Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”

Dân gian có câu: “Bất như ý sự thường bát cửu, như nhân chi ý nhất nhị phân”, ý nói ở đời mười điều thì có tới tám, chín điều không thuận theo ý ta, có chăng chỉ được một hai điều. Và những việc trái với ý muốn, những khó khăn, lo toan, phiền muộn, uất ức luôn khiến cho người ta rơi vào tâm trạng bị ức chế, mệt mỏi chán nản, thậm chí lâu ngày có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, là nguy cơ để phát sinh các căn bệnh như suy nhược thần kinh, mất ngủ, trầm cảm, viêm loét đường tiêu hóa, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...
Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”
Có thể sơ tiết bằng ngòi bút.
Ở Hàn Quốc có một câu chuyện dân gian rất thú vị có tên gọi là Hoàng đế tai lừa. Một vị hoàng đế có đôi tai giống như tai con lừa, nhưng ông ta chỉ tiết lộ cho người thợ cắt tóc biết và cấm anh ta không được hé răng tiết lộ với ai, nếu không sẽ bị chém đầu. Ngày tháng dần trôi, người thợ cắt tóc cảm thấy rất khó chịu khi giữ bí mật này trong lòng, anh ta căng thẳng đến nỗi muốn phát điên, tuy nhiên vẫn không dám nói cho những người xung quanh biết vì sợ sẽ bị giết chết. Cuối cùng, anh ta nghĩ ra một cách vẹn toàn cả đôi đường là đào một cái hố thật to, hàng ngày cúi đầu xuống hố và hét lên: “Hoàng thượng có đôi tai lừa”. Thế là người thợ cắt tóc đó đã thoát khỏi sự ức chế tinh thần, trạng thái tâm lý của anh ta trở lại bình thường. Đó là một trong những ví dụ điển hình của phương pháp “sơ tiết” tinh thần của y học cổ truyền phương Đông.
“Sơ” có nghĩa là làm thưa ra, mở ra, thư giãn, thư thái, khai thông...; “tiết” có nghĩa là tiết ra, lọt ra, tiết lộ, trút bỏ...; “sơ tiết” nôm na là tìm cách cởi bỏ những sự ức chế, bế tắc để nhằm đạt được sự thư thái, bình thản về thể xác và tinh thần. Trong y học cổ truyền, những phương pháp như “sơ biểu giải tà” “sơ tán phong tà”, “sơ phong tiết nhiệt” “sơ phong hóa thấp”, “sơ can lý khí”, “sơ can giải uất” cũng nằm trong ý nghĩa trừ bỏ tà khí ra bên ngoài, làm lưu thông khí huyết và lập lại cân bằng âm dương trong hoạt động của các tạng phủ. Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta luôn gặp phải những sự việc không vui, không hài lòng, điều này khiến cho chúng ta phải chịu áp lực rất lớn về tâm lý và từ đó dễ gây nên bệnh tật. Bởi vậy, chúng ta cần thường xuyên giải phóng áp lực tâm lý, vận dụng phương pháp “sơ tiết” về tinh thần của y học cổ truyền. Phương pháp này có thể thực hiện bằng miệng hoặc bằng đầu óc chân tay.
“Sơ tiết” đường miệng có hai cách: Cách thứ nhất là độc thoại một mình. Ví dụ một người nào đó không hài lòng đối với cấp trên của mình, tuy nhiên anh ta lại không dám biểu lộ sự bực tức đó một cách công khai và trực diện, vậy thì cách giải quyết có thể là hãy mạnh dạn mua một chai rượu, rồi vừa uống một mình vừa thoải mái mắng nhiếc bề trên. Đừng nghĩ là người đó có vấn đề về tâm thần mà thực ra anh ta đang thực hiện một phương pháp rất hay để giải toả sự ức chế. Uống rượu, mắng nhiếc, uống chán mắng chán rồi ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy sẽ chẳng còn chuyện gì nữa. Tuy nhiên, không nên uống quá nhiều vì như vậy rất có hại cho sức khỏe. Cách thứ hai là thổ lộ với người khác, khi có điều gì bực bội không vui, nên tìm một người nào đó gần gũi và hiểu mình để trút bầu tâm sự, như vậy có thể giải thoát khỏi sự ức chế về tâm lý. Tuy nhiên, cần chú ý chọn đúng đối tượng có thể lắng nghe và thấu hiểu mình, bởi vì lắng nghe người khác trút giận chẳng có gì là thích thú cả, nếu không phải là một người hiểu bạn, thông cảm với bạn thì chẳng ai muốn nghe bạn nói và nếu như có nhẫn nại lắng nghe bạn nói xong thì họ cũng không thể đưa ra những lời khuyên chân tình và hiệu quả.
“Sơ tiết” bằng đầu óc chân tay cũng có hai cách: Cách thứ nhất là “sơ tiết” bằng ngòi bút. Khi bạn giận ai đó, hãy dùng bút viết thật nhiều, viết ra tất cả những gì khiến bạn giận giữ và kìm nén ức chế trong lòng mà không thể giãi bày trực tiếp với ai trên cõi đời này. Có thể viết thành một bức thư mà đối tượng nhận chính là người mà bạn đang giận. Tuy nhiên, nên nhớ một điều rằng bức thư ấy chỉ có thể viết và để đấy chứ không thể gửi cho ai cả. Cách thứ hai để “sơ tiết” là sáng tác theo khả năng của mình, có thể viết văn, làm thơ, viết kịch, sáng tác nhạc, vẽ tranh, nặn tượng... Không ít nhà văn nổi tiếng đã cho ra đời các tác phẩm kinh điển trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực, ví như Tư Mã Thiên sáng tác Sử ký sau khi ông bị kết tội tử hình; Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng Lâu Mộng trong những năm tháng ông gặp phải muôn vàn khó khăn cực nhọc.
Theo y học cổ truyền, đối với tâm lý tinh thần, vấn đề mà Đông y gọi là “thất tình” (bảy thứ tình chí là hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh), “sơ tiết” là một biện pháp rất hữu hiệu để trút bỏ sự uất ức, bực tức, buồn chán trong lòng, lập lại sự cân bằng âm dương trong đời sống tinh thần. “Sơ tiết” có thể làm giảm bớt sự mệt mỏi ức chế về tâm lý, khiến cho con người cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái trong lao động và cuộc sống. Tuy nhiên, cần nhớ một điều là “sơ tiết” cũng cần phải tuân theo nguyên tắc “tam nhân chế nghi” của y học cổ truyền phương Đông, đó là “nhân nhân chế nghi” (tùy đối tượng mà dùng), “nhân địa chế nghi” (tùy chỗ mà dùng) và “nhân thời chế nghi” (tùy lúc mà dùng).

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Ngũ vận lục khí & dưỡng sinh, phòng bệnh năm Ất Mùi

Ngũ vận lục khí, gọi tắt là “vận khí”, là khoa dự báo học cổ đại, chuyên nghiên cứu các quy luật tổng quát của thời tiết, khí hậu hàng năm cùng tác động của chúng đối với sức khỏe và tật bệnh. Trong các khoa dự báo cổ đại, vận khí học được giới khoa học thừa nhận là khoa dự báo có tính khoa học, giá trị thực tiễn cao nhất và cho đến nay vẫn có giá trị.
Thí dụ như đối với việc phòng ngừa và chữa trị các bệnh truyền nhiễm; Phát hiện nhanh chóng các vi sinh vật gây bệnh và tìm ra thuốc đặc trị để tiêu diệt chúng là một trong những thế mạnh của y học hiện đại. Thế nhưng, để ứng phó với sự biến dị nhanh chóng của chúng thì y học đang gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với các chứng bệnh nhiễm khuẩn, Đông y có một cách tiếp cận  khác. Đông y cho rằng môi trường mới là nhân tố quyết định sự tồn tại của các loại vi khuẩn, virut gây bệnh. Do coi trọng tác động của môi trường sinh thái, trong đó khí hậu đóng vai trò quyết định, nên trong dưỡng sinh cũng như trong phòng trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc cơ bản là “Nhân thời - Nhân địa - Nhân nhân”. Nghĩa là cần tính đến những đặc điểm về thời tiết khí hậu (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm của từng bệnh nhân (nhân nhân). “Nhân thời” được đặt lên hàng đầu, có vị trí quan trọng bậc nhất. Không thông hiểu vận khí sẽ không thể vận dụng được đúng chữ “thời”, do đó Lãn Ông mới nói, không thông vận khí  sẽ chẳng thể làm nổi việc gì.
Ngũ vận lục khí năm Ất Mùi
Ngũ vận lục khí: “Ngũ vận” là sự vận hành của 5 loại khí: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy; đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trên mặt đất. “Lục khí” là sự biến hóa của 6 loại khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. Đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trong không trung.
Khi các loại khí nói trên vận động và biến hóa một cách bình thường, gọi là “chính hóa” thì nói chung sẽ không gây nên bệnh, vì cơ thể con người đã quen thích nghi. Nhưng khi các loại khí nói trên biến động một cách dị thường, gọi là “tà hóa”, vượt quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể con người và biến thành tác nhân  gây bệnh gọi là “tà khí”. Chức năng chủ yếu của Ngũ vận lục khí là tính toán, dự báo những biến động dị thường của thời tiết khí hậu, để có thể tiến hành dưỡng sinh, chuẩn bị trước các biện pháp phòng trị thích hợp.
Tuế vận và tuế khí: Ngũ vận và lục khí luôn biến đổi, luân chuyển hàng năm. Mỗi năm có một vận và một khí chủ sự, gọi là “tuế vận” và “tuế khí”. Năm Ất Mùi có “thiên can” là Ất và “địa chi” là Mùi. Theo nguyên tắc “Thiên can thống vận”: Ất là can âm, thuộc hành kim, nên năm Ất Mùi có tuế vận là “Kim vận bất cập”.  Theo nguyên tắc “Địa chi thống khí”: Nửa đầu năm Ất Mùi khí tư thiên chủ sự là thái âm thấp thổ, nửa năm cuối có khí tại tuyền chủ sự là thái dương hàn thủy.
Vận khí tương lâm: Khí hậu hàng năm biến đổi một cách bình hòa hay đột ngột tùy thuộc vào quan hệ sinh khắc theo ngũ hành giữa vận và khí: vận sinh khí gọi là tiểu nghịch; vận khắc khí gọi là bất hòa; khí sinh vận gọi là thuận hóa; khí khắc vận gọi là thiên hình. Năm Ất Mùi có tuế vận là kim vận. Khí tư thiên là thái âm thấp thổ. Thổ sinh kim - khí sinh vận, do đó Ất Mùi là năm thuận hóa: khí hậu tương đối thuận hòa và tần suất phát sinh tật bệnh cũng tương đối thấp.
Tình hình bệnh tật: Xét theo ngũ vận, năm “kim vận bất cập” như sách Vận khí bí điển của Lãn Ông viết: “Kim vận bất cập, hỏa khí thừa thế vượng lên, hỏa nhiệt lan tràn”. Hỏa nhiệt thông ứng với tạng tâm nên tạng tâm dễ bị mắc bệnh; mặt khác, hỏa khắc kim phế thuộc hành kim, nên tạng phế (chức năng hô hấp) cũng dễ bị mắc bệnh.
Xét theo lục khí, nửa năm đầu thái âm thấp thổ tư thiên, khí hậu ẩm thấp. Thấp khí thông ứng với tạng tỳ nên thấp tà dễ gây tổn thương cho tạng tỳ (chức năng tiêu hóa); mặt khác, thổ khắc thủy, tạng thận thuộc hành thủy nên tạng thận cũng dễ thụ bệnh. Nửa năm cuối thái dương hàn thủy tại tuyền, khí hậu giá lạnh. Hàn thủy thông ứng với tạng thận nên tạng thận dễ bị tổn thương; mặt khác, thủy khắc hỏa, tâm thuộc hành hỏa nên tạng tâm cũng dễ thụ bệnh.
Năm Ất Mùi cần chú ý phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; mặt khác, cần chú ý dự phòng bệnh tật phát sinh ở các tạng tâm, tỳ, phế và thận.
Biện pháp dự phòng
Phòng ngừa hỏa tà: Hỏa tà là một loại dương tà, dễ gây tổn thương cho âm dịch. Người thể chất “âm hư” hữu nhiệt thường dễ bị hỏa tà khí xâm phạm và phát sinh loại bệnh ôn nhiệt. Biểu hiện chủ yếu bởi các chứng trạng: phát sốt, gai rét hoặc không sợ rét, đau đầu, vã mồ hôi, môi lưỡi khô háo, miệng khát uống nhiều, tâm phiền, ngực sườn đầy tức, tiểu tiện đỏ, đại tiện bí, đầu choáng mắt hoa, ban chẩn, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, niệu huyết...
Để dự phòng, nói chung nên ăn uống thanh đạm, không uống rượu, không lạm dụng thức ăn cay nóng kích thích. Riêng  đối với người âm hư đa hỏa, có thể dùng một số vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, tư âm lương huyết như sinh địa hoàng, huyền sâm, mạch đông, liên tâm, trúc diệp, khổ sâm, hoàng liên, chi tử, đan sâm, thủy ngưu giác (sừng trâu), kim ngân hoa, xa tiền tử, hoàng bá, đại hoàng, đan bì, bạch mao căn...
Phòng ngừa hàn tà: Hàn tà thuộc loại “âm tà” dễ làm tổn thương “dương khí” nên những người có cơ địa “dương hư” cần đặc biệt chú ý phòng các bệnh như cảm lạnh, bụng đau nôn mửa do trúng hàn, tiêu chảy do hàn tà xâm phạm vào tràng vị, tinh thần trầm uất do dương khí bị hàn tà lấn át... Hàn tà còn có tính “ngưng kết”, dễ làm cho sự vận hành của khí huyết bị ngưng trệ, dẫn tới các chứng đau nhức như đau đầu, cơ bắp và xương khớp đau nhức kịch liệt (hàn tý), tứ chi co rút...
Để dự phòng, cần tăng cường vận động thân thể; đồng thời nên sử dụng thêm các loại thuốc, thức ăn có tác dụng trợ dương tán hàn như can khương (gừng khô), nhục quế, đinh hương, cao lương khương (củ riềng), lá lốt, hồ tiêu, thịt bò, thịt dê, thịt chó...
Người tố chất tâm thận dương hư, dễ cảm mạo phong hàn với những chứng trạng như phát sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, chân tay lạnh, phiền táo, tiêu chảy, tức ngực, thở gấp, tâm loạn nhịp đập dồn từng hồi (tâm quý), môi lưỡi tím tái... Để dự phòng, có thể dùng sinh khương, thông bạch và đại táo, sắc nước uống thay trà trong ngày.
Phòng ngừa thấp tà: Thấp là loại tà khí có tính chất trọng trọc (nặng đục), dễ dẫn tới các chứng bệnh như đầu nặng đau như bị bó chặt, mình mẩy nặng nề  đau nhức (thấp tý), bụng đầy trướng, ăn không tiêu, kiết lỵ, đại tiện không thành khuôn, tiểu tiện đục, phù thũng, khí hư bạch đới...
Để dự phòng, cần sử dụng thêm những vị thuốc có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Ví dụ như, có thể dùng: bán hạ chế (tẩm gừng sao) 3g, trần bì (vỏ quýt để lâu ngày) 10g, thổ phục linh 10g, cam thảo 5g; sắc nước uống thay trà trong ngày.
Ất Mùi là một năm “thuận hóa”. Thời xưa là một năm khí hậu biến đổi tương đối bình hòa, ít phát sinh các bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng, tầng ôzôn bị thủng, trái đất đang bị nóng lên như hiện nay, trong dưỡng sinh và phòng trị bệnh tật cần tăng cường phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; trong đó cần chú ý nhất là hỏa tà.  
Lương y Thái Hư

Phép luyện “thần” giúp sống thọ

học cổ truyền cho rằng “thần” là biểu hiện ra ngoài của hoạt động sống mà ta có thể cảm nhận được. Nó là tổng hòa của cảm giác, tư duy, hành vi của con người. Riêng tư duy còn có tên là thần minh và nó tương tự như hoạt động tâm thần.
Tinh của tạng phủ vượng, khí đưa vào cơ thể đủ thì thần vượng. Nếu thần thái suy tức là có sự hao tinh, tổn khí và cơ thể sẽ suy yếu. Bảo vệ được cái “thần” sẽ giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái hài hòa và sống thọ. Sau đây là liệu pháp chúng ta nên luyện tập giúp bảo vệ “thần”:
Lạc quan
Lạc là vui vẻ, quan là nhìn. Lạc quan là cách nhìn, thái độ tin tưởng ở triển vọng phát triển tốt đẹp của sự việc, của tương lai.
Y học cổ truyền cho rằng, mỗi sự vật đều có hai mặt âm dương đối lập thống nhất với nhau, dựa vào nhau để phát triển, cái nọ sinh ra cái kia và luôn giữ ở thế cân bằng động. Mặt dương đại diện cho mặt tích cực vươn lên, mặt âm đại diện cho mặt tiêu cực đi xuống, tạo cho sự vật phát triển theo quỹ đạo của nó. Hãy biết vui với cái mình đang có, hòa mình vào hiện tại, hy vọng sẽ có những việc tốt đẹp hơn để làm việc có ích cho bản thân, cho đời. Biết tự giải thoát khỏi những vấn vương để lòng thanh thản, muốn vậy, cần biết phân tích mặt xấu, mặt tốt của sự việc một cách khách quan để có cách giải quyết hiệu quả.
Nên biết rằng trong cái xấu (âm) vẫn có cái tốt (dương), trong cái vui (dương) vẫn tiềm ẩn cái đáng ghét (âm). Người có được cách nhìn đó thường có thái độ lạc quan, yêu đời.
Lấy thiện hay ác trong suy nghĩ và hành động. Thích ứng tốt với cuộc sống khi nhận thức được rằng các sự việc tốt xấu đan xen lẫn lộn, phức tạp luôn diễn ra quanh ta, từ đó tìm ra hướng phát triển, tự hình thành cho mình một thế ổn định trong cuộc sống luôn luôn biến động để tiến lên. Những kết quả đạt được bước đầu sẽ là động lực cho việc nối tiếp và làm cho mình lạc quan hơn.
Phép luyện “thần” giúp sống thọ
Sống lạc quan, vui vẻ giúp người già luôn khỏe mạnh.
Có ý chí kiên cường
Y học cổ truyền cho rằng: “Người có ý chí thì có thể chế ngự được thần, thu được hồn phách, thích ứng được hàn ôn, điều hòa được vui vẻ, giận hờn”. Có thể hiểu, có ý chí kiên cường thì có thể điều khiển được hoạt động tinh thần, điều hòa được tình chí, không cho tà khí vào cơ thể và phòng được bệnh.
Biện pháp để rèn luyện ý chí chủ yếu là được rèn luyện trong những điều kiện sống đan chen cụ thể khác nhau và tìm được cách vươn lên trong những điều kiện đó.
Tình chí phải hòa hợp
Y học cổ truyền ghi nhận 7 loại tình chí: vui vẻ, giận hờn, buồn rầu, bi ai, lo lắng, sợ hãi, suy nghĩ. Nếu 7 tình chí này mà hòa hợp thì tâm, can, tỳ, phế, thận được yên. Để tình chí hòa hợp phải luôn vui vẻ vì vui vẻ làm cho tâm hoạt động tốt, “thần” được yên. Song không nên vui quá mức hóa điên, hóa thần. “Tiếng cười làm trẻ mười năm, âu sầu làm bạc đầu sớm”. Phải nén cái giận không để bùng ra, vì giận quá làm can khí mất điều hòa. Biện pháp khống chế cái giận là từ từ uống 1 - 3 ngụm nước, thở dài ra vài cái (thời gian này làm cho yếu tố bùng ra mất đi); nhân nhượng khi tranh luận căng thẳng làm cho không khí dịu lại, mỗi người đều tĩnh tâm mới giải quyết được công việc; tạm thời quên việc đó bằng cách làm việc khác vui hơn.
Cũng cần giảm tối đa sự lo lắng bởi lo lắng là trạng thái rất không yên lòng và phải để hết tâm trí vào công việc. Y học cổ truyền cho “lo lắng làm tâm khí hỗn loạn”. Cái gốc của lo lắng là sự chờ đợi một việc sắp đến mà chưa biết kết quả tốt hay xấu. Để giảm lo lắng, nên tìm hiểu rõ vấn đề để có cơ sở tin tưởng trong chờ đợi. Trong khi chờ đợi, hãy tạo ra một trạng thái vui vẻ. Tuệ Tĩnh viết: “Vì lo mà sinh bệnh thì lấy mừng mà chữa”.
Tránh những việc khiến khiếp sợ. Khiếp sợ là trạng thái sợ hãi đến mức mất thần (ngất xỉu), y học cổ truyền cho là nó làm “khí hạ”. Vì thế không cho biết những tin đột ngột (nghe tin xấu, nhìn cảnh sợ chết khiếp); biết mình sợ cái gì thì tập tiếp xúc dần cho quen. Tuệ Tĩnh viết: “Sợ quá sinh bệnh thì lấy suy nghĩ mà chữa”.
Không tự đưa mình vào cảnh buồn, bi ai. Y học cổ truyền cho rằng, “buồn, bi làm khí tắc không hành được, làm khí tiêu”. Người mà “buồn cứ tích lại thì thần hồn cũng bị tổn thương” và “ở người 60 tuổi, tâm khí bắt suy, dễ cảm thấy buồn bi”. Do vậy, nên vui với cái mình đang có, hy vọng sẽ có cái khác mình đang thiếu, theo ý “lấy cái vui vẻ của tâm hỏa để chế ngự cái buồn bi của phế kèm” tức là dùng  hỏa để chế khắc kim.

BS. Nguyễn Phương Hoa