Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Cách chữa bệnh tình chí của Đông y

Trong đời sống công nghiệp hóa hiện nay, sự tác động của môi trường, xã hội và những mối quan hệ phức tạp, căng thẳng, đã làm cho con người càng ngày càng phải đương đầu với những căn bệnh tâm thần. Đó là những căn bệnh mà y học phương Đông gọi là bệnh tình chí bị rối loạn. Và từ thuở xưa, các nhà y học đã đề ra những phương cách trị liệu rất độc đáo.
Những loại bệnh tâm căn (maladies psychogennès), tức bệnh có nguyên nhân do tâm lý như: suy nhược thần kinh, ám ảnh lo âu, rối loạn thần kinh tim, hysteria... với các triệu chứng dai dẳng làm đau khổ cho cả thể xác lẫn tinh thần người bệnh, gây tốn kém, khó khăn cho việc chữa trị.
Gần đây, một số bệnh có nguyên nhân tâm lý được gọi là các bệnh tâm thể (maladies psychosomatiques), không phải chỉ gây rối loạn chức năng mà còn dẫn đến những tổn thương nặng nề cho nhiều bộ phận cơ thể, có thể gây tử vong, như: loét dạ dày tá tràng, xơ mỡ động mạch, cao huyết ápnhồi máu cơ timđái tháo đường, hen suyễn, đột quỵ do xuất huyết não, thậm chí còn gây ra ung thư
Quan niệm chữa bệnh tình chí xưa và nay
Y học phương Tây từ thời Hyppocrates (460 - 377 trước Công nguyên) đã quan tâm đến mối quan hệ mật thiết giữa tinh thần và thể chất của người bệnh. Hyppocrates là người đầu tiên sáng tạo ra nguyên lý: “Không phải chỉ chữa bệnh mà chữa người bệnh”. Theo ông, nghệ thuật y học không phải chỉ tác động đến bệnh tật, mà là chữa bệnh cho người ốm, như một tập hợp các đặc tính tâm hồn và thân thể. Ông đã đưa ra luận điểm quan trọng về những đặc tính tinh thần và thể chất điển hình của các mẫu người tương ứng với tình trạng hoạt động sinh lý và bệnh tật của họ. Việc phân biệt này có ý nghĩa về mặt lý luận và có ý nghĩa lớn về thực tiễn: xác định thể loại có liên quan đến việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân.
Về sau, các thầy thuốc đã đặc biệt chú trọng đến y học toàn thể, như là một đáp ứng cần thiết của công tác bảo vệ sức khỏe con người trong thời đại công nghiệp phát triển.
Trong một bài đăng trên tạp chí của Hội y khoa Mỹ (16/4/1955), bác sĩ Fraceland viết: “Mặc dù có thể bị chỉ trích, khoa y học tâm thể là một phương pháp rất tốt để trị bệnh. Vì không thể nào trị lành bệnh cho một người mà không để ý đến tâm thần của người đó. Con người không chỉ có phần sinh lý mà còn có phần tâm lý chịu ảnh hưởng của xã hội, kinh tế…”.
Các nhà y học hiện đại đã nhìn nhận người bệnh là một sự toàn vẹn về tâm thần - thể chất, một sự thống nhất sinh tồn giữa các tổ chức (mô), hệ thống dịch thể với nhận thức của họ. Trên cơ sở đó người ta cho rằng: một nền y học chân chính phải là một khoa học bao quát mọi mặt. “Đó là một nền y học về cơ thể con người tập hợp tất cả những biểu hiện và các mối liên hệ của nó, xem xét những biểu hiện tâm lý hữu cơ và môi trường xung quanh nó trong một sự thống nhất” (F. Delore - 1961).
Mùa thu năm 1978, tại hội nghị Alma - Ata, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe như sau: “Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh tật, hay khuyết tật mà là một sự thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội”. Qua đó nói lên rằng yếu tố tinh thần và xã hội có vai trò quan trọng trong việc tạo lập sức khỏe của chúng ta.
Tuy nhiên, điều đáng nói là vấn đề này đã được y học phương Đông đặc biệt chú trọng cách đây hơn 4.000 năm.
Sách Hoàng Đế nội kinh, một tác phẩm kinh điển hàng đầu của y học phương Đông viết: “Giữ lòng điềm đạm, vô tư, ít thị dục thì chân khí được sung túc, tinh thần được vững chãi ở bên trong thì bệnh tật là sao mà phạm đến được” (Điềm đạm hư vô, chân khí tòng chi, tinh thần nội thủ,bệnh an tòng lai? - Tố Vấn/Thượng cổ thiên chân luận).
Bộ sách y học này còn chỉ ra rằng:
Con người muốn bệnh tật không xâm phạm, có sức khỏe vững bền, muốn sống lâu thì phải biết thích nghi với sự nóng lạnh của thời tiết, tâm tính phải an hòa trong cách cư xử với mọi người, làm việc nghỉ ngơi phải chừng mực, đúng phép, đúng thời hợp với quy luật âm dương. (Thuận tứ thời nhi thích hàn thử, hòa hỉ nộ nhi an cư xử, tiết âm dương nhi điều cương như. Như thị tắc tịch tà bất chí, trường sinh cửu thị - Hoàng Đế nội kinh / Linh Khu).
Về sau, các nhà y học như: Văn Chí, Hoa Đà, Trương Tử Hòa, Chu Đan khê, Tuệ Tĩnh, Viêm Thể Am… là người nổi danh về nghệ thuật chữa bệnh tình chí.
Đông y quan niệm rằng: những chức năng hoạt động của ngũ tạng (Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận) cùng với ngũ chí tương ứng (Nộ, Hỉ, Tư, Ưu, Khủng) tuân theo các quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy). Do đó, khi chữa bệnh do thất tình bị rối loạn, nếu biết khéo vận dụng các quy luật đó, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp.
Sách Hoàng Đế Nội Kinh đã viết: “Giận quá sẽ làm tổn hại tạng Can, nhưng sự bi ai có thể ức chế cái giận… Mừng vui quá sẽ làm tổn hại tạng Tâm, nhưng sự sợ hãi ức chế được cái vui mừng… Lo âu tư lự quá sẽ làm tổn hại tạng Tỳ, nhưng sự giận dữ thì ức chế được sự lo âu… Ưu sầu bi ai quá sẽ làm tổn hại tạng Phế, nhưng sự vui mừng có thể làm tan biến nỗi bi ai… Sợ hãi quá sẽ làm tổn thương tạng Thận, nhưng sự lo âu, tư lự sẽ ức chế được nỗi sợ hãi”. (Nộ thương Can, bi thắng nộ… Hỉ thương Tâm, khủng thắng hỉ… Tư thương Tỳ, nộ thắng tư… Ưu thương Thế, hỉ thắng ưu… Khủng thương Thận, tư thắng khủng…- Tố vấn/ Âm Dương ứng tượng đại luận.)
Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành để chữa bệnh tình chí
Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành để chữa bệnh tình chí
Theo danh y Tuệ Tĩnh Nguyễn Bá Tĩnh: “Bệnh tình chí là do tình hướng vào cái gì đó, chí hướng vào một cái gì đó mà sinh bệnh. Người ta vì thất tình: mừng, buồn, giận, vui, lo, nghĩ, sợ, bị thương tổn mà biến ra mọi bệnh thì căn bản là bệnh ăn sâu, không phải châm cứu hay thuốc thang mà chữa trị được.
Người xưa chữa bệnh có nhiều cách như: chính trị, tòng trị và nghịch trị. Nay dùng tình chí để chữa bệnh tình chí tức là tòng trị vậy”. (Nam dược thần hiệu - Quyển VIII).
Những câu chuyện chữa bệnh tình chí
Sau đây là một số câu chuyện nói về cách chữa bệnh tình chí của các nhà y học thời trước:
Thời Xuân Thu, vua nước Tề vì quá lo nghĩ mà lâm bệnh, uống đủ thứ thuốc không giảm. Nghe nói có một thầy thuốc giỏi tên là Văn Chí, bèn cho người mời đến. Sau khi khám bệnh cho vua xong, ông liền nói với Thái tử:
- Làm cho vua tức giận thì sẽ lành bệnh. Nếu đức vua có giết tôi thì nhờ Thái tử hết lòng cứu giúp cho.
Thái tử chấp nhận lời yêu cầu của Văn Chí, nói:
- Không can gì, xin thầy cứ mạnh dạn chữa trị.
Văn Chí xin vào yết kiến nhà vua. Ông đi ngang tàng, bước xéo bừa lên cả long sàng. Quả nhiên, vua đùng đùng nổi giận, hét to sai thủ hạ bắt ông đem xử trảm. Thái tử liền tới bên vua bày tỏ can ngăn. Không bao lâu sau, nhà vua khỏi bệnh.
Đó là thuật của thầy thuốc Văn Chí: lấy giận để chữa bệnh do quá lo nghĩ của vua Tề: Tư thương tỳ, nộ thắng tư.
Thần y Hoa Đà (141 ?-206) chữa một phú ông vì quá lo nghĩ mà lâm bệnh bằng cách viết đơn thuốc bằng những lời lẽ nhục mạ thậm tệ khiến cho bệnh nhân tức giận cực độ, mặt mày tái xanh, tay chân bủn rủn rồi sau đó bệnh tình thuyên giảm. Đó là thuật mà Hoa Đà học được ở cách của Văn Chí chữa bệnh cho vua Tề.
Ở tỉnh Thái Nguyên có ông Triệu Tri Tắc, từ lúc đậu tiến sĩ rồi vì quá vui mừng mà sinh bệnh, không ngồi dậy được. Gia đình mời danh y là Sào Thị đến xem mạch để chữa trị. Vừa xem mạch xong, Sào Thị không nói không rằng, chỉ chép miệng lắc đầu, tỏ vẻ bất lực, rồi rủ áo ra về, không kịp chào từ biệt. Triệu Tri Tắc thấy vậy lo sợ quá, khóc rống lên rồi gọi con cái đến bảo rằng:
- Thầy thuốc giỏi như Sào Thị mà không chữa nổi thì mạng của ta nguy quá rồi!
Chẳng ngờ mấy giờ sau đó, bệnh tình giảm dần rồi hết hẳn.
Đó là thuật của danh y Sào Thị: lấy sự sợ hãi để chữa bệnh do quá vui mừng của ông Triệu Tri Tắc: Hỷ thương tâm, khủng thắng hỷ.
Đời Kim-Nguyên, danh y Trương Tùng Chính, tức Trương Tử Hòa (1156 - 1226), đã chữa cho viên quan Tư hầu ở Tức Thành lâm bệnh nặng sau khi nghe tin cha bị giặc giết, khóc thương quá độ đến nỗi ngất đi. Bệnh hơn một tháng, uống thuốc gì cũng không khỏi. Khi Trương Tử Hòa đến khám bệnh, biết rõ sự tình nên đã tìm cách làm cho Tư hầu phải cười phá lên. Qua trận cười đó, bệnh giảm dần và 3 ngày sau thì hết bệnh, chẳng cần thuốc thang nào cả. Đó là thuật Hỉ thắng Ưu (Bi) của ông Tử Hòa.
Ông Chu Đan Khê, tức Chu Chấn Hanh (1281 - 1358), chữa cho một thiếu phụ vì thương nhớ chồng đi xa 2 năm chưa về mà ngã bệnh. Nằm li bì suốt ngày, không ăn uống nói năng gì. Ông bàn với gia đình tìm cách quở mắng thậm tệ rồi lại tát cho mấy cái, để lấy sự giận giải được cái uất kết trong lòng do lo nghĩ, nhớ nhung của thiếu phụ. Sau đó lại làm cho nàng vui mừng, và nhờ đó mà khỏi bệnh.
Đời nhà Minh, có một người học trò thi đậu cử nhân, mừng quá mà phá lên cười và cứ cười hoài suốt đêm ngày, bỏ ăn bỏ ngủ, không sao cầm lại được. Người nhà đưa đến nhờ danh y Viên Thể Am chữa trị. Thể Am tìm cách làm cho người bệnh sợ hãi, bảo rằng bệnh nguy không chữa được, chỉ còn mươi ngày nữa là chết. Quả nhiên, sau đó một thời gian,người bệnh đã hồi phục. Đó là cách trị theo thuật khủng thắng hỷ.
Đông y quan niệm: những chức năng hoạt động của ngũ tạng (Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận) cùng với ngũ chí tương ứng (Nộ, Hỉ, Tư, Ưu, Khủng) tuân theo các quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy). Do đó, khi chữa bệnh do thất tình bị rối loạn, nếu biết khéo vận dụng các quy luật đó, sẽ đem lại hiệu quả.

Lương y ĐINH CÔNG BẢY

Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015

ÐÔI ÐIỀU VỀ Y HỌC DÂN GIAN


Con nấc mẹ dán ngọn trầu không.
Ðến nay hẳn không ai phủ nhận y học dân gian là một trong những bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền y học cổ truyền nước nhà.
Nhưng thế nào là y học dân gian? Ðặc trưng của nó là gì? Vai trò xu hướng phát triển ra sao?... Những vấn đề này, ngay cả trong giới chuyên ngành, không phải ai cũng đã tường tận. Bởi vậy, tình trạng hoặc nhấn mạnh một cách quá đáng hoặc quá coi thường một bộ phận trong kho tàng kinh nghiệm chữa bệnh quý báu của cha ông âu cũng là điều dễ hiểu. Trong bài viết này, chúng tôi xin được mạnh dạn trình bày một số vấn đề cơ bản để bạn đọc có thể tham khảo và bàn luận.
Y học dân gian là gì?
Có thể hiểu y học dân gian (folk-medicine) là toàn bộ những kinh nghiệm phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe có tính tập thể và truyền miệng của nhân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các thời kỳ phát triển lâu dài trong những chế độ xã hội có giai cấp và tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay.
Y học dân gian còn được gọi là kinh nghiệm dân gian, y học bình dân (để phân biệt với y học bác học), y học truyền khẩu (để phân biệt với y học thành văn)... Những khái niệm này xuất hiện từ khi nào không rõ, nhưng có lẽ sớm nhất cũng chỉ từ đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, khái niệm y học dân gian rất ít được sử dụng, mà chủ yếu là dùng các cụm từ "kinh nghiệm chữa bệnh dân gian", "môn thuốc dân gian", hay chìm lẫn trong các khái niệm y học dân tộc, y học cổ truyền, Ðông y...
 
Y học dân gian ra đời và phát triển như thế nào?
Ngay từ thuở nguyên sơ, khi còn ở thời đại đồ đá, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, bệnh tật bảo vệ cuộc sống, người xưa đã biết dùng cây cỏ quanh mình để làm thuốc và biết sáng tạo ra những cách chữa bệnh không dùng thuốc. Ví dụ, ban đầu củ gừng, củ tỏi... chỉ được dùng với mục đích nấu nướng để làm thay đổi và đa dạng hóa mùi vị, tạo ra những thức ăn ngon miệng, nhưng dần dần về sau người ta nhận thấy chúng còn có khả năng làm ấm bụng và dễ tiêu, làm hết đi lỏng do ăn phải những đồ sống lạnh..., và thế là bắt đầu một cuộc hành trình dài - từ trong lòng đất - củ gừng và củ tỏi đã theo con người lên bàn ăn, đi vào tủ thuốc của từng gia đình, đồng thời công dụng chữa bệnh của chúng được thử thách qua thời gian và lưu truyền từ đời này sang đời khác.
 
Theo đà phát triển của lịch sử, kho tàng kinh nghiệm dân gian phòng chống bệnh tật ngày càng phong phú và đa dạng. Cùng với sự ra đời của chữ viết, người xưa đã biết ghi chép, tổng hợp và đúc rút ra những quy luật về mối quan hệ giữa cơ thể con người và bệnh tật cùng phương thức sử dụng kho tàng kinh nghiệm chữa bệnh đã có, từ đó dần dần hình thành nên nền y học thành văn mang đậm tính bác học và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nền y học dân gian không còn đất để phát triển mà ngược lại, như một dòng nước ngầm chảy âm thầm trong lòng đất, nó vẫn tiếp tục có sức sống mãnh liệt, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử, không ngừng phục vụ nhân dân và đắp bồi cho nền y học thành văn.
 
Y học dân gian có đặc điểm gì?
Trước hết, y học dân gian luôn mang đậm tính thực tiễn và có mối quan hệ hết sức mật thiết với đời sống sinh hoạt của nhân dân lao động. Bởi lẽ, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó là do nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và lưu giữ từ đời này sang đời khác. Dường như nền y học này tham gia vào đời sống sinh hoạt thường ngày của nhân dân lao động với tư cách như là một thành phần, một nhân tố cấu thành của những sinh hoạt đó. Hai chữ "dân gian" (trong dân) trong tên gọi của nó cũng đã đủ nói rõ điều này.
Thứ hai, đó là tính truyền miệng (truyền khẩu) hay nói cách khác truyền miệng là phương thức tồn tại chủ yếu của y học dân gian, khi chưa có chữ viết thì đó là phương thức duy nhất, nhưng ngay cả khi văn tự đã xuất hiện và nền kinh tế rất phát triển thì phương thức truyền khẩu vẫn là chủ yếu với tư cách là một trong những phương thức sáng tạo của hoạt động khoa học không chuyên gắn liền với hoạt động thực tiễn.
 Thứ ba, y học dân gian mang đậm tính văn hóa vì nó chính là một bộ phận không thể thiếu của kho tàng văn hóa dân tộc, nhất là nền văn học Việt cổ, so với y học thành văn nó dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa hơn. Xét về mặt nguồn gốc thì ở bất cứ dân tộc nào, y học dân gian cũng mang bản sắc đậm đà của nền văn hóa dân tộc đó.
 
Thứ tư, y học dân gian rất gần gũi với tự nhiên và dễ phù hợp với sinh lý tự nhiên của cơ thể con người. Phương thức dùng thuốc và không dùng thuốc của nó rất gần gũi với những sinh hoạt hàng ngày, thậm chí nhiều khi rất khó phân biệt đâu là phần can thiệp của y học và đâu là phần hoạt động sống thường nhật.
 
Cuối cùng, y học dân gian là một nền y học mang đậm tính đại chúng, tính phổ biến. Hầu hết các kinh nghiệm dân gian đều rất dễ dùng, dễ kiếm, đơn giản và rẻ tiền. Vì tính chuyên môn hóa không cao nên mọi người đều có thể nhận thức và vận dụng một cách dễ dàng.
 
Nội dung của y học dân gian?
Có thể nói, y học dân gian là cả một kho tàng kinh nghiệm hết sức phong phú, nhưng nội dung chủ yếu vẫn không ngoài hai vấn đề lớn có quan hệ hữu cơ với nhau: dưỡng sinh và trị liệu, hay nói đầy đủ là phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Khó có thể kể hết các biện pháp mà y học dân gian sử dụng nhưng tựu trung cũng không ngoài hai nhóm lớn: dược vật liệu pháp (dùng thuốc) và phi dược vật liệu pháp (không dùng thuốc). Dược vật liệu pháp bao gồm nhiều dạng thuốc như thang, cao, đơn, hoàn, tán, tửu dược, trà dược... và nhiều phương thức sử dụng như uống, bôi, xông, xoa, đắp, dán... Phi dược vật liệu pháp cũng là cả một kho tàng kinh nghiệm hết sức phong phú, từ những thủ thuật cụ thể như châm cứu, xoa bóp, cạo gió, giác hơi... đến các phương pháp tập luyện như khí công, dưỡng sinh... và những kinh nghiệm trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm gội, ngủ nghỉ, chọn nơi ở, dưỡng thai, sinh hoạt tình dục...
 
Vai trò của y học dân gian
Ra đời do yêu cầu bức thiết của thực tiễn cuộc sống và được lưu truyền giữ gìn trong nhân dân nên y học dân gian có một vai trò rất đặc biệt trong việc phòng chống bệnh tật và bảo vệ sức khỏe cho con người. Ngay cả khi nền y học thành văn đã hình thành và phát triển, y học dân gian vẫn lặng lẽ tồn tại và được sử dụng khá rộng rãi trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần đắc lực vào công cuộc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cá nhân và cộng đồng.
 
Ở làng xã Việt Nam, hầu như nhà nào cũng trồng dăm ba "cây nhà lá vườn" vừa để làm rau ăn, gia vị hàng ngày, vừa để dùng làm thuốc khi đau ốm, hầu như người nào cũng biết một vài bài thuốc đơn giản hoặc đôi ba môn đánh gió, cạo gió, xông, chườm, tẩm quất, day bấm huyệt..., hầu như bà nội trợ nào cũng biết cách nấu, cách dùng một số món ăn - bài thuốc theo kinh nghiệm cổ xưa truyền khẩu... Ðiều đó cho thấy, y học dân gian có một vị thế không nhỏ trong đời sống thường nhật của nhân dân ta, nhất là trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.
 
Hơn nữa, y học dân gian còn có một vị trí quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền y học thành văn, mà trước hết nó là một bộ phận cấu thành không thể thiếu và là cơ sở của nền y học cổ truyền nói chung. Không ít những kinh nghiệm chữa bệnh dân gian đã được phân tích, chứng minh, chỉnh lý và nâng cao dưới ánh sáng của khoa học kỹ thuật hiện đại và được áp dụng một cách rộng rãi, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng một nền y học hiện đại.
 
Cho đến nay, ở nước ta, y học dân gian đã được quan tâm phát hiện, bảo tồn và khai thác, nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục giải quyết, thậm chí là khá cấp bách như: thống nhất quan điểm, đấu tranh khắc phục một số quan niệm cực đoan (hoặc quá coi thường y học dân gian do hiểu biết còn nông cạn, hoặc quá nệ cổ mà đề cao nền y học này một cách quá đáng); Khẩn trương phát hiện, sưu tầm và bảo tồn kho tàng tri thức y học dân gian, tránh nguy cơ thất truyền đang có xu hướng tăng cao, nhất là ở cộng đồng các dân tộc thiểu số; Tích cực tổ chức nghiên cứu chứng minh, thẩm định các kinh nghiệm dân gian trên cơ sở khoa học và không làm mất đi bản sắc của chúng... Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng: Con người khó lòng biết hết được kho tàng kinh nghiệm từ hàng ngàn năm dồn lại và ngày nay vẫn đang tích lũy thêm lên. Khoa học dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể giải mã hết được những bí mật của tạo hóa. Vì vậy, bên cạnh khoa học bao giờ cũng tồn tại kinh nghiệm sống của con người được tạo nên bởi bề dày của sự tiến hóa và bề dày của lịch sử từng dân tộc, trong đó không thể thiếu vắng nền y học dân gian.
 
 
Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN