khu thủy thấp, mạnh lưng xương, ích thủy tráng hỏa, minh mục thông nhĩ;dùng để điều trị đau lưng, di mộng tinh, kinh nguyệt không đều, đái dầm, đái đục, đái máu.
64. Đại trường du
− Bối du huyệt của Đại trường.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng L4 - L5 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: điều trường vị, sơ điều đại tiểu trường, lý khí, hòa trệ, lợi thắt lưng gối; dùng để điều trị đau tại chỗ, tiêu chảy, táo bón, đau trướng bụng, liệt chi dưới.
65. Tiểu trường du
− Bối du huyệt của Tiểu trường.
− Vị trí: giữa đốt sống cùng S1 - S2 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.

Hình 7.3. Huyệt vùng lưng
− Tác dụng: thông lý tiểu trường, lợi thấp thanh nhiệt, hóa tích trệ, phân thanh trọc, điều bàng quang; dùng để điều trị trĩ, di tinh, đái máu, đái dầm, đái rắt, đau tức bụng dưới.
66. Bàng quang du
− Bối du huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng S2 - S3 đo ra 2 bên, mỗi bên 1,5 thốn.
− Tác dụng: điều bàng quang, tuyên thông hạ tiêu, lợi lưng xương; dùng để điều trị đau vùng thắt lưng cùng, bí tiểu, tiểu rắt buốt, tiểu dầm, đau vùng sinh dục ngoài, tiêu chảy, táo bón.
67. Ủy trung
− Hợp thổ huyệt của Bàng quang. Huyệt còn có tên là huyết khích, khích trung, trung khích, ủy trung ương, thối ao.
− Vị trí: chính giữa nếp lằn khoeo chân.
− Tác dụng: thanh huyết tiết nhiệt, thư cân thông lạc, đuổi phong thấp, lợi lưng gối; dùng để điều trị đau đầu gối, đau Thần kinh tọa rễ S1, đau lưng.
68. Chí thất
− Huyệt này còn có tên là tinh cung.
− Vị trí: giữa đốt sống lưng L2 - L3 đo ra 2 bên, mỗi bên 3 thốn.
bổ thận ích tinh, lợi thủy thấp; dùng để điều trị đau cứng thắt lưng, di mộng tinh, liệt dương, đái rắt, bí đái, sưng sinh dục ngoài, phù.
69. Phi dương
− Lạc huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: từ huyệt côn lôn kéo thẳng lên 7 thốn.
− Tác dụng: đau cẳng chân, đau mỏi lưng, đau đầu, hoa mắt, ngạt mũi, chảy nước mũi, trĩ.
70. Phụ dương
− Khích huyệt của mạch Dương kiểu.
− Vị trí: từ huyệt côn lôn kéo thẳng lên 3 thốn.
− Tác dụng: điều trị sưng đau mắt cá ngoài, liệt chi dưới, chuột rút, đau thắt lưng, đau đầu.
71. Côn lôn
− Kinh hỏa huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: huyệt nằm ở trung điểm của đường nối đỉnh mắt cá ngoài và gân gót.
− Tác dụng: khu phong thông lạc, thư cân mạnh lưng, lý huyết trệ ở bào cung, thư cân hóa thấp, bổ thận;dùng để điều trị đau sưng cổ chân, đau cứng thắt lưng, cứng cổ gáy, đau đầu, đau mắt, kinh giật, đẻ khó, sót nhau, nhau bong chậm.
72. Kim môn
− Khích huyệt của Bàng quang, biệt của túc thái dương và Dương duy mạch. Huyệt còn có tên quan lương, lương quan.
− Vị trí: huyệt nằm ở dưới mắt cá ngoài 1 thốn.
− Tác dụng: điều trị sưng đau mắt cá ngoài, đau tê chi dưới, động kinh, chuột rút.
73. Kinh cốt
− Nguyên huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn chân, hõm giữa thân và đầu gần xương bàn chân ngón 5.
− Tác dụng: khu phong sơ tà, định Thần thanh não; dùng để điều trị sưng đau mé ngoài bàn chân, tiểu khó, gắt, buốt, đau thắt lưng, cứng gáy, đau đầu, hoa mắt, sốt rét, động kinh.
74. Thúc cốt
− Du mộc huyệt của Bàng quang. Huyệt còn có tên thích cốt.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn chân, hõm giữa thân và đầu xa xương bàn chân ngón 5.
− Tác dụng: điều trị đau mặt ngoài bàn chân, cẳng chân, đau lưng cổ gáy, đau mắt đỏ.
75. Thông cốc
− Huỳnh thủy huyệt của Bàng quang.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn chân, hõm giữa thân và đầu gần xương đốt 1 ngón 5.
− Tác dụng: điều trị đau nhức tại chỗ, đau đầu, đau gáy, hoa mắt, sốt có sợ gió, sợ lạnh, trĩ, điên cuồng.
76. Chí âm
− Tỉnh kim huyệt của Bàng quang. Huyệt còn có tên ngoại chí âm.
− Vị trí: huyệt nằm ở nơi tiếp giáp giữa da gan và lưng bàn chân, phía góc ngoài gốc móng chân út.
− Tác dụng: sơ phong tà ở đỉnh sọ, tuyên khí cơ hạ tiêu, hạ điều thai sản; dùng để điều trị nóng gan bàn chân, đau đầu, chảy máu cam, mắt có màng, di tinh, đẻ khó, sót nhau.
H. Kinh thận
77. Dũng tuyền
− Tỉnh mộc huyệt của Thận. Huyệt còn có tên địa xung, quệ tâm, quyết tâm, địa cù.
− Vị trí: lấy ở điểm nối 2/5 trước với 3/5 sau của đoạn đầu ngón chân 2 và giữa bờ sau gót chân, trong chỗ lõm ở gan bàn chân.
− Tác dụng: thanh thận nhiệt, giáng âm hỏa, định Thần chí, khai khiếu định Thần, giải quyết nghịch; dùng để điều trị nóng hay lạnh gan bàn chân, đau mặt trong đùi, thoát vị, cấp cứu chết đuối, hôn mê, váng đầu hoa mắt.
78. Nhiên cốc
− Huỳnh hỏa huyệt của Thận. Huyệt còn có tên là long uyên, long tuyện, nhiên cốt.
− Vị trí: huyệt ở sát giữa bờ dưới xương thuyền và ở trên đường tiếp giáp da gan và lưng bàn chân.
thối thận nhiệt, sơ quyết khí, lý hạ tiêu; dùng để điều trị đau sưng khớp bàn chân, đái đục, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ngứa âm hộ, trẻ em kinh phong, cấm khẩu, ho ra máu, sốt rét, tiêu khát, tự ra mồ hôi, đạo hãn, ù tai, điếc tai.
79. Thái khê
− Nguyên huyệt, du thổ huyệt của Thận. Huyệt còn có tên là lữ tế.
− Vị trí: điểm giữa đường nối từ gân cơ Achille đến mỏm cao mắt cá trong.
− Tác dụng: tư thận âm, thanh nhiệt, mạnh lưng gối, thối hư nhiệt, tráng nguyên dương, lý bào cung; dùng để điều trị đau cổ chân, kinh nguyệt không đều, liệt dương, tay chân lạnh do trúng hàn, đau răng, đau sưng vú, đau vùng tim.
80. Đại chung
− Lạc huyệt của Thận.
− Vị trí: hõm chỗ gân cơ Achille bám vào xương gót chân, mặt trong chân.
− Tác dụng: điều thận, hòa huyết, bổ ích tinh Thần; dùng để điều trị đau cổ chân, tiểu ít, kinh nguyệt không đều, suyễn, ho hen, táo bón.
81. Thủy tuyền
− Khích huyệt của Thận.
− Vị trí: huyệt ở chỗ lõm dưới huyệt thái khê 1 thốn.
− Tác dụng: thông điều kinh nguyệt, sơ tiết hạ tiêu; dùng để điều trị đau sưng mặt trong gót chân, kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, đái rắt.
82. Phục lưu
− Kinh kim huyệt của Thận. Huyệt còn có tên xương dương, ngoại mạng, ngoại du, phục cừu.
− Vị trí: từ huyệt thái khê đo thẳng lên 2 thốn
− Tác dụng: điều thận khí, thanh thấp nhiệt, lợi bàng quang, khử thấp tiêu trệ, tư thận nhuận táo; dùng để điều trị đau tại chỗ, đái rắt, miệng khô, sôi bụngs, phù thũng, ra mồ hôi trộm.
83. âm cốc
− Hợp thổ huyệt của Thận.
− Vị trí: huyệt ở đầu trong nếp khoeo chân, sau lồi cầu trong xương chày, trong khe của gân cơ bán gân và gân cơ bán mạc.
− Tác dụng: trừ thấp, thông tiểu, tư thận, thanh nhiệt, sơ tiết quyết khí, lợi hạ tiêu; dùng để điều trị đau sưng mặt trong đầu gối, đái rắt, đái buốt, băng lậu, thoái vị, liệt dương.
I. Kinh tâm bào
84. Khúc trạch
− Hợp thủy huyệt của Tâm bào.
− Vị trí: huyệt nằm ở bờ trong tấm gân cơ 2 đầu, trên nếp gấp khuỷu tay.
− Tác dụng: thông tâm khí, điều trướng phủ, sơ gíáng khí nghịch ở thượng tiêu, thanh tâm hỏa, trừ huyết nhiệt, giải co rút; dùng để điều trị đau sưng khuỷu tay, đau cẳng tay, cánh tay, đau vùng tim, miệng khô, phiền táo, nôn do cảm hàn hay thai nghén, thổ tả.
85. Khích môn
− Khích huyệt của Tâm bào.
− Vị trí: huyệt nằm trên nếp cổ tay 5 thốn, giữa gan cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé.
− Tác dụng: định tâm an Thần, lý khí thư hung cách, thanh giáng lương huyết; dùng để điều trị đau vùng trước tim có nôn mửa, hồi hộp, ngũ tâm phiền nhiệt.

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Châm Cứu Học - NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu