Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

DANH TỪ HUYỆT VỊ CHÂM CỨU - PHẦN 10: THỦ THIẾU ÂM TÂM KINH

V.THỦ THIẾU ÂM TÂM KINH
(Khí huyết của tâm đi dọc qua phần âm ít của tay)

“Nội kinh” nói: “Tâm chức vụ quân chủ, Thần minh từ đó mà ra”. Tâm là gốc của sự sống, thần của biển. Cái đó hóa ở mặt. Cái đó đầy đủ ở huyết mạch, là dương trong thái dương, thông với khí mùa hạ.

Phương Nam màu đỏ, thông vào với tâm, khai khiếu ở lưỡi, tàng tinh ở tâm, làm bệnh ở ngũ tạng, vị đó đắng, loại đó là hỏa, súc đó là dê, cốc là lúa nếp, cái đó ứng với bốn mùa, trên trời thấy Vinh hoặc tinh là đã biết bệnh ở mạch, âm là Chủy, số là 7, mùi là khét, dịch là mồi hôi.

Phương Nam sinh nhiệt, nhiệt sinh hỏa, hỏa sinh vị đắng, đắng sinh tâm, tâm sinh huyết, huyết sinh tỳ, tâm chủ lưỡi, ở trên trời là nhiệt, ở đất là hỏa, trên thân người là mạch, ở tạng là tâm, ở tiếng là cười, ở biến động là lo buồn (ưu), ở chí là vui mừng, vui mừng hại tâm, sợ thắng vui, nhiệt thắng khí, hàn thắng nhiệt, đắng hại khí, mặn thắng đắng.

Thủ thiếu âm kinh huyệt ca:
Chín huyệt Ngọ thời thủ thiếu âm,
Cực tuyền, Thanh linh, Thiếu hải thâm,
Linh đạo, Thông lý, Âm khích thị,
Thần môn, Thiếu phủ, Thiếu xung tầm.

Phái trái cộng là 18 huyệt:

Đó là một kinh bắt đầu từ Cực tuyền, hết ở Thiếu xung. Lấy thiếu xung, Thiếu phủ, Thần môn, Linh đạo, Thiếu hải làm Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp.

Mạch bắt đầu từ trong tim, ra thuộc tâm hệ, xuống cách có đường nối sang tiểu trường, ở đó chia nhánh từ tâm hệ lên kẹp hai bên họng, nối liền với mắt. Ở đường thẳng, lại từ tâm hệ đi lên phế,  ra dưới nách, đi xuống theo cạnh sau và trong bắp vai, đi sau thái âm tâm chủ, xuống cạnh trong dưới khuỷu, đi theo cạnh trong và sau cánh tay, sau gầm bàn tay ở đầu nhọn xương lồi ra, vào cạnh trong và sau bà tay, đi theo trong ngón tay út, ra ngoài đầu chót. Nhiều khí, ít huyết, giờ Ngọ khí huyết đi ở đó.

Tạng Đinh, Hỏa mạch ở thốn bộ bên trái.

- Đạo dẫn bản kinh :

Tâm là chủ soái của toàn thân, đầu đường sinh tử. Theo cái tâm sống thì mọi thứ muốn sống, mà thần không nhập khí. Tâm lặng thì mọi thứ muốn lặng, mà thần và khí ôm lấy nhau. « Nội Kinh » nói rằng: Tháng hạ, thân người ta phát dương khí ra ngoài, dấu âm khí ở trong, là lúc thoát tinh thần, tránh lưu thông làm tiết tinh khí. Ba tháng mùa hạ đó là nói chung, khí thiên địa giao nhau, vạn vật hóa (thực) lớn mạnh, đem nằm dậy sớm, không ngán ban ngày, làm cho khí không giận dữ, khả năng biến thành tài năng, đó là ứng với khí mùa hạ, phải nuôi thành cái đạo như thế. Làm ngược lại như thế thì tổn thương tâm, đến mùa thu thì làm thành khái ngược (một loại sốt dai dẳng). Cho nên người ta thường thở yên ngồi lặng, điều nhịp thở ở tim, ăn nóng tránh lạnh, thường thả mi che mắt, đem ánh sáng chiếu vào trong, giáng tâm hỏa xuống ở đan điền, làm cho thần và khí ôm lấy nhau. 

Theo Thái huyền dưỡng sơ nói rằng : Tạng tâm ở sâu, mỹ quyết linh căn, thần không ngoài chỗ đó, tâm kéo lôi ở việc thì hỏa động ở trong. Tâm hỏa ở mùa hạ. Bảo là chính vượng, mạch vốn hồng, đại. Nếu như hoãn là thương thử, đến đêm ít bữa ăn uống, ngủ không khua quạt, phong tà dễ nhập. 

Ngày xưa Kỳ Tử Nguyên có tật ở tâm, nghe hỏi rằng có một nhà sư không dùng bùa thuốc mà chữa được bệnh ở tim. Nguyên tìm đến cúi đầu thưa, nhà sư nói rằng : Lo âu bắt đầu từ phiền não, phiền não sinh vọng tưởng. Khi mà vọng tưởng đã đến, là cơ chế có 3 loại, hoặc nhớ lại mấy chục năm về trước với những vinh, nhục, ân, cừu, bi, hận, ly, hợp, và các loại tình cảm khốn quẫn, đó là quá khứ vọng tưởng. Hoặc sự đến nhãn tiền, cần phải ứng cho thuận, ba lần, bốn lữa, đắn đo không quyết, đó là hiện tại vọng tưởng. Hoặc trông mong sau này giàu sang đều như mong muốn, hoặc trông mong công thành danh toại, cáo lão về vườn, hoặc trông mong con cái làm nên công trạng, để nối nghiệp đèn sách, và mọi thứ có thể không thành, có thể không được, đó là vị lai vọng tưởng. Ba loại vọng tưởng đó tự nhiên sinh ra, tự nhiên mất đi, Thiền gia gọi là huyễn tâm, có thể chiếu tùm các vọng đó bẻ gãy đứt cái niệm đầu, Thiền gia gọi là giác tâm. Theo đó nói rằng : Bất nạn niệm khởi, duy nạn giác trì, tỳ tâm ngược đồng thái hư. Phiền não hà xứ an cước ? Nghĩa là không có cái nạn niệm dấy lên, chỉ có cái nạn giác ở mãi, cái tâm đó giống như khoảng không vô hạn, phiền não đặt châm chỗ nào ? Lại nói rằng : Lo nghĩ cũng bắt nguồn từ thủy hỏa bất giao, phàm bị chìm đắm, bị sửa đổi chỗ chịu mà làm thành sắc hoang, Thiền gia gọ là nội sinh chi dục. Cái dục thứ hai, lo toan trước mọi việc (trù mưu) mà nhiễm vào, tiêu hao nguyên tinh, nếu như có thể rời ra thì thận thủy tự nhiên tư minh, có thể đã lên giao tới tâm. Đến như nghĩ làm văn tự, vọng về ngủ, ăn, Thiền gia gọi là lý chướng. Kinh luân chức nghiệp, không thuận cù lao, Thiền gia gọi là sự chướng. Cái thứ hai tuy không phải là nhân dục, cũng tôn tính linh, nếu như có thể bỏ đi, thì hỏa không đến nỗi thượng viêm, có thể xuống giao với thận. Theo đó nói rằng : trần bất tương duyên, căn vô sở ngẫu (bụi không cùng với cớ, gốc không có chỗ gặp), phản lưu toàn nhất, lục dụng bất hành (chảy ngược về cái toàn nhất thì 6 cái dụng không thể hành được). Lại nói : Nhược hải vô biên, hồi đầu thị ngạn (Nếu như biển không có bờ thì quay đầu lại là bên sông), Tử nguyên làm như câu nói trên, ở một nơi, trong một nhà, quét sạch vạn cớ, ngồi lặng hơn 1 tháng, bệnh tim như mất.

CÁCH TÌM HUYỆT :

1. CỰC TUYỀN : 極泉

Con suối ở chỗ cao nhất

- Vị trí : Ở chính giữa hố nách, cạnh trong động mạch nách

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu 0,5 – 1 thốn, cứu 5 mồi

- Chủ trị : Sườn ngực đau đớn, đau tim, khuỷu và cánh tay lạnh đau, tứ chi không gọn, nôn khan, phiền khát, mắt vàng, sườn tức đau, buồn rầu không vui, viêm khớp vai, viêm quanh khớp vai.

- Tác dụng phối hợp : Với Âm giao, Lậu cốc trị tim cắn đau, với Ngoại quan, Dương lăng tuyền trị xương sườn đau đớn, với Hiệp bạch trị tim đau, nôn khan, bứt rứt.

2. THANH LINH : 清靈

Linh hoạt, trẻ trung

- Vị trí : Ở huyệt Thiếu hải lên 3 thốn

- Cách châm cứu : Châm đứng kim sâu 0,5 – 1 thốn, sách Châm Cứu Đại Thành ghi CẤM CỨU, sách Châm cứu Thượng Hải ghi cứu 3 – 7 mồi, hơ 5 – 10’.

- Chủ trị : Đau sườn, đau vai và cánh tay, không thể mặc áo được, mắt vàng đầu đau, rét run.

3. THIẾU HẢI : 少海

Vùng bể chứa ít, biển nhỏ bé
Có tên là Khúc tiết
Huyệt Hợp Thủy

- Vị trí : Gập cánh tay hết mức thì đầu nhọn nếp gấp khuỷu tay phía trong là huyệt.

- Cách lấy huyệt : Co khuỷu ra vuông góc, lấy giữa đầu nếp gấp và lồi cầu xương phía trong. Chỗ mạch Thủ thiếu âm tâm nhập là Hợp, Thủy.

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu từ 0,5 – 1 thốn, có thể châm xuyên tới Khúc trì, có cảm giác cục bộ chướng tức hoặc tê như điện chạy xuống cẳng tay, cứu 3 – 5 mồi, hơ 5 – 10’, sách Châm Cứu Đại Thành nói không phải đại cấp thì không cứu.

- Chủ trị : Đau tim, tê cánh tay, bàn tay run, choáng váng, điên giản, đau thần kinh liên sườn, thần kinh suy nhược, thần kinh phân lập, đau thần kinh trụ, viêm hạch bạch huyết, bệnh phần mềm chung quanh khớp khuỷu tay, nóng rét đau, sâu răng, nôn mửa ra bọt dãi, cổ không quay ngoái lại được, tứ chi không giơ lên được, đau răng, não phong, đau đầu, khí nghịch sặc sụa, hay quên, đau ở nách.

- Tác dụng phối hợp : Với An miên, Tam âm giao trị thần kinh suy nhược, với Thủ tam lý trị tê hai cánh tay, với Âm thị trị tim đau, tay run.

4. LINH ĐẠO : 靈道

Con đường thần bí, linh hoạt :
Huyệt Kinh Kim

- Vị trí : Trên cổ tay, cạnh trụ, từ huyệt Thần môn lên 1,5 thốn, chỗ mạch chủ thiếu âm tâm hành là Kinh, Kim.

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu 5 – 8 phân, cứu 5 mồi, hơ 10 – 20’

- Chủ trị : Bệnh tim, đau dây thần kinh trụ, đau khớp, bệnh thần kinh chức năng, thần kinh phân liệt, nôn khan, sợ hãi, khuỷu tay co, bạo câm không nói được.

5. THÔNG LÝ :通里

Bên trong thông suốt, lẽ tự nhiên được thông suốt
Huyệt Lạc với Kinh Thủ thiếu dương Tiểu trường

- Vị trí : Ở sau cổ tay phía ngón út, chỗ Thủ thiếu âm tâm có đường lạc, tách đi sang kinh thái dương tiểu trường

- Cách lấy huyệt : Ngồi ngay, co khuỷu tay vừa phải, bàn tay để ngửa từ huyệt Thần môn lên chừng 1 thốn.

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu từ 3 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5 – 10’

- Chủ trị : Tim buồn bẳn, tim nhảy mạnh, lưỡi cứng không nói được, đột nhiên mất tiếng, hầu họng sưng đau, cổ tay đau, cánh tay đau, tim đau, thần kinh suy nhược, thần kinh phân liệt, ho hắng, hen xuyễn, đau đầu, hoa mắt, hầu bại, kinh nguyệt quá nhiều, đái dầm, nhiều lần ngáp đều đều và rên buồn, mặt nóng mà không có mồ hôi, mắt đau, khuỷu tay và bắp vai đau, nôn ra đắng. Tâm thực thì chi đầy tức và cách sưng, tả ở đó, hư thì không nói được, bổ ở đó.

- Tác dụng phối hợp : Với Tố Liêu, Hưng phấn trị tim đập quá chậm, với Tâm du trị nhịp tim không đều, với Thái xung trị lười nói, ham nằm, với Hành gian, Tam âm giao trị kinh nguyệt quá nhiều.

6. ÂM KHÍCH : 陰郤

Oán trách chân âm
Huyệt Khích

- Vị trí : Ở sau cổ tay lên 5 phân, ngồi ngay, hơi co khuỷu tay từ huyệt Thông lý xuống 5 phân, cung là tù huyệt Thần môn lên 5 phân

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu 5 – 8 phân, cứu 5 mồi, hơ 5’

- Chủ trị : Đau tim, tim thổn thức, mũi chảy máu, thổ huyết, mồ hôi trộm, lao phổi, thần kinh suy nhược, bại hàn lai rai, quyết nghịch khí co giật, hoắc loạn, tức trong ngực.

7. THẦN MÔN : 神門

Của của thần khí
Có tên là Thoát trung, Trung đô
Huyệt Nguyên, Huyệt Du Thổ

- Vị trí : Ở cổ tay cạnh phía ngón út, chỗ lõm trên nếp gấp ngang, chỗ mạch thủ thiếu âm trú là Du, Thổ. Tâm thực tả ở đó

- Cách lấy huyệt : Gấp cánh tay vừa phải, lòng bàn tay ngửa lên, ngón út và ngón trỏ hơi xòe ra, chỗ nếp gấp thứ 2, sau cổ tay, phía ngón út, cạnh ngoài gân to gấp cổ tay xương trụ, chỗ có hố lõm là huyệt.

- Cách châm cứu : Mũi kim hướng vào giữa cổ tay, châm sâu 4 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5 – 10’.

- Chủ trị : Mất ngủ, hay quên, động kinh, hồi hộp, tim đập mạnh, trẻ em co giật, thần chí lơ mơ, thần kinh suy nhược, nhiều mộng mị, tim cắn đau, bệnh thần kinh chức năng, cơ xương lưỡi tê bại, bệnh điên ngu si, nôn mửa nhổ ra máu, vàng da, đau sườn, mất tiếng, xuyễn nghịch khí lên, sốt rét mà tâm phiền, quá lắm thì muốn được uống lạnh, sợ lạnh muốn đến ngay giữa chỗ ấm, họng khô không muốn ăn, đau tim sặc nhiều lần, ngắn hơi không đủ, bàn tay, cánh ta lạnh, mặt đỏ hay cười, trong lòng bàn tay nóng mà uốn lại ;buồn cuồng lên, cười cuồng lên ;đái rơi rớt, tâm tích phục lương, 5 thứ giản của người lớn và trẻ em.

Đông Viên nói rằng : Vị khí lưu xuống dưới thì khí của năm tạng đều loạn, lúc đó là bệnh giúp nhau xuất hiện. Khí tại tâm, lấy ở Du của thủ thiếu âm tâm là Thần môn, cùng với tinh đạo khí đem trở về gốc nó. « Linh Khu kinh » nói rằng : Thiếu âm không có Du, tâm không có bệnh, đúng là bệnh ngoài kinh mà tạng không có bệnh, theo đó chỉ lấy ở Kinh chỗ đầu chót xương trụ sau bàn tay. Cái Tâm là chúa lớn của ngũ tạng lục phủ, là chỗ nhà của tin thần, tạng đó kiên cố, tà không thể chứa, chứa tà thì thân chết, do đó mọi tà đều ở màng bao ngoài tâm. Cái màng bao ngoài tâm, cái mạch của tâm chúa vậy.

- Tác dụng phối hợp : Với Tam âm giao trị thần kinh suy nhược, với Nội quan trị tim đập quá nhanh, với Hậu khê, Cưu vĩ trị động kinh, với Tâm du, Nội quan, Dương lăng tuyền thấu Âm lăng tuyền trị nhịp tim không đều, với Thượng quản trị phát cuồng bôn tẩu.

8. THIẾU PHỦ : 少府

Nơi chứa giữ vật chất ít ỏi
Huyệt Huỳnh Hỏa

- Vị trí : Khi nắm bàn tay vào, chỗ khe đầu ngón nhẫn và ngón út chiều vào lòng bàn tay, khe xương bàn 4 – 5, chỗ mạch thiếu âm tâm lưu là Vinh, Hỏa.

- Cách châm cứu : Châm đứng kim sâu 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5’

- Chủ trị : Tim hồi hộp, ngực đau, ngứa hạ bộ, tiểu tiện khó, đái dầm, lòng bàn tay nóng, bệnh tim do phong thấp, nhịp tim không đều, tìm cắn đau, bệnh rối loạn thần kinh chức năng, ngón út hay công có âm lồi ra, phiền tức ít hơi, buồn sợ oai người, cánh tay buốt, khuỷu nách cổ gấp, bàn tay cô không duỗi, sốt rét dai dẳng không khỏi, rét run, sa một bên trứng dái, thở dài.

- Tác dụng phối hợp : Với Thông lý, Nội quan, Đại lăng trị nhịp tim không đều, với Khúc trạch, Khích môn, Gian sử trị bệnh tâm tạng do phong thấp, với Túc tam lý trị bí đái.

9. THIẾU XUNG : 少冲

Sự xông lên ít ỏi
Có tên là Kinh thủy, là Huyệt Tỉnh Mộc

- Vị trí : Ở cạnh trong gốc móng ngón tay út (phía ngón nhẫn). Mạch thủ thiếu âm xuất là Tỉnh, Mộc.

- Cách lấy huyệt : Ngồi ngay, duỗi ngửa bàn tay, hơi co ngón út, lấy ở cánh trong gốc móng ngón út phía giáp ngón 4, cách gốc móng 1 phân.

- Cách châm cứu : châm đứng kim, sâu 1 phân hoặc lấy kim 3 cạnh chích nặn máu, cứu 3 mồi, hơ 5’.

- Chủ trị : Tim đập mạnh, đau sườn ngực, trúng gió quay lơ, bệnh nhiệt (cấp cứu), trẻ em co giật cứng đơ, bệnh rối loạn thần kinh chức năng, bệnh nhiệt phiền tức, khí lên họng khô, khát, mắt vàng, đau cạnh trong và sau của bả vai và cánh tay, đàm khí, buồn sợ nóng rét, khuỷu tay đau không duỗi được.

Trương Cô Cổ chữa tiền âm tanh hôi, tả căn ở Hành gian, sau đó lấy huyệt này, đó là trị ở tiêu.

- Tác dụng phối hợp : Với Nhân trung, Dũng tuyền, Phong long chữa trúng gió quay lơ, với Khúc trì chữa sốt cao.

DANH TỪ HUYỆT VỊ CHÂM CỨU - PHẦN 9: TÚC THÁI ÂM TỲ KINH (TIẾP VÀ HẾT PHẦN)

IV.TÚC THÁI ÂM TỲ KINH


( Khí huyệt của tỳ đi qua phần âm rất nhiều ở chân)

CÁCH TÌM ĐÚNG HUYỆT:

7. LẬU CỐC: 漏谷

Cái hang dò rỉ (Có tên Thái âm lạc)

- Vị trí: Ở phía sau xương chày, chỗ lõm trên huyệt Tam âm giao 3 thốn

-Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu 1 – 1,5 thốn, cứu 3 mồi, hơ 5 – 15’

- Chủ trị: Bụng chướng, sôi ruột, đùi gối lạnh lẽo, tê bại, viêm đường tiết niệu, ngáp mạnh, tâm buồn khí nghịch, hạch hòn khí lạnh, ăn uống không làm da thịt (tả).

8. ĐỊA CƠ:地機

Chỗ bí mật trọng yếu
Có tên là Tỳ xá
Huyệt Khích

- Vị trí: Ở phía dưới huyệt Tất nhỡn, phía trong là 3 thốn, là khích huyệt

- Cách lấy huyệt: Ngồi ngay co gối xuôi chân, hoặc nằm ngửa duỗi chân, từ chính giữa cạnh trong xương bánh chè xuống 5 thốn, cạnh trong đầu trên xương chày

- Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu 0,5 – 1 thốn, cứu 3 – 5 mồi, hơ 5’

- Chủ trị: Đầy bụng, tiểu tiện khó, kinh nguyệt không đều, đau bụng hành kinh, di tinh, phù thũng, công năng tính xuất huyết dạ con, bụng sườn chướng khí, đau sán khí, trĩ, lưng đau không thể cúi ngửa, ỉa lỏng, bụng rắn, không muốn ăn, con gái có hòn cục, ấn như nước sôi chảy dẫn từ cạnh trong đùi đến đầu gối (lao màng bụng).

- Tác dụng phối hợp: Với Khí huyệt, Tam âm giao trị kinh nguyệt không đều, với Tam âm giao hoặc Huyết hải chữa kinh nguyệt không đều.

9. ÂM LĂNG TUYỀN: 陰陵泉

Con suối ở quả đồi phía âm, Huyệt Hợp Thủy

- Vị trí: Ở cạnh trong bắp chân, phía sau xương chày, chỗ hố lõm đối bên của lồi cao Dương lăng tuyền, chỗ mạch túc thái âm tỳ nhập là Hợp, Thủy.

- Cách lấy huyệt: Từ chính giữa xương bánh chè thẳng xuống, giữa mặt trước xương chày đến chỗ lồi cao nhất của xương chày dưới đầu gối, từ đó chiếu ngang vào 4 thốn, ở phía trong sau đầu mẩu xương chày.

- Cách châm cứu: Mũi kim chếch xuống, châm sâu từ 0,5 – 1 thốn hoặc hướng về phía huyệt Dương lăng tuyền, phía ngoài, cứu 3 mồi, hơ 5’

- Chủ trị: Bụng chướng, phù thũng, tiểu tiện khó, tiểu tiện không dứt, ỉa chảy, đau gối, di tinh, viêm đường tiết niệu, kinh nguyệt không đều, liệt dương, viêm thận, cưới khí, viêm ruột, lị, đau âm hộ. Trong bụng lạnh không muốn ăn, dưới sườn tức, xuyễn ngược không nằm được, lưng đau không thể cúi ngửa, hoắc loạn, sán giả, hàn nhiệt không điều độ, nóng trong ngực.

- Tác dụng phối hợp: với Dương lăng tuyền trị đau khớp gối, với Thủy phân trị phù thũng, với Tam âm giao, Khí hải trị tiểu tiện không thông, với Dũng tuyền chữa đau tiểu trường liền sang rốn, với Quan nguyên, Thủy phân, Túc tam lý, Tam âm giao trị bí đái và bụng có nước, với Địa cơ, Hạ quản trị bụng rắn cứng.

10. HUYẾT HẢI:血海

Bể huyết, Còn gọi là Bách trùng sào

- Vị trí: Ở cạnh trong đùi, đầu gối lên 2 thốn

- Cách lấy huyệt: Ngồi ngay, co đầu gối thẳng chân, thầy thuốc lấy lòng bàn tay mình úp vào xương bánh chè người bệnh, ngón tay cái vào phía trong, chỗ đầu ngón tay cái là huyệt (cạnh trong cơ tứ đầu đùi).

- Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu từ 0,5 – 1 thốn, cứu 3 mồi, hơ 5’

- Chủ trị: Đau bụng kinh nguyệt không đều, bế kinh, băng huyết, nổi mề đay ngứa, thấp chẩn, viêm da do thần kinh, đau khới gối, bần huyết khí nghịch, bụng chướng, con gái rỉ ra máu ác, ra nhiều nước sền sệt có lẫn vật, đái buốt.

Đông Viên nói rằng: “Con gái rỉ ra máu ác, kinh nguyệt không đều, bạo băng không cầm, ra nhiều nước sền sệt có lẫn vật, do ăn uống không điều độ, hoặc mệt hại hình thể, hoặc do có khí bất túc, cứu thái âm tỳ kinh 7 mồi”.

- Tác dụng phối hợp: Với Địa cơ trị kinh nguyệt không đều, với Khúc trì trị dị ứng mẩn ngứa, với Hợp cốc, Tam âm giao trị bế kinh, với Khúc trì, Liệt khuyết, Túc tam lý, Tam âm giao trị dị ứng mẩn ngứa. 

11. CƠ MÔN: 機門

Cái cửa giần sàng

- Vị trí: Từ phía trong của cạnh trong xương bánh chè lên 8 thốn, bên trên huyệt Huyết hải 6 thốn, trong mặt âm đùi, có động mạch ứng với tay, khe hai bó cơ.

- Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu 1 – 2 thốn, cứu 3 mồi, hơ 5 – 10’

Chủ trị: Tiểu tiện không thông, đái dầm, viêm hạch ở háng, viêm niệu đạo, cơ khép đùi sưng đau. 

12. XUNG MÔN: 冲門

Cái cửa của khí xông lên
Có tên là Thượng từ cung

- Vị trí: Chính giữa bờ trêm xương mu sang hai bên 3,5 thốn

- Cách châm cứu: Châm đứng 0,7–1 thốn, tránh động mạch, cứu 5 mồi, hơ 10–20’

- Chủ trị: Viêm trứng dái, đau ống dẫn tinh, viêm màng trong dạ con, sa ruột, bí đái, bụng lạnh khí đầy tức, trong bụng tích tụ đau, còng, bứt rứt, đàn bà khó sữa, tử giản (đàn bà có chửa khí xông lên tim không thở được).

13. PHỦ XÁ府舍

Cái nhà làm nơi chứa giữ vật chất

- Vị trí: Ở huyệt Xung môn chéo lên 7 phân, từ đường chính giữa trước bụng ra 4 thốn, chỗ đó hội của Túc quyết âm, Thái âm và Âm duy, 3 mạch lên xuống nhất nhất đều vào bụng, nối vào can, tỳ, kết với tâm phế, từ trên sườn lên đến vai đó là Thái âm khích, Tam âm, Tam dương biệt ở đó.

- Cách châm cứu: Châm đứng 1 – 2 thốn, cứu 3 mồi, hơ 10 – 20’

- Chủ trị: Đau bụng, sa ruột, viêm ruột thừa, táo bón, viêm hạch bạch huyết ở rãnh háng, viêm phần phụ, đau bụng dưới,  bại ở trong đau cấp, đi theo sườn lên xuống nhói vào tim, bụng đầy tức, tích tụ, quyết khí, hoắc loạn.

14. PHÚC KẾT: 腹結

Rắn chắc ở bụng, dính liền với bụng
Có tên là Trường quật

- Vị trí : Ở huyệt Đại hoành xuống 1,3 thốn, từ đường chính giữa trước bụng ra 4 thốn.

- Cách châm cứu : Châm đứng kim, sâu 1 – 2,5 thốn, cứu 5 mồi, hơ 10 – 20’

- Chủ trị : Đau quanh rốn, ỉa chảy, đau sán thống, ho nghịch, nhói bên tim mà ho.

15. ĐẠI HOÀNH:大橫

Sang ngang mà to, hoặc sang ngang nhiều nhất

- Vị trí: Ở giữa rốn sang ngang 4 thốn (sách Thượng hải nói 3,5 thốn), chỗ đó hội của Túc thái âm và Âm duy.

- Cách châm cứu: Châm đứng 1 - 2,5 thốn, cứu 5 mồi, hơ 10 - 20’

- Chủ trị: Chướng bụng, táo bón, liệt ruột, ỉa chảy, đau bụng dưới, ký sinh trùng đường ruột, lị, bụng dưới lạnh đau, đại phong nghịch khí, thường rét, ưa buồn, tứ chi không thể cử động, nhiều mồ hôi.

- Tác dụng phối hợp: Với Tứ phùng hoặc Túc tam lý trị chứng giun đũa đườn ruột, với Dương lăng tuyền trị chứng tập quán táo bón, với Đại chùy, Túc tam lý trị bệnh cú lũ (cong gù do mềm xương)

16. PHÚC AI: 腹哀

Bi thương trong bụng

- Vị trí: Ở huyệt Đại hoành lên 3 thốn, ở đường chính giữa trước bụng ra 4 thốn, chỗ đó hội của Túc thái âm và Âm duy.

- Cách châm cứu: Châm đứng 1,5 – 2 thốn, cứu 5 mồi, hơ 10 – 20’

- Chủ trị: Đau bụng, tiêu hóa kém, táo bón, lị, đau quanh rốn, hàn ở trong, ăn không hóa, ỉa ra mủ máu.

17. THỰC ĐẬU: 食竇

Cái hang chứa đồ ăn

- Vị trí: Ở khe liên sườn 5 – 6, nhâm mạch ra 6 thốn

- Cách châm cứu: Châm chếch 5 – 8 phân, trong là phế tạng, cấm châm sâu, cứu 5 mồi, hơ 5 – 15’.

- Chủ trị: Sườn ngực chướng đau, bí đái, trong bụng có nước, viêm dạ dày, cách đau, ở cách thường có tiếng nước kêu như sấm.

18. THIÊN KHÊ:天溪

Khe suối của trời

- Vị trí: Khe liên sườn 4 – 5, nhâm mạch ra 6 thốn

- Cách châm cứu: Châm chếch 5 – 8 phân, cứu 5 mồi, hơ 5 – 10’

- Chủ trị: Đau ngực, ho hắng, viêm tuyến vú, sữa không đủ, viêm phế quản, nấc, trong ngực tức đau chạy trong mảng sườn trước ngực.

19. HUNG HƯƠNG: 胸鄉

Quê hương của ý chí, quê hương của khí lượng

- Vị trí: Khe liên sườn 3 – 4, nhâm mạch ra 6 thốn

- Cách châm cứu: Châm chếch 5 – 8 phân, cứu 5 mồi, hơ 5 – 20’

- Chủ trị: Sườn ngực chứng đau, đau dần từ ngực sang lưng trên không nằm được, chuyển xoay nghiêng khó.

20. CHU VINH: 周榮

Tươi tốt chung quanh (khắp nơi)

- Vị trí: Khe liên sườn 2 – 3, nhâm mạch ra 6 thốn, từ Trung phủ xuống 1,6 thốn.

- Cách châm cứu: Châm chếch 5 – 8 phân, cứ5  mồi, hơ 5 – 20’

- Chủ trị: Sườn ngực chướng đau, ho hắng, viêm mạc lồn ngực, có mụn nhọt làm mủ trong lồng ngực (phổi), giãn phế quản, ngực sườn tức không thể cúi ngửa, ăn không xuống mà ưa uống, ho nhổ ra mủ tanh, đa dâm.

21. ĐẠI BAO: 大包

Cái bọc to

- Vị trí: Chính giữa nách xuống khe sườn 6 – 7; Là Đại lạc của Tỳ, tống thống tất cả các lạc của âm dương, do tỳ quản khái ngũ tạng.

- Cách châm cứu: Châm chếch 5 – 8 phân, cứu 3 mồi, hơ 10 – 20’

- Chủ trị: Đau liên sườn, toànha ân đau đớn, tứ chi mỏi mệt, hen xuyễn.

- Tác dụng phối hợp: với Ngoại quan, Dương lăng tuyền chữa đau đớn liên sườn.

DANH TỪ HUYỆT VỊ CHÂM CỨU - PHẦN 8: TÚC THÁI ÂM TỲ KINH

IV.TÚC THÁI ÂM TỲ KINH
( Khí huyệt của tỳ đi qua phần âm rất nhiều ở chân)

1.Túc Thái âm tỳ kinh chủ trị :

« Nội kinh » nói rằng : « Tỳ là chức quan gián  nghị, trị vòng quanh ở đó mà ra ».

Tỳ, cái gốc của kho chứa, chỗ ở của sự tươi tốt. Cái đó biến hóa ở môi, tứ bạch. Cái đó biến ở bắt thịt, là loại âm tột bậc, thông với Thổ khí. Riêng một tạng đó quản tứ phương. Từ chủ tứ chi, với Vị mà làm tân dịch.

Trung ương màu vàng, thông vào với tỳ, khai khiếu ở miệng, tàng tinh ở tỳ, làm bệnh ở gốc lưỡi. Là vị ngọt, là loại thổ, Súc là Trâu, Cốc là lúa tẻ, là ứng với 4 mùa. Trên trời thấy sao Trấn đã biết là bệnh bắp thịt, Âm là Cung, số là năm (5), Mùi là thơm, Dịch là nước dãi.

Trung ương sinh thấp, thấp sinh thổ, thổ sinh vị ngọt, vị ngọt sinh tỳ, tỳ sinh bắp thịt, thịt sinh phế, phế chủ miệng. Ở trời là thân, ở đất là thổ, ở thân thể là thịt, ở tạng là tỳ, ở tiếng là lời ca, ở biến động là ựa, ọe, ở chí là suy nghĩ, suy nghĩ thì hại tỳ, giận thắng suy nghĩ, thấp hại thịt, phong thắng thấp, ngọt làm hại thịt, chua thắng ngọt.

2.Túc Thái âm tỳ kinh huyệt ca :

Hai mươi mốt huyệt trong tỳ châu.
Ẩn bạch, ngón cái chân là đầu,
Đại đô, Thái bạch, Công tôn thịnh,
Thương khâu, Tam âm giao có thể cầu.
Lậu cốc, Địa cơ, Âm lăng huyệt,
Huyết hải, Cơ môn, Xung môn khai,
Phủ xá, Phúc kết, Đại hoành bài,
Phúc ai, Thực đậu, Thiên khê tiếp,
Hung hương, Chu vinh, Đại bao theo;

Cả hai bên phải trái có 42 huyệt:

Đó là một đường dọc, bắt đầu từ Ẩn bạch, hết ở Đại bao. Lấy Ẩn bạch tại đó, Thái bạch, Công tôn, Thương khâu, Âm lăng tuyền làm Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp.

Mạch bắt đầu ở đầu nhọn ngón chân cái, đi theo cạnh trong ngón chỗ mép thịt trắng đỏ, đi qua phía sau đầu mẩu xương, lên cạnh trước mắt cá trong, lên bắp chân, đi qua phía sau xương chày, giao chéo qua phía trước quyết âm, đi lên theo phía trước của cạnh trong đầu gối và đùi, vào bụng thuộc tỳ, nối sang vị, lên cách, kẹp lấy họng, liền với cuống lưỡi, tản ra ở dưới lưỡi, có một nhánh tách ra lại từ dạ dày tách riêng, đi lên cách, đi vào giữa tâm. Kinh này ít huyết nhiều khí, giờ Tỵ khí huyết đi ở đó.

Tạng là Tỳ Thổ, mạch ở bộ quan bên phải.

4.Đạo dẫn bản kinh:

Tỳ ở giữa ngũ tạng, gửi vượng ở trong 4 mùa, chứa ngũ vị mà nuôi lớn, năm thần nhân đó mà nổi rõ ra, tứ chi trăm đốt dựa vào đó mà vận động. Người ta chỉ do ăn uống không điều độ, mệt mỏi quá lắm thì tỳ khí bị thương. Tỳ, vị cùng bị thương thì ăn uống không hóa, miệng không biết mùi vị, tứ chi khó khăn mệt mỏi, bụng trên đầy chướng, làm mửa, ỉa, làm tích ở ruột, những điều đó xem các sách “Nội kinh”, đúng từng ban, ban đều có chép đủ, nên tìm đọc cho biết. 

Đã không đói mà ăn mạnh thì tỳ mệt, không khát mà uống mạnh thì dạ chướng, ăn nếu quá no thì khí mạch không thông, làm cho tâm tắc bí, ăn uống nếu quá ít thì thân gầy, tâm bâng khuâng, ý nghĩ không vững chắc. Ăn vật tanh trọc thì tâm thức hôn mê, ngồi niệm không yên, ăn vật không phù hợp thì tứ đại ly phản, mà động đến bệnh cũ, đều không phải vệ sinh vậy. Nêu ví dụ một câu: “Ăn tất phải có giờ, uống tất phải có mức”, không no, không đói là được. Người ta ăn uống như thế, không chỉ tỳ vị thuần sạch mà ngũ tạng, lục phủ cũng điều hòa. Người ta đã ăn uống vào mồm, từ cuống dạ vào trong dạ, làm cho chất bổ vào ngũ tạng, đó là chất vào trong tiểu trường và hóa, đến đoạn dưới tiểu trường mới phân trong đục, đục là cặn bã vào trong đại trường, trong là tân dịch vào trong bàng quang, là phủ của tân dịch. Nếu bàng quang lại phân trong đục, cái đục thì vào trong niệu quản, cái trong thì vào đảm, đảm vào tỳ, tản ra ở ngũ tạng, là nước dãi, nước bọt, nước mắt, nước mũi và mồ hôi, là chất bổ thấm vào ngũ tạng, làm thành năm thứ mồ hôi, cùng quay về tỳ, tỳ hòa rồi hóa huyết, lại quay về tạng phủ. Kinh nói rằng: “Tỳ thổ vượng có thể sinh vạn vật, suy thì sinh bách bệnh”; Ngày xưa Đông pha điều tỳ thổ, ăn uống không quá một chén rượu, một miếng thịt. Có người mời ăn, ông thưa tránh đi rằng: “một là an phận để dưỡng phúc, hai là khoan vị để dưỡng khí, ba là giảm phí để dưỡng của”.

Người muốn giữ vệ sinh thì dưỡng ở trong, người không muốn giữ vệ sinh thì dưỡng ở ngoài. Người dưỡng ở trong thì tạng phủ yên ổn, điều thuận huyết mạch, người dưỡng ở ngoài thì rất chăm nếm thứ ngon hết mức ăn uống cho sướng, tuy cơ thể rất béo đẫy, nhưng khí thì khốc liệt, gặm hết tạng phủ ở trong.

CÁCH TÌM ĐÚNG HUYỆT:

1. ẨN BẠCH: 隱白

Cái trắng không rõ ràng, cái trắng ẩn náu
Huyệt Tỉnh Mộc

- Vị trí: Ở chính giữa phía sau gốc móng ngón chân cái chừng hơn 1 phân, lại lệch về phía trong hơn 1 phân, hoặc là ở cạnh trong góc gốc móng chân, cách gốc móng chừng hơn 1 phân, chỗ mạch Tỳ xuất là Tỉnh, Mộc.

- Cách châm cứu: Châm hơn 1 phân hoặc chích nặn máu, cứu 3 mồi, hoặc hơ 5’

- Chủ trị: Chướng bụng, nôn mửa, kinh nguyệt không đều (quá nhiều), băng huyết, hôn mê, mất ngủ, bệnh tinh thần, trẻ em kinh phong, xuất huyết đường tiêu hóa, đau bụng, máu cam ra không dứt, thổ huyết, đái, ỉa đều ra máu, thở xuyễn không nằm yên được, ăn không xuống, nóng trong ngực, ỉa dữ dội, thi quyết không biết gì, chân lạnh không thể nóng.

- Tác dụng phố hợp: Với Huyết hải, Thần môn chữa tử cung xuất huyết, với Đại đôn (cứu) làm tăng tiểu cầu, chống các loại xuất huyết với Khí hải, Huyết hải, Tam âm giao trị kinh nguyệt quá nhiều, với Túc tam lý trị ỉa ra máu, với Ủy trung trị ra máu cam kịch liệt không cầm.

2. ĐẠI ĐÔ:大都

Kinh đô lớn
Huyệt Huỳnh Hỏa

- Vị trí: Ở cạnh trong ngón chân cái, phía trước và dưới khớp bàn ngón, chỗ phần thịt trắng đỏ, chỗ mạch Tỳ lưu là Vinh, Hỏa, Tỳ hư bổ ở đó

- Cách châm cứu: Châm đứng kim sâu 3 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 15 – 20’

- Chủ trị: Bụng chướng, bụng đau; sốt cao, không có mồ hôi, ỉa chảy, đau dạ dày, tứ chi thũng, trúng gió, mình nặng, xương đau, không nằm được, thương hàn chân tay nghịch lạnh, muốn nôn, phiền nhiệt, vật vã, mửa ngược, mắt hoa, lưng đau không thể cúi ngửa, phong chung quanh mắt cá chân, ngực tức, giun làm đau vùng tim, trẻ em kinh phong.

3. THÁI BẠCH:太白

Rất trắng, trắng rất nhiều
Huyệt Nguyên, Huyệt Du Thổ

- Vị trí: Ở cạnh trong (ngón cái) bàn chân, trong chỗ lõm dưới gầm của đầu ngoài xương bàn chân số 1, chỗ mạch tỳ trú là Du, Thổ.

- Cách châm cứu: Châm đứng kim sâu 3 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5’

- Chủ trị: Đau dạ dày, nôn mửa, tiêu hóa kém, đầy chướng bụng, lị, táo bón, ợ hơi, đau đầu, phù thũng, viêm đường ruột cấp tính, mình nóng bứt rứt, tức tối, lưng đau, khí nghịch, hoắc loạn, trong bụng đau như cắt, sôi ruột, đầu, gối, đùi, ống chân buốt lạnh, chuột rút, mình nặng xương đau, ngực tức, tim đau, mạch chậm.

- Tác dụng phối hợp: với Nội quan chữa đau dạ dày.

4. CÔNG TÔN: 公孫

Cháu trai, cháu chung
Huyệt Lạc với Kinh Túc Dương Minh Vị, huyệt giao hội với Xung mạch

- Vị trí: Ở cạnh trong bàn chân (phía ngón cái) dưới gầm và phía trước khớp nối xương bàn chân với xương cổ chân (xương bàn số 1), chỗ có hố lõm, chỗ mạch nối qua Túc thái âm, tách đi sang Túc dương minh vị kinh, là loại Lạc.

- Cách châm cứu: Châm từ cạnh trong bàn chân ra hướng cạnh ngoài bàn chân, sâu 0,6 – 1,5 thốn, cứu 3 mồi, hơ 5’

- Chủ trị: Đau dạ dày, nôn mửa, tiêu hóa kém, đau bụng, ỉa chảy, lị, đau ngón chân, viêm đường ruột cấp, mãn tính, viêm màng trong dạ con, kinh nguyệt không đều, đau cổ chân, thượng thổ hạ tả, sốt rét, sốt thể lạnh, giản, thở dài.

- Tác dụng phối hợp: 

+Với Nội quan chữa đau dạ dày, nôn mửa, với Lương khâu trị nôn mửa và nước chưa dạ dày quá nhiều, 

+Với Tỳ du, Bĩ căn, Chương môn (cứu) trị lá lách sưng to, với Túc tam lý, Nội quan, Nội đình trị xuất huyết đoạn trên đường tiêu hóa,

+Với Nội quan, Tê biên tứ huyệt trị viêm đường ruột cấp, mãn tính, với Dũng tuyền Nhiên cốc, Túc tam lý, Lương khâu trị Ma phong (Phong tê), 

+Với Xung dương, Túc tam lý trị cước khí. Lại trị đầu mặt sưng lên, phiền tâm, nói cuồng, hay uống, đàm hư. Thực thì trong ruột đau như cắt, tả ở đó, hư thì cổ chướng, bổ ở đó.

5. THƯƠNG KHÂU:商丘

Cái gò buôn bán, hoặc cái gò buồn rầu
Huyệt Kinh Kim

- Vị trí: Ở chỗ lõm trước và dưới mắt cá trong, giữa đường nối từ xương thuyền lồi ra và chỗ nhọn mắt cá trong. Chỗ mạch tỳ hành là Kinh, Kim. Tỳ thực tả ở đó

- Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu từ 3 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5 – 15’.

- Chủ trị: Viêm dạ dày, viêm ruột, tiêu hóa kém, đau đớn vùng cổ chân, cước khí, phù thũng, tỳ hư bụng chướng, sôi ruột, ỉa lỏng, bí ỉa, vàng da, đau vú, trĩ, đau sán khí, mình lạnh hay thở dài, buồn tâm, xương bại, khí nghịch, có ung ăn mòn, mộng mị, điên giản, nóng rét hay nôn, vùng âm hộ và cạnh trong đùi đau, khí úng, đồi sán chảy lên xuống dẫn vào bụng dưới đau, không thể cúi ngửa, tỳ tích thành hòn, vàng da, gốc lưỡi cứng đau, thích nghĩ, thích nếm, ăn không tiêu, tứ chi nặng, khớp đau, mệt mỏi ham nằm, đàn bà tuyệt đường con cái, trẻ em mạn kinh phong.

- Tác dụng phối hợp: Với Thiên khu, Âm lăng tuyền trị viêm ruột mãn tính, với U môn, Thông cốc trị hay ựa, với Giải khê, Khâu khư trị gót chân đau.

6. TAM ÂM GIAO: 三陰交

Ba kinh âm giao nhau

- Vị trí: Ở cạnh trong ống chân, từ mắt cá trong lên 3 thốn, phía sau xương chày, chỗ hội của 3 kinh âm: Túc thái âm, Thiếu âm, Quyết âm.

- Cách lấy huyệt: Ngồi ngay, co đầu gối, hoặc nằm ngửa duỗi chân, dùng bốn ngón tay người bệnh (trừ ngón cái) kẹp lại để nằm ngang trên xương chày, một bên là mắt cá trong, một bên về phía trên là huyệt.

- Cách châm cứu: Châm đứng kim, mũi kim hướng về huyệt Tuyệt cốt, sâu 0,5 – 1 thốn, hoặc châm chếch xuống dưới theo ven sau xương chày sâu 1 – 2 thốn, có thể có cảm giác tê như điện lan đến mắt cá trong, cứu 3 mồi, hơ 5 – 10’.

- Chủ trị: Phạm vi chủ trị của huyệt này rất rộng, đàn bà kinh nguyệt không đều, máu kinh ra quá nhiều, đau bụng hành kinh, băng huyết, khó đẻ, choáng váng sau khi đẻ, khí hư, ngứa cửa mình, đàn ông xuất tinh sớm, di tinh, liệt dương, đau dương vật, phù thũng, khó đái, đái dầm, tiêu hóa kém, đầy chướng bụng, sôi ruột, mất ngủ, 

- trúng gió hư thoát, thần kinh suy nhược, mụn trĩ, đau chi dưới, thấp chẩn, liệt một bên, viêm da do thần kinh, dị ứng mẩn ngứa, tỳ vị hư nhược, bế kinh, không có con, thai chết trong bụng, sau khi đẻ nước hôi không ra, đái đục, đau sán khí, không nghĩ đến ăn uống, tỳ đau, mình nặng, tứ chi không giơ lên được, có hòn hạch, bụng lạnh, đau cạnh trong đầu gối, chân teo không đi được, đảm hư, sau khi ăn thì nôn ra nước, hoắc loạn, chân tay nghịch lạnh, ngáp trễ miệng, quai hàm mở trật ra, miệng há không ngậm lại được, nguyên tạng phát động dưới rốn đau không chịu được, trẻ em kinh phong, đàn bà đang hành kinh mà giao hợp sinh ra gầy yếu, có hòn cục, máu ra nhỏ giọt không dứt, có chửa thai động, đẻ ngang. 

+Nếu kinh mạch không thông, bí tắc, tả ở đó thông ngay, kinh mạch hư tổn không hành, bổ ở đó, kinh mạch thêm mạnh thì thông.

- Tác dụng phối hợp: Với Túc tam lý chữa bệnh đường ruột, với Quan nguyên (hoặc Trung cực) chữa đái dầm, với Nội quan, Thái xung chữa lưỡi nứt chảy máu, với Khí hải, Trung cực, Trung quản trị bế kinh, kinh nguyệt không đều, với Hợp cốc gây ra dễ đẻ, mau đẻ, với Trung quản, Nội quan, Túc tam lý  chữa viêm mạch máu do tắc máu, với Hợp cốc, Thái xung trị khó đẻ.

Y án nói rằng: “Tống Thái Tử ra đường gặp người đàn bà chửa, chẩn rằng: “con gái”, Từ Văn Bá đáp: “Một trai, một gái”, Thái Tử tính tuổi xem ngay, Văn Bá tả Tam âm giao, bổ Hợp cốc, thai ra đúng như Văn Bá chẩn. Đời sau theo đó lấy cấm châm Tam âm giao vào Hợp cốc ở đàn bà chửa”. Nhưng Văn Bá tả Tam âm giao, bổ Hợp cốc mà trụy thai, ngày nay riêng không bổ Tam âm giao, tả Hợp cốc mà an thai? Đúng là Tam âm giao, ba mạch can, tỳ, thận hội ở đó, đáng bổ, không đáng tả. Hợp cốc là nguyên của đại trường, đại trường là phủ của phế, chủ khí, đáng tả, không đáng bổ, Văn Bá tả Tam âm giao, bổ Hợp cốc là huyết suy khí vượng vậy. 

Nay bổ Tam âm giao, tả Hợp cốc là huyết vượng khí suy. Theo Lưu Nguyên Tân cũng nói: “Huyết suy, khí vượng nhất định không chửa, huyết vượng khí suy có thể ứng” (Huyết suy khí vượng, định vô nhâm, huyết vượng khí suy ứng hữu thế).

(Còn tiếp)