Thứ Tư, 7 tháng 10, 2020

Liệu pháp an thai trong y học cổ truyền

 Sản phụ khoa đã được y học cổ truyền (YHCT) quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, thể hiện trên các y thư lưu truyền lại. Ngành sản phụ khoa có một sự quan tâm đặc biệt của các y gia bằng các nghiên cứu, các khảo luận nối từ các thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên một bề dày lịch sử của riêng ngành sản phụ khoa YHCT.

Ở nước ta có các tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Trong đó có tập Phụ đạo xán nhiên tổng luận về kinh nguyệt đến thai mạch, Tọa thảo lương mô nêu điều thai huấn đến cách tính thai, và những phần liên quan phụ khoa rải rác trong tập Hành giản trân nhu.

Thường dùng phép an thai khi phụ nữ bị động thai. Phụ nữ có thai, thai động cảm  thấy như thai sa xuống, hoặc hơi mỏi lưng, đau bụng, trong âm hộ có chút ít huyết dịch chảy ra thì gọi là thai động không an. Nếu đau và huyết ra nhiều, mỏi lưng, đau bụng dữ dội, mà sẩy thai thì gọi là đọa thai hoặc tiểu sản. Thường khi có thai trong 3 tháng, thai nhi chưa hình thành, gọi là đọa thai; ngoài 3 tháng đã thành hình gọi là tiểu sản hoặc bản sản. Nếu sau khi sẩy thai hoặc đẻ non và lần sau có thai đúng kỳ lại sẩy, thì gọi là hoạt thai.

Phụ nữ có thai mà thai động không an, thường là dấu hiệu sẽ sẩy thai hoặc đẻ non. Trong lúc mang thai mà âm hộ ra huyết hoặc huyết nhỏ ra từng giọt dầm dề không dứt, hiện tượng đó gọi là thai lậu, người xưa gọi là bào lậu hoặc lậu thai. Nếu lậu huyết lâu ngày cũng có thể làm cho thai không vững, thậm chí đến đọa thai hoặc tiểu sản.

Nguyên nhân gây động thai trong y học cổ truyền

Khí huyết hư nhược: Phụ nữ có thai thể chất vốn yếu hoặc sau khi có thai bị bệnh làm cho khí huyết hư suy, mạch xung - nhâm yếu, không điều hòa giữ gìn được huyết để nuôi dưỡng thai. Triệu chứng: Có thái huyết ra từng giọt, lưng mỏi, bụng đau trướng, đau hoặc không đau, sắc mặt xanh nhợt, da dẻ khô khan, đầu nặng choáng, tinh thần mỏi mệt. Nói không ra tiếng, sợ lạnh, miệng nhạt không muốn ăn, nặng thời thai động không an. Huyết ra nhiều, thai muốn sa xuống, đi tiểu luôn, lưỡi đỏ nhợ, rêu trắng mỏng. Mạch phù hoạt vô lực hoặc trầm nhược.

Liệu pháp an thai

Tỳ hư: Tỳ khí hư nhược không thể vận hóa tinh vi của thủy cốc để sinh huyết, khiến mạch xung, nhâm hao tổn, không thể nuôi thai. Triệu chứng: Có thai mà thai động sau xuống, lưng mỏi, bụng trướng, hoặc đau bụng ra huyết, sắc mặt vàng nhợt, mặt hơi sưng nặng, tinh thần mỏi mệt yếu sức, tay chân mát lạnh, miệng nhạt nhớt. Ngực tức không muốn ăn, đại tiện lỏng, khí hư, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch hư hoạt.

Thận hư: Bẩm thụ vốn yếu, tiên thiên bất túc, thận khí hư kém hoặc do phòng dục không kiêng dè, tình dục bừa bãi làm hao tổn thận khí, không đủ sức để giữ thai. Người bệnh lưng vốn đã mỏi chân yếu, khi có thai bị động thai không an, hoặc âm hộ ra huyết, bụng trướng lưng mỏi càng tăng nhiều hơn. Đầu choáng tai ù, đái són, hoặc tiểu luôn luôn, mạch xích vi nhược, hoặc hư hoặc đại.

Can uất khí trệ: Thất tình uất kết, đường khí không lưu thông, thai khí bị ngăn trở không an. Triệu chứng: Bụng đau hoặc âm hộ ra huyết, tinh thần uất ức, sườn trướng đau, ợ hơi ăn kém, hoặc nôn đắng, mửa chua, mạch huyền.

Âm hư huyết nhiệt: Vốn đã âm hư hỏa thịnh, hoặc uống thuốc cay nóng, ráo huyết nhiều quá, nhiệt độc ẩn nấp ở mạch xung, nhâm, bức huyết khiến thai mất chỗ nuôi dưỡng. Triệu chứng: Có thai mình gầy sắc khô, phiền nhiệt, miệng ráo, hai gò má đỏ bừng, lòng bàn tay bàn chân nóng, bụng đau hoặc kiêm ra máu nhỏ giọt, lưỡi đỏ không rêu.

Vấp ngã sái trật tổn hại đến thai khí. Triệu chứng: Lưng mỏi, bụng đau, hoặc âm hộ ra máu, tinh thần mỏi mệt, mạch hoạt vô lực.

Phương pháp điều trị để an thai của y học cổ truyền

Người xưa có phép tính tháng để cho uống thuốc an thai. Thai khi không an, tất có nguyên nhân, hoặc hư hoặc thực, hoặc hàn hoặc nhiệt; đều có thể làm cho thai sinh bệnh, trừ hết bệnh là thai tự an. Phương pháp điều trị cụ thể theo đúng tình hình bệnh, xem hư, thực, hàn, nhiệt mà dùng các phương thuốc bổ, tả, ôn, thanh mà biện chứng để chữa. Chú ý bổ can- thận, làm cho thai được vững chắc.

Điều trị an thai do Khí hư : 

Phép trị an thai do Khí hư

bổ khí huyết.

Điều trị an thai do Tỳ hư: 

Phép trị an thai do Tỳ hư

bổ trung khí thêm thuốc an thai.

Điều trị an thai do Thận hư: 

Phép trị bổ thận an thai. 

Điều trị an thai doÂm hư huyết nhiệt:

 Phép trị tư tâm thanh nhiệt an thai. Bài thuốc: Bảo âm tiễn.

Điều trị an thai doCan khí uất trệ: 

Phép trị bình can, thư uất, lý khí an thai. Bài thuốc: Tử tô ẩm.

Điều trị an thai do Vấp ngã thương tổn: 

Phép trị an thai do Vấp ngã thương tổn

Điều nguyên, dưỡng huyết, an thai. Chưa ra huyết thì dùng bài Thánh dũ thang gia đỗ trọng, tang kí sinh, tục đoạn, sa nhân. Nếu đã ra huyết thì dùng bài Tiểu phẩm trữ căn thang gia đỗ trọng, tục đoạn, tang kí sinh.

Chẩn đoán động thai như thế nào?

Thầy thuốc YHCT phải vận dụng “tứ chẩn” (vọng - văn - vấn - thiết tức là nhìn - nghe, hỏi - bắt mạch) để thu thập tư liệu lâm sàng, trên tinh thần kết hợp Đông - Tây y. Phối hợp kiến thức y học hiện đại trong khám thực thể lâm sàng để xác định chính xác bệnh lý, qua đó không bỏ sót chẩn đoán, để ứng dụng điều trị tốt hơn.

Món ăn cần tránh hoặc không nên ăn nhiều khi có thai

Có những món ăn thông thường chúng ta nghĩ ăn vào là tốt cho thai, dễ đẻ, mát thai… nhưng thực ra ăn vào có nguy cơ gây hại cho thai, thâm chí sảy thai:

Đu đủ, rau ngót: Có chứa papaverin, có tác dụng giãn cơ trơn, giảm đau, hạ huyết áp. Nếu bà bầu ăn nhiều rau này, đặc biệt trong ba tháng đầu của thai kỳ sẽ có nguy cơ bị sẩy thai do cổ tử cung co thắt.

Khổ qua: Nhiều vitamin và chất xơ, có chứa quinine, monodicine,… kích thích co bóp tử cung. Nếu bà bầu ăn các món ăn chế biến từ trái khổ qua sẽ có nguy cơ bị sẩy thai rất cao.

Măng tươi: Chứa cyanide, một chất rất nguy hiểm đối với cơ thể. Nếu không loại bỏ chất độc này trước khi ăn, bà bầu có thể bị ngộ độc.

Tía tô: Có tính ấm, dùng thường xuyên sẽ không tốt cho sức khỏe, bà bầu có nguy cơ bị tăng huyết áp. Tía tô là một vị thuốc, khi không có bệnh chỉ nên dùng như một gia vị, không nên tự ý dùng bừa bãi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét