Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

CHÂM KIM HOA MAI (MAI HOA CHÂM)

Mục tiêu
1. Trình bày được kỹ thuật gõ kim hoa mai và cơ sở lý luận của phương pháp.
2. Liệt kê được các đường gõ kim hoa mai trong gõ vùng thường quy.
3. Liệt kê được các đường gõ kim hoa mai trong gõ vùng đầu mặt cổ, vùng chi trên, vùng chi dưới, vùng ngực, vùng bụng và lưng.
4. Trình bày được chỉ định và chống chỉ định của gõ kim hoa mai.
5. Nêu được những phản ứng phụ của kim hoa mai và cách xử lý.
I. Đại cương
Gõ kim hoa mai là phương pháp dùng kim hoa mai (5 - 7 chiếc kim nhỏ cắm vào đầu một cán gỗ), gõ trên mặt da, nhằm mục đích chữa bệnh hoặc phòng bệnh. Đây là một hình thức phát triển của châm cứu.
II. Lịch sử phát triển của châm kim hoa mai
Sách Linh khu, thiên Quan kim có ghi lại một vài phương pháp kích thích nhẹ trên da như:
Bán thích: dùng kim châm nông rồi rút kim ngay, không làm thương tổn đến cơ thịt; có cảm giác như nhổ một sợi tóc.
Báo văn thích: châm nông tại chỗ đau 4 điểm (phía trên, phía dưới, bên phải, bên trái).
Dương thích: châm nông tại chỗ đau như báo văn thích, thêm một điểm ở chính giữa.
Về sau dựa vào cách châm nông và nhiều điểm tại chỗ đau, các nhà châm cứu dùng 5 - 7 cây kim bó chụm lại cắm ở đầu một cán gỗ (để tiện cầm) và châm nông trên mặt da. Đây là hình thức đầu tiên của kim hoa mai.
Kim hoa mai ngày nay được cải tiến và thường có hai loại:
+ Loại kim chụm.
+ Loại kim xòe hình gương sen.
III. Cách làm kim hoa mai đơn giản
Dùng 5 - 7 chiếc kim bằng thép không rỉ, mũi kim không quá sắc nhọn, dài độ 2cm, bó chụm lại, đầu nhọn các kim nằm trên một mặt phẳng, cắm chặt và thẳng góc vào đầu một cán gỗ dài độ 25cm, cách đầu cán độ 1cm. Chuôi cán hơi to hơn một chút để dễ cầm.
IV. Cách cầm kim hoa mai
Ngón tay cái và giữa cầm chặt ở 1/3 cán kim, ngón nhẫn và út đỡ thân cán vào lòng bàn tay, ngón trỏ đặt trên cán kim.
Lúc gõ chủ yếu là cử động nhịp nhàng của cổ tay, trục bó kim tiếp xúc thẳng góc với mặt da.

Hình 12.1. Các loại kim hoa mai và cách cầm kim
V. Cơ sở lý luận của gõ kim hoa mai
Người xưa quan niệm rằng mặt da của cơ thể là một bộ phận của kinh lạc, chia thành 12 vùng có liên quan đến sự phân bố của 12 đường kinh mạch, tức 12 khu da (bì bộ).
 “Muốn biết khu da phải lấy đường tuần hành của kinh mạch làm gốc, các đường kinh đều như thế cả”“Bì bộ dĩ kinh mạch vi kỳ” (Tố vấn - Bì bộ luận).
 “Những hiện tượng của kinh mạch đều thể hiện ra ở mặt da; vì thế, khu da là phần ngoài da của kinh mạch” (Trương Cảnh Nhạc).
Các kinh mạch đều tuần hành ở sâu trong cơ, không chạy trên mặt da, nhưng các lạc mạch của chúng được phân bố khắp mặt da. Mỗi đường kinh có một khu da riêng, 12 đường kinh có 12 khu da (bì bộ). Mỗi khu da đều có liên quan đến kinh mạch và tạng phủ có quan hệ với nó.
Vì “Da là bộ phận của hệ kinh mạch. Ngoại tà xâm phạm vào da làm cho tấu lý mở ra. Trước tiên lạc mạch bị xâm phạm. Nếu tà khí tràn đầy lạc mạch sẽ tiếp tục tràn vào kinh mạch. Nếu kinh mạch lại bị tà khí tràn ngập thì sẽ truyền sâu vào tạng phủ” (Tố vấn - Bì bộ luận).
Như vậy tà khí xâm phạm vào da trước rồi theo đường kinh lạc dẫn truyền vào tạng phủ.
Mặt khác, bệnh tật từ nội tạng phát sinh ra thì cũng theo đường kinh lạc từ nội tạng chuyển ra ngoài da, thể hiện bằng những phản ứng bệnh lý như xuất hiện những vùng đau nhức, các điểm ấn đau, mẩn ngứa, thay đổi màu da v. v.
Như vậy, nhờ sự liên quan mật thiết giữa da và nội tạng mà bệnh tật được truyền từ da vào nội tạng và ngược lại từ nội tạng ra ngoài da thông qua đường tuần hành kinh mạch.
Gõ kim hoa mai có tác dụng thông qua hệ kinh lạc, quan hệ giữa da và tạng phủ mà điều hòa dinh vệ, khí huyết; lặp lại thăng bằng âm dương, tăng cường sức đề kháng của cơ thể để phòng và chữa bệnh.
VI. Tư thế thầy thuốc và người bệnh
− Người bệnh có thể ngồi hoặc nằm, tư thế phải thoải mái dễ chịu.
− Ngồi khom lưng và hơi cúi đầu là hai tư thế thuận lợi nhất để gõ vùng thường quy và vùng chẩm, gáy.
− Thầy thuốc có thể đứng cạnh giường hoặc ghế người bệnh, cũng có thể ngồi ghế cạnh giường người bệnh.
− Giường bệnh nên đặt cách xa tường để thầy thuốc có thể đi lại xung quanh, thuận lợi cho thao tác.
VII. Các vùng điều trị trên cơ thể
Ngoài cách chia mặt da ra thành 12 khu như theo kiểu kinh điển, người ta còn quy ước một sự phân chia khác để tiến hành điều trị như sau
A. Vùng thường quy
Được gọi là thường quy vì đây là vùng mà người thầy thuốc khi tiến hành điều trị đều sử dụng trước tiên. Tác dụng của động tác này là “phù chính để khu tà”.
Những công trình nghiên cứu về tác dụng của thủ thuật này của Trung Quốc (trên súc vật thí nghiệm) và Việt Nam (trên người) cho thấy gõ thường quy mai hoa châm làm tăng phản ứng không đặc hiệu của cơ thể chống vi trùng.
Đường kích thích:
− Bốn đường dọc, mỗi bên cột sống hai đường:
+ Đường trong theo dọc các huyệt hoa đà hai từ ngang huyệt đại chùy đến huyệt hạ liêu.
+ Đường ngoài theo dọc từ bờ trong xương bả vai xuống đến huyệt trật biên.
− Mười đường ngang khoảng cách mỗi đường là hai đốt sống lưng.
Tác dụng điều trị: điều hoà dinh, vệ, khí, huyết làm cho âm dương thăng bằng, tăng cường sức đề kháng cơ thể.
Những tài liệu sau này có đề cập đến vùng gõ thường quy được đơn giản bớt còn 3 đường dọc theo lưng:

Hình 12.2. Vùng gõ thường quy
Đường thứ nhất dọc theo đường giữa lưng.
Đường thứ hai là hai đường chạy dọc theo hai kinh Bàng quang 1.
B. VùNG ĐầU MặT
1. Khu trán
− Đường kích thích: 3 đường ngang song song từ phải qua trái hoặc ngược lại.
− Điều trị: chứng nhức đầu thuộc kinh dương minh (Đại trường và Vị), bệnh tại chỗ.
2. Khu trước đỉnh đầu và hai bên đầu
− Đường kích thích: 3 - 4 đường ngang từ chân tóc bên phải sang chân tóc bên trái hoặc ngược lại.
− Điều trị: bệnh thiên đầu thống, bệnh tai, mắt, mũi và chứng nhức đầu thuộc kinh thiếu dương (Tam tiêu và Đởm).
3. Khu đỉnh đầu (vùng huyệt bách hội và huyệt tứ Thần thông, chạy ra hai bên chỏm tai)
− Đường kích thích:
+ 3 - 4 đường vòng tròn quanh huyệt bách hội.
+ 3 - 4 đường ngang từ chỏm tai phải sang chỏm tai trái, hoặc ngược lại.
− Điều trị: nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, trúng phong, cấm khẩu; các bệnh thuộc can dương hỏa vượng, thận thủy suy kém, hư hỏa thượng xung.
4. Khu sau đầu
− Đường kích thích: 5 - 7 đường dọc từ ngang huyệt Hậu đỉnh đến chân tóc sau gáy.
− Điều trị: chứng nhức đầu sau gáy, cứng gáy, bệnh tai, mũi, họng, lưỡi và bệnh thuộc kinh Bàng quang.

Hình 13.3. Gõ vùng đầu mặt cổ
5. Khu mắt
− Đường kích thích:
+ 1 - 2 đường cong dọc bờ mi trên.
+ 1 - 2 đường cong dọc bờ mi dưới, đều từ trong ra ngoài.
Điều trị: các bệnh về mắt.
6. Khu mũi
− Đường kích thích: hai đường từ huyệt tình minh dọc theo bờ mũi đến cánh mũi.
− Điều trị: các bệnh cấp tính hoặc mạn tính về mũi.
7. Khu môi
− Đường kích thích: 1 - 2 đường cong song song quanh môi trên và môi dưới.
− Điều trị: bệnh răng, hàm mặt, miệng, lưỡi.
8. Khu gò má
− Đường kích thích: hai đường từ huyệt nghinh hương bên ngoài cánh mũi chạy vòng bên dưới xương gò má đến huyệt thính cung (bình tai).
− Điều trị: các bệnh ở mặt, răng, mũi và liệt dây Thần kinh VII.
9. Khu tai
− Đường kích thích: 1 - 2 đường vòng quanh lỗ tai, bắt đầu từ huyệt thính cung vòng lên trên, ra sau tai, vòng xuống qua huyệt ế phong rồi vòng ngược lên thính cung.
− Điều trị: bệnh về tai.
10. Khu thái dương
− Đường kích thích: 3 - 4 đường từ ngang huyệt nhĩ môn tỏa ra thành hình nan quạt.
− Điều trị: bệnh thuộc kinh thiếu dương Đởm, thiên đầu thống; bệnh về tai, mắt.
C. Vùng cổ
1. Khu sau gáy
− Đường kích thích (5 đường):
+ Một đường giữa chân tóc gáy đến huyệt đại chùy.
+ Hai đường cạnh dọc theo kinh Bàng quang từ chân tóc đến huyệt đại trữ.
+ Hai đường dọc theo kinh Đởm từ huyệt phong trì đến huyệt kiên tỉnh.
− Điều trị: dây là khu trọng điểm; chủ yếu chữa các bệnh đau đầu, bệnh về tai mũi họng và chứng cảm sốt, cứng gáy.
2. Khu trước cổ
Đường kích thích: mỗi bên cổ 1 - 2 đường từ dưới hàm đến ngang huyệt khí xá.
− Điều trị: bệnh ở cổ họng như viêm họng, viêm amiđan, bướu cổ và bệnh cao huyết áp.
3. Khu cơ ức đòn chũm
− Đường kích thích: 1 - 2 đường từ chân tóc sau gáy chạy dọc xuống theo cơ ức đòn chũm.
− Điều trị: bệnh ở cổ họng, lưỡi và bệnh lao hạch (tràng nhạc).
D. VùNG CHI TRêN
Chi trên chia làm hai khu: mé trong tay và khu mé ngoài tay (theo tư thế đứng buông thõng tay, lòng bàn tay áp vào đùi, ứng với mặt trước và mặt sau của tay).
1. Khu trong cánh tay
− Đường kích thích: ba đường dọc từ bờ dưới nách đến ngang khuỷu tay.
− Điều trị: bệnh thuộc các tạng tâm, phế; đau dọc tay và khuỷu tay.
2. Khu trong khuỷu tay
− Đường kích thích: 3 đường ngang song song từ huyệt khúc trì đến huyệt tiểu hải hoặc ngược lại.
− Điều trị: đau nhức vùng khuỷu tay, đau cánh tay, cẳng tay và chứng sốt nóng.
3. Khu trong cẳng tay
− Đường kích thích: ba đường dọc từ khuỷu tay đến bàn tay.
− Điều trị: bệnh thuộc tâm, phế; bệnh ở ngực; đau nhức dọc cẳng tay.
4. Khu trong cổ tay
− Đường kích thích: hai đường ngang song song tại lằn chỉ cổ tay − Điều trị: bệnh thuộc tâm, phế; bệnh ở họng; đau nhức cổ tay.
5. Khu gan bàn tay
− Đường kích thích: năm đường ngang lằn chỉ cổ tay tỏa ra đến tận các ngón tay.
− Điều trị: bệnh ở vùng ngực, họng, sốt âm, bệnh tay và đau nhức ở gan bàn tay.
6. Khu ngoài cánh tay
− Đường kích thích: ba đường dọc từ vai đến khuỷu tay.
Điều trị: bệnh ở đầu, gáy, bả vai; đau nhức dọc cánh tay.

Hình 12.4. Vùng gõ mặt trong chi trên và Hình 12.5. Vùng gõ gan bàn tay
7. Khu ngoài cẳng tay
− Đường kích thích: ba đường dọc từ khu ngoài khuỷu tay đến cổ tay.
− Điều trị: các bệnh về tai, mũi, họng, đầu mặt, bệnh lây, sốt nóng thuộc kinh thiếu dương (Tam tiêu).
8. Khu mu bàn tay
− Đường kích thích: 4 đường từ cổ tay tỏa ra đến các khe ngón tay (dọc theo khe xương bàn tay).
− Điều trị: bệnh ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi họng, răng, hàm và chứng sốt nóng.
 
Hình 12.6. Vùng gõ mặt ngoài chi trên và Hình 12.7. Vùng gõ lưng bàn tay
9. Khu ngón tay
− Đường kích thích: mỗi bên ngón tay một đường dọc, từ đầu trên đốt 1 đến đầu ngón tay.
− Điều trị: bệnh não và bệnh Thần kinh nói chung.
E. VùNG CHI DướI
Chi dưới được chia làm 4 khu: khu mé trong, khu mé ngoài, khu trước và sau chân.
1. Khu đùi trước
− Đường kích thích: đường dọc từ nếp bẹn đến bờ trên xương bánh chè.
− Điều trị: bệnh thuộc đại trường, tiểu trường; đau nhức mặt trước đùi, đầu gối và bệnh thuộc kinh dương minh (Vị).
2. Khu trước cẳng chân
− Đường kích thích: 3 đường dọc từ đầu gối xuống trước cổ chân.
− Điều trị: bệnh thuộc tạng Phế, phủ Vị, bệnh đường ruột, bệnh ở đầu và ngực nói chung, chủ yếu là bệnh thuộc dương minh (Vị).
3. Khu sau đùi và vùng khoeo chân − Đường kích thích:
+ Ba đường dọc từ nếp lằn mông đến khoeo
+ Ba đường song song qua lại ngang lằn chỉ khoeo chân.
− Điều trị: bệnh ở lưng, bệnh trĩ, bệnh đường ruột.
4. Khu sau cẳng chân
− Đường kích thích: ba đường dọc từ khoeo đến sau cổ chân.
− Điều trị: bệnh ở lưng, bệnh đường ruột, bệnh trĩ và đau nhức sau cẳng chân.
5. Khu mé trong đùi và cẳng chân − Đường kích thích:
+ Ba đường dọc từ nếp bẹn xuống mé trong đầu gối.
+ Tiếp đó là ba đường dọc chạy xuống dọc mé trong cẳng chân xuống cổ chân.
− Điều trị: bệnh thuộc hệ sinh dục, tiết niệu, bệnh đường ruột và đau nhức mé trong cẳng chân.
6. Khu mé ngoài đùi và cẳng chân

Hình 13.8. Vùng gõ chi dưới
− Đường kích thích:
+ Ba đường dọc từ đầu trên xương đùi đến mé ngoài đầu gối.
+ Tiếp đó là 3 đường dọc chạy xuống mé ngoài cổ chân.
− Điều trị:
+ Đoạn trên: bệnh bại liệt, phong thấp, đau phía ngoài đùi.
+ Đoạn dưới: chứng nhức đầu, đau bụng, bệnh ở mắt, tai, họng sườn và bệnh thuộc kinh thiếu dương (Đởm) nói chung.
7. Khu trước cổ chân và mu chân − Đường kích thích:
− Ba đường ở ngang trước cổ chân.
− Bốn đường hình nan quạt từ cổ chân tỏa ra đến các khe ngón chân dọc các khe xương bàn chân.
− Điều trị: bệnh ở đầu, mặt, răng, hàm, họng, đau nhức vùng cổ chân và mu bàn chân.
8. Khu gan bàn chân
− Đường kích thích: từ hai huyệt dũng tuyền tỏa ra hai bên đến gót chân.
− Điều trị: chứng âm hư và bệnh suy nhược Thần kinh.

Hình 13.9. Vùng gõ bàn chân
9. Khu xương bánh chè
− Đường kích thích: hai đường vòng quanh xương bánh chè
− Điều trị: đau nhức gối, bệnh cước khí.
10. Khu mắt cá trong và ngoài
− Đường kích thích: hai đường vòng quanh mắt cá trong và ngoài.
− Điều trị: đau khớp cổ chân, sưng đau mắt cá chân, chứng sốt nóng.
F. VùNG NGựC
1. Khu xương ức
− Đường kích thích: hai đường dọc ở hai bên xương ức.
− Điều trị: bệnh ở thực quản, phế quản, tim, phổi và chứng khí thượng xung.

Hình 13.1. Vùng gõ mặt trước thân
2. Khu lồng ngực
− Đường kích thích: mỗi khoảng liên sườn 1 - 2 đường.
− Điều trị: viêm đau tuyến vú, tắc tia sữa.
G. Vùng bụng
1. Khu bụng trên
− Đường kích thích:
+ Năm đường dọc từ bờ dưới cung sườn đến rốn (một đường giữa bụng và mỗi bên hai đường dọc song song).
+ Bốn đường ngang chia đều vùng bụng trên từ phải qua trái hoặc ngược lại.
− Điều trị: bệnh thuộc bộ máy tiêu hóa và chứng phù thũng.
2. Khu bụng dưới
− Đường kích thích:
+ Năm đường dọc nối tiếp 5 đường dọc ở vùng bụng trên từ ngang rốn đến xuống nếp bẹn và xương mu.
+ Ba đến bốn đường ngang.
− Điều trị: bệnh thuộc bộ máy sinh dục và tiết niệu, tăng cường sức khỏe cơ thể.
3. Khu nếp bẹn
− Đường kích thích: mỗi bên hai đường song song chạy dọc theo nếp bẹn từ trên xuống dưới.
− Điều trị: bệnh thuộc hệ sinh dục và tiết niệu.
H. VùNG LưNG
Vùng lưng chia làm 5 khu, mỗi khu có tác dụng điều trị riêng.
1. Khu lưng trên (D1 - D7)
− Đường kích thích: 4 đường dọc như vùng gõ thường quy và cách mỗi đốt sống lưng là một đường ngang.
− Điều trị: đây là khu trọng điểm 2; khu này dùng để điều trị bệnh tim, phổi, đau tức ngực và đau nhức dọc chi trên.
2. Khu lưng giữa (D8 - D12)
− Đường kích thích: 4 đường dọc như vùng gõ thường quy và cách mỗi đốt sống lưng là một đường ngang.
− Điều trị: đây là khu trọng điểm 3, điều trị bệnh hệ tiêu hóa và bệnh tăng huyết áp thể can dương hỏa vượng.
3. Khu lưng dưới (L3 - L5)
− Đường kích thích: 4 đường dọc như vùng gõ thường quy và cách mỗi đốt sống lưng là một đường ngang.
− Điều trị: đây là khu trọng điểm 4; khu này dùng để điều trị các bệnh thuộc hệ sinh dục, tiết niệu và đau nhức dọc chi dưới.
4. Khu xương bả vai
− Đường kích thích: hai đường vòng quanh xương bả vai.
− Điều trị: đau nhức xương bả vai và dọc chi trên.
5. Khu cơ thang và trên vai
− Đường kích thích: mỗi bên 3 đường từ ngang D1, D2, D3 tỏa lên vùng cổ, gáy.
− Điều trị: cứng gáy, đau đầu, đau viêm tuyến vú.
VIII. Áp dụng vào điều trị
A. Chỉ định và chống chỉ định
Nói chung là gõ kim hoa mai có thể dùng chữa trị các loại bệnh như hào châm vẫn thường làm.
Phương pháp này tỏ ra thích hợp nhất đối với các loại bệnh: suy nhược Thần kinh, đau đầu, mất ngủ, đau dây Thần kinh liên sườn, liệt dây Thần kinh VII, cơn đau dạ dày tá tràng, tiêu hóa kém, đau bụng lúc hành kinh, đái dầm, sa trực tràng, sạm da, mẩn ngứa ngoài da bị viêm loét chảy nước vàng hoặc chảy mủ.
B. Thủ thuật gõ kim hoa mai
Có ba cách gõ: gõ nhẹ, gõ vừa và gõ mạnh.
− Gõ nhẹ: gõ rất nhẹ nhàng trên mặt da, hoàn toàn không đau. Bệnh nhân cảm thấy thoải mái và dễ chịu. Thủ thuật này có tác dụng bổ, tăng sức khỏe cho bệnh nhân, thường dùng cho chứng hư hàn.
− Gõ vừa: gõ vừa sức không nhẹ, không mạnh, có tác dụng bình bổ tả. Cách này thường dùng trong các chứng bán biểu, bán lý, không hư, không thực.
− Gõ mạnh: sức bật của cổ tay khỏe hơn, tuy thế bệnh nhân vẫn đủ sức chịu đựng, có tác dụng tả, thích ứng với các chứng thực nhiệt.
C. Trình tự gõ kim hoa mai
Cần gõ theo một thứ tự nhất định:
− Trước hết gõ vùng thường quy.
− Rồi gõ khu trọng điểm.
− Cuối cùng gõ khu kết hợp.
Trường hợp trong công thức điều trị không có thường quy mà chỉ có khu trọng điểm và khu kết hợp thì gõ khu trọng điểm trước, khu kết hợp sau.
Trường hợp gõ theo vùng thì gõ vùng đầu và vùng lưng trước, gõ vùng ngực, bụng, chân sau.
Trường hợp gõ vùng đầu thì gõ khu trán trước, rồi gõ khu thái dương, khu đỉnh đầu và sau cùng gõ khu chẩm.
D. Phản ứng phụ và cách xử lý
Điều trị bằng gõ kim hoa mai rất an toàn. Nhưng cũng có trường hợp say kim (vựng châm), khi người bệnh quá hư yếu hoặc Thần kinh quá mẫn; bệnh nhân bị suy tim hoặc gõ kim lúc người bệnh quá no hoặc quá đói.
Trong những trường hợp này: cho người bệnh uống nước đường nóng hoặc nước chè nóng. Đặt nằm sấp, gõ nhẹ ở khu thắt lưng mỗi đường gõ 10 lần theo hướng ngược từ dưới lên trên.
Trường hợp da người bệnh quá bẩn, lúc gõ lại không sát trùng bằng cồn nên có thể gây nên những nốt đỏ như bị sởi: cho người bệnh tạm nghỉ điều trị, chăm sóc da vùng nổi mẩn.
E. Một số điểm cần chú ý
− Thầy thuốc cần thường xuyên kiểm tra kim hoa mai xem các mũi kim có móc câu không, nếu có cần vuốt nắn lại.
− Lúc gõ nên hỏi người bệnh có đau nhiều không? mức độ đau như thế nào? Cần có sự phối hợp giữa thầy thuốc và người bệnh.
− Không được gõ vùng bị sẹo, có vết thương hoặc bị lở loét.
− Trước khi gõ nên khử trùng kim, phải sát trùng chỗ gõ trước và sau khi gõ.
F. Một số công thức điều trị
Căn cứ vào tác dụng điều trị của từng khu, từng vùng và lý luận điều trị biện chứng của Đông y, có thể dùng gõ kim hoa mai để chữa một số bệnh theo công thức như sau
1. Bệnh hô hấp
− Vùng thường quy: gõ vừa.
− Khu trọng điểm: khu lưng trên.
− Khu kết hợp: khu ngực, có thể thêm khu trong cẳng tay, gõ 3 đường dọc từ khuỷu tay xuống đến cổ tay.
2. Bệnh thần kinh
− Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: Khu sau gáy, khu lưng dưới.
− Khu kết hợp: vùng đầu, khu trong cẳng tay, khu trong cẳng chân.
3. Bệnh tiêu hóa
− Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: khu lưng giữa.
− Khu kết hợp: khu bụng trên, khu trước cẳng chân.
4. Bệnh hệ vận động
− Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm:
+ Đau 2 chi trên thì gõ khu lưng trên.
+ Đau 2 chi dưới thì gõ khu lưng dưới.
− Khu kết hợp: vùng đau.
5. Bệnh hệ tuần hoàn − Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: khu lưng trên.
− Khu kết hợp: khu trong tay và trong chân.
6. Bệnh hệ tiết niệu và sinh dục − Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: khu dưới lưng.
− Khu kết hợp: khu bụng dưới, khu trong cẳng chân, khu nếp bẹn.
7. Bệnh nội tiết
− Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: khu lưng giữa hoặc lưng dưới.
− Khu kết hợp: khu trong cẳng chân.
8. Bệnh ngoài da
− Bệnh ở 2 chi trên: gõ tại chỗ, khu lưng trên và 2 khu trong khuỷu tay.
− Bệnh ở hai chi dưới: gõ tại chỗ, khu lưng dưới và 2 khu khoeo chân.
− Bệnh ở lưng và bụng ngực: gõ tại chỗ, vùng thường quy, khu trong khuỷu tay và khu khoeo chân.
− Nếu chỗ bị bệnh chảy nước vàng hay lở loét thì không nên gõ, chỗ có sẹo cũng không nên gõ.
Gõ tại chỗ thì gõ theo hình trôn ốc, từ ngoài vào trong hoặc từ trong ra ngoài, rồi châm kim 3 cạnh tại 5 điểm, nặn ra một ít máu.
9. Bệnh ngũ quan
− Vùng thường quy.
− Khu trọng điểm: khu sau gáy.
− Khu kết hợp:
+ Tại chỗ.
+ Khu trong chi trên, chi dưới hoặc khu ngoài chi trên, chi dưới theo biện chứng luận trị.
Cần chú ý mỗi loại bệnh cần có những triệu chứng khác nhau, vì thế trong công thức điều trị cần có gia giảm.
G. Một số cách gõ khác
Những phương pháp điều trị trên là cách điều trị theo vùng của cơ thể. Ngoài ra người ta còn dùng cách gõ theo huyệt, theo kinh, hoàn toàn dựa theo phép biện chứng luận trị:
− Cách gõ theo huyệt: là gõ trực tiếp vào các huyệt theo công thức chữa bệnh của hào châm.
− Cách gõ theo kinh: là gõ vào một đoạn của đường kinh có liên quan với bệnh. Có thể làm như sau:
1. Gõ theo kinh bị bệnh
Chủ yếu chọn một đoạn đường kinh tại chỗ bị bệnh và một đoạn ở nơi xa.
Ví dụ: bệnh viêm quanh chân răng (nha chu viêm) - (thuộc kinh dương minh Vị); nơi gõ:
− ở mặt: một đoạn kinh Đại trường từ huyệt nghinh hương đến huyệt phù đột; một đoạn kinh Vị từ huyệt thừa tương đến huyệt đầu duy.
− ở nơi xa: một đoạn kinh Đại trường từ huyệt khúc trì đến huyệt hợp cốc; một đoạn kinh Vị, từ huyệt tam túc lý đến huyệt nội đình.
2. Gõ theo kinh có quan hệ biểu lý với kinh bị bệnh
Ví dụ: điều trị bệnh đái dầm (do khí cơ của Bàng quang kém); nơi gõ:
− Một đoạn kinh bị bệnh (kinh Bàng quang) từ huyệt tam tiêu du đến huyệt bàng quang du.
− Một đoạn kinh có quan hệ biểu lý (kinh Thận) từ huyệt hoành cốt đến huyệt hoang du.
3. Gõ theo quan hệ mẹ con
Điều trị theo nguyên tắc: bệnh hư thì bổ mẹ, bệnh thực thì tả con.
Ví dụ: bệnh có đờm thuộc hư chứng.
Phép điều trị: bổ thổ sinh kim; nơi gõ:
− Một đoạn kinh Phế từ huyệt thái uyên đến huyệt khúc trạch.
− Một đoạn kinh Tỳ từ huyệt ẩn bạch đến huyệt âm lăng tuyền.
− Một đoạn kinh Vị từ huyệt túc tam lý đến huyệt phong long.
4. Gõ theo quan hệ sinh khắc
Ví dụ: bệnh viêm bàng quang do thấp nhiệt.
Phép điều trị: kiện tỳ, hành thủy để lợi thủy hay khắc thủy; nơi gõ: − Một đoạn kinh Tỳ từ huyệt ẩn bạch đến huyệt âm lăng tuyền − Một đoạn kinh Tỳ từ huyệt xung môn đến huyệt ssại hoành.
Tóm lại
Có thể thể gõ kim hoa mai hai cách:
− Gõ theo khu, vùng (dựa trên cơ sở học thuyết Thần kinh).
− Gõ theo huyệt vị và theo đường kinh (dựa trên cơ sở học thuyết kinh lạc).
Cả hai cách đều đem lại kết quả tốt.

ĐIỆN CHÂM

Mục tiêu
1. Định nghĩa và nêu được những đặc điểm của phương pháp điện châm.
2. Liệt kê được tên của 4 nhóm phương pháp điều trị điện và 2 hình thức điện châm hiện nay.
3. Trình bày được tác dụng sinh lý của dòng điện một chiều đều.
Nêu đầy đủ những chỉ định của dòng điện một chiều đều.
4. Trình bày được tác dụng sinh lý của dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp.
5. Trình bày được thứ tự của quá trình điều trị bằng điện châm.
6. Trình bày được việc chọn huyệt để thông điện trong điện châm.
7. Trình bày và giải thích được việc chọn dòng điện, chọn cực điện trong điều trị bằng điện châm.
I. Đại cương
A. Định nghĩa
Điện châm là phương pháp dùng một dòng điện nhất định tác động lên các huyệt châm cứu để phòng và chữa bệnh. Dòng điện được tác động lên huyệt qua kim châm, hoặc qua các điện cực nhỏ đặt lên da vùng huyệt.
B. ĐặC ĐIểM CHUNG CủA ĐIệN CHâM
Đây là phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu (của YHCT) với phương pháp chữa bệnh bằng dòng điện (của YHHĐ). Do đó phương pháp điện châm có đặc điểm:
− Sử dụng tác dụng chữa bệnh của huyệt vị, kinh lạc.
− Sử dụng tác dụng điều trị của dòng điện.
Muốn phát huy đầy đủ hiệu quả của phương pháp điều trị điện trên huyệt nhất thiết phải vận dụng nghiêm chỉnh học thuyết kinh lạc nói riêng và những lý luận đông y nói chung. Đồng thời phải có hiểu biết đầy đủ và vận dụng chặt chẽ những tác dụng sinh lý, bệnh lý của các loại dòng điện.
Trong điều trị bằng phương pháp điện châm, chỉ mới dùng phổ cập dòng điện một chiều và dòng xung điện.
II. Cơ sở lý luận của phương pháp điện châm theo YHHĐ
A. NHữNG PHươNG PHáP ĐIềU TRị ĐIệN TRêN HUYệTHiện nay có 4 nhóm phương pháp điều trị điện:
1. Điện trường tĩnh điện và ion khí.
2. Dòng điện một chiều đều.
3. Các dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp.
4. Các dòng điện cao tần.
B. DòNG ĐIệN một CHIều ĐềU
1. Tác dụng sinh lý của dòng điện một chiều đều
− Gây bỏng nơi đặt điện cực (hiện tượng điện phân dịch thể tổ chức).
− Gây giãn mạch, tuần hoàn tại chỗ nơi đặt điện cực (nếu loại bỏ tác dụng gây bỏng bằng cách đệm nhiều lớp vải dưới các điện cực).
− Gây tình trạng mẫn cảm tăng, trương lực cơ tăng tại cực âm.
− Gây tình trạng giảm cảm giác, giảm trương lực cơ, giảm đau, giảm co thắt tại cực dương.
− Tăng tuần hoàn máu, tăng dinh dưỡng chuyển hóa của các cơ quan tổ chức nằm giữa các điện cực.
− Các cơ quan ở xa chỗ đặt điện cực nhưng có liên hệ về mặt tiết đoạn Thần kinh cũng đồng thời bị ảnh hưởng.
− Toàn thân: tác dụng an Thần, tạo cảm giác khoan khoái dễ chịu (khi người bệnh đang có tình trạng hưng phấn) và ngược lại, nó sẽ tạo một tác dụng tăng trương lực Thần kinh cơ (khi người bệnh đang suy nhược).
2. Chỉ định của dòng điện một chiều đều
1. Tăng cường điều hòa hoạt động Thần kinh thực vật và các quá trình hoạt động Thần kinh cao cấp trong suy nhược Thần kinh, mất ngủ.....
2. Tăng cường tuần hoàn dinh dưỡng ở một bộ phận hoặc một tạng phủ ở sâu (trực tiếp hoặc qua trung gian tiết đoạn Thần kinh).
3. Đưa thuốc vào cơ thể bằng hiện tượng điện phân thuốc.
4. Dùng tác dụng gây bỏng tại điện cực âm để đốt các chân lông mi xiêu vẹo, nốt ruồi....
 
3. Những đặc điểm khi ứng dụng dòng điện một chiều đều trong điện châm
− Dòng điện được đưa trực tiếp tới ngay các tổ chức tế bào của cơ thể, đặc biệt nơi ấy được gọi là huyệt, nơi “mẫn cảm đặc biệt” (điện trở da thấp).
− Do hiện tượng bỏng xảy ra dọc phần thân kim đâm vào tổ chức vẫn tồn tại một thời gian sau đó (hàng tuần) nên có tác dụng kích thích tiếp tục tại huyệt sau đó. Châm một lần có tác dụng 5 - 7 ngày.
− Giảm đau, giảm co thắt tại cực dương, tác dụng hưng phấn, tăng trương lực cơ tại cực âm.
− Tổng hợp tất cả các đặc điểm trên, điện châm và dòng diện một chiều đều thường dùng trong các bệnh mạn tính.
Chú ý: do việc điện phân làm mòn kim cho nên cần chú ý kiểm tra kim thường xuyên, tránh tình trạng gãy kim.
C. CáC DòNG ĐIệN XUNG TầN Số THấP, ĐIệN THế THấP
1. Tác dụng sinh lý của các dòng điện xung
− Tác dụng kích thích: nhờ vào sự lên xuống của cường độ xung (độ dốc lên xuống càng dựng đứng bao nhiêu thì kích thích càng mạnh).
− Tác dụng ức chế cảm giác và giảm trương lực cơ: tác dụng này đến nhanh khi tần số xung lớn hơn 60Hz. Tần số gây ức chế tốt nhất là 100 - 150Hz.
Từ những tác dụng chung nhất nêu trên, do đặc điểm về hình thể, cường độ và tần số xung của các dòng điện xung mà:
+ Dòng Faradic (xung gai nhọn, Hz: 100): chủ yếu tác dụng kích thích mạnh. Tuy nhiên nếu dùng lâu thì gây ức chế.
+ Dòng Leduc (xung hình chữ nhật, Hz: 100 - 1000): tùy tần số, thời gian xung, thời gian nghỉ mà có tác dụng hưng phấn hay ức chế mạnh hơn.
+ Dòng Lapicque (xung hình lưỡi cày, độ dốc lên xuống thoai thoải): ứng dụng tốt với những trường hợp cơ và Thần kinh đã bị thương tổn.
+ Dòng Bernard (xung hình sin; 50 - 100Hz): ứng dụng tốt cho những trường hợp cơ và Thần kinh bị thương tổn. Tuy nhiên dòng 50Hz có tác dụng kích thích trội hơn, dòng 100Hz có tác dụng ức chế trội hơn. Tác dụng điện phân của dòng Bernard cũng mạnh.
+ Dòng giao thoa thực tế có tần số từ 10 - 100Hz phát sinh ra trong tổ chức ở sâu: nó chỉ tác dụng đến những bộ phận ở sâu, không tác dụng trên cảm giác bề mặt da nên có thể tăng cường độ đến mức gây co cơ ở sâu mà bệnh nhân có thể chịu được dễ dàng. Tác dụng ức chế hay hưng phấn tùy tần số.
 
2. Những chỉ định chính của dòng điện xung
− Kích thích các cơ bại liệt.
− Chống đau.
− Tăng cường tuần hoàn ngoại vi, khi có hiện tượng co thắt mạch, phù nề, sung huyết tĩnh mạch...
Cơ sở lý luận của điện châm
- Điện châm có đặc điểm vừa sử dụng tác dụng chữa bệnh của huyệt vị, kinh lạc, vừa sử dụng tác dụng điều trị của dòng điện.
- Trong 4 phương pháp sử dụng điện điều trị thì có 2 phương pháp phối hợp được với châm cứu, gồm dòng điện một chiều đều và các dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp.
- Những tác dụng sinh lý của dòng điện một chiều đều được sử dụng trong điện châm:
+ Giảm đau, giảm co thắt tại cực dương; gây hưng phấn, tăng trương lực cơ tại cực âm.
+ Tăng tuần hoàn máu, tăng dinh dưỡng chuyển hóa của các cơ quan tổ chức nằm giữa các điện cực.
+ Kéo dài tác dụng trị liệu: châm một lần có tác dụng 5 - 7 ngày (do hiện tượng bỏng xảy ra dọc phần thân kim đâm vào tổ chức).
+ Thường dùng điều trị bệnh mạn tính.
- Những tác dụng sinh lý của dòng điện xung được sử dụng trong điện châm:
+ Tác dụng kích thích: độ dốc xung càng dựng đứng bao nhiêu thì kích thích càng mạnh.
+ Tác dụng ức chế cảm giác và giảm trương lực cơ: liên quan đến yếu tố tần số xung. Tần số gây ức chế tốt nhất là 100-150Hz.
+ Thường dùng điều trị đau nhức, phục hồi vận động, viêm nhiễm.
III. Kỹ thuật điều trị điện trên huyệt
A. Các cách điều trị điện trên huyệt
1. Dùng kim dẫn điện vào huyệt
− Cách thực hiện: sau khi châm kim vào huyệt theo đúng thủ thuật cần châm, cho cực điện tiếp xúc với kim để kim dẫn điện vào thẳng tổ chức.
− Đặc điểm:
− Dòng điện được kim dẫn trực tiếp tới các tổ chức tế bào của cơ thể.
+ Dòng điện được kích thích vào những chỗ gọi là huyệt (nơi có khả năng tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài để chữa bệnh (YHCT), nơi có một mẫn cảm đặc biệt (YHHĐ)).
+ Diện tích của cực điện tiếp xúc với cơ thể hết sức nhỏ (0,1 - 0,5cm2), mật độ điện trên một đơn vị diện tích trở nên cao. Chính vì thế mà chỉ đưa vào huyệt một công suất điện hết sức nhỏ cũng vẫn gây ra một tác dụng kích thích mạnh.
+ Khi dùng dòng diện một chiều đều, tổ chức quanh kim sẽ bị bỏng hóa học (dù rất nhỏ). Sau khi rút kim, ảnh hưởng của bỏng vẫn còn tồn tại một thời gian và trở thành một kích thích thường xuyên đối với huyệt. Nhờ vậy khoảng cách 2 lần châm cho một huyệt có thể kéo dài ra rất hợp với điều trị bệnh mạn tính.
2. Dùng cực điện nhỏ đưa điện qua da vào huyệt
− Cách thực hiện: đặt những điện cực (thường là những bản dẹt) lên mặt da tại những huyệt. Cố định điện cực lên mặt da với những băng dính (hiện nay đã sản xuất những điện cực dán được trên mặt da). Nối với các điện cực của máy điện châm.
− Đặc điểm:
+ Khác với điện châm cách 1: không làm bệnh nhân đau hay khó chịu. Kết quả không nhanh và thường được đánh giá là không bằng cách 1.
+ Khác với lý liệu pháp: dòng điện chỉ đưa vào một diện hẹp (chỉ đưa vào các huyệt thích ứng), dòng điện cho vào nhỏ nhưng vẫn có được những tác dụng tại chỗ và toàn thân mong muốn.
B. Cách tiến hành châm điện
1. Chọn huyệt
Chẩn đoán xác định nguyên nhân bệnh theo y học hiện đại và y học cổ truyền, đề ra phương pháp chữa bệnh, chọn huyệt tiến hành châm kim (giống như châm kim thường quy).
Trong giai đoạn này yếu tố cần quan tâm là việc chọn huyệt để kích thích điện. Chọn huyệt để châm thường có nhiều, song không phải tất cả đều phải được kích thích điện mới tốt. Nguyên tắc lớn trong điều trị điện là dòng điện phải đi qua nơi cần điều trị hay cực điện phải đặt trên vùng da có cùng tiết đoạn Thần kinh với nơi cần điều trị.Do đó chỉ cho điện kích thích lên huyệt khi nào yêu cầu của châm cứu và của điều trị điện phù hợp với nhau.
Việc chọn huyệt kích thích điện có thể thực hiện như sau:
− Đối với đau nhức, viêm nhiễm:
+ Huyệt cơ bản là a thị.
+ Huyệt thứ 2 có thể được chọn theo một trong những cách sau:
• ở phía đối diện sao cho dòng điện đi qua được nơi đau.
• ở trên đường kinh đi qua nơi đau.
• Là huyệt có tác dụng đối với bệnh và có cùng tiết đoạn Thần kinh với vùng đau cần điều trị (ví dụ: đau ngực chọn a thị và nội quan).
− Đối với bại liệt: có thể chọn như sau
+ Cả 2 huyệt nằm trên đường kinh đi qua nơi bị liệt.
+ Huyệt cùng tiết đoạn Thần kinh với cơ bị liệt.
+ Một huyệt trên điểm vận động của cơ bị liệt, huyệt thứ 2 chọn dọc theo cơ bị liệt.
2. Chọn dòng điện và cực điện
Trước mỗi bệnh cụ thể, muốn chọn dòng điện nào, cần lưu ý xem lại tác dụng sinh lý, tác dụng chữa bệnh của dòng điện của máy có phù hợp với bệnh cần chữa không?
− Nói chung, dòng diện một chiều đều thích hợp nhất với điều trị bệnh mạn tính, những trường hợp cần phục hồi dinh dưỡng của các tổ chức.
− Trong khi đó dòng điện xung có tác dụng tốt trong chống đau, kích thích cơ bại liệt, tăng cường tuần hoàn cho những vùng bị giảm tuần hoàn do lạnh, viêm, co thắt....
Việc chọn cực điện rất quan trọng mà thường bị bỏ quên vì tác dụng của cực âm và cực dương hoàn toàn trái ngược nhau. Do đó, tùy theo yêu cầu của vị trí đặt cực điện mà chọn cực kích thích
+ Chọn cực âm:dùng kích thích Thần kinh cảm giác, tăng mẫn cảm, tăng trương lực cơ và Thần kinh, tăng hoạt động dinh dưỡng và chuyển hóa.
+ Chọn cực dương:dùng ức chế Thần kinh cảm giác, giảm mẫn cảm, giảm trương lực cơ và Thần kinh, giảm đau, giảm co thắt.
3. Tiến hành kích thích điện trên kim
− Kiểm tra lại máy móc trước khi vận hành, tất cả các núm điện phải ở vị trí số 0 (công tắc đóng).
− Trên các kim đã châm, chọn lắp điện cực theo yêu cầu của chữa bệnh, nối điện cực vào kim.
− Bật công tắc cho máy chạy, xem đèn báo, vặn núm điều khiển công suất điện kích thích tăng từ từ, đạt đến mức độ yêu cầu của điện thế và cường độ thích ứng với từng người bệnh (người bệnh có cảm giác dễ chịu hay hơi căng tức, chịu đựng được). Người thầy thuốc có thể thấy vùng kích thích điện co nhịp nhàng, giao động kim điều hòa.
C. LIệU TRìNH ĐIệN CHâM
Liệu trình chữa bệnh bằng điện châm nói chung cũng giống như châm cứu, thủy châm. Thời gian của mỗi lần điều trị cần dựa vào sự tiếp thu kích thích của từng người bệnh, trong từng bệnh, từng lúc, đối với từng loại dòng điện mà quyết định. Nói chung cần theo dõi, đánh giá tình trạng bệnh nhân sau khi châm lần thứ nhất.
− Nếu bệnh giảm, không có mệt mỏi, mất ngủ....: duy trì thời gian kích thích.
Nếu bệnh giảm, kèm mệt mỏi, mất ngủ...:tổng lượng kích thích quá mạnh. Cần giảm thời gian kích thích.
− Nếu bệnh giảm ngay sau khi điều trị, về nhà đau trở lại, cần tăng thời gian lên.
Trung bình ngày châm một lần hay cách ngày châm một lần: từ 10 đến 15 lần điện châm là một liệu trình, nghỉ độ 10 đến 15 ngày rồi tiếp tục tùy theo yêu cầu chữa bệnh.
Khi gặp người bệnh có cơn đau liên tục, có thể ngày điện châm vài lần.
D. TAI BIếN Và CáCH Xử TRí, Đề PHòNG
− Tai biến của châm kim: choáng, chảy máu, gẫy kim, đề phòng và xử lý giống như đã nêu trong chương phương pháp châm kim.
− Tai biến của kích thích điện: đối với dòng xung điện thì hầu như rất ít tai biến. Nếu người bệnh thấy khó chịu, chóng mặt....thì ngừng kích thích điện động thời rút kim ra ngay.

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

KỸ THUẬT CHÂM VÀ CỨU

Mục tiêu
1. Định nghĩa được châm và cứu.
2. Nêu được những thái độ của người thầy thuốc khi châm và cứu.
3. Liệt kê được 10 tư thế của bệnh nhân và chỉ định sử dụng của chúng.
4. Trình bày được 4 phương pháp đo lấy huyệt khi châm.
5. Trình bày được 3 góc độ châm kim, 6 thao tác châm kim và cách nhận biết những biểu hiện của "đắc khí".
6. Liệt kê được hai cách cứu với phương tiện là ngải nhung.
7. Trình bày được phương pháp cứu trực tiếp và gián tiếp bằng điếu ngải.
8. Nêu được chỉ định và chống chỉ định của châm, cứu; các tai biến xảy ra khi châm, cứu và cách phòng chống.
 
I. KỸ THUẬT CHÂM
A. Định nghĩa châm
Châm là dùng kim châm vào những điểm trên cơ thể gọi là huyệt, nhằm mục đích phòng và trị bệnh
B. Sơ LượC Về CáC LOạI KIM CHâM
Thời thượng cổ người xưa đã dùng đá mài nhọn để châm (biếm thạch). Sau đó cùng với sự phát triển, vật liệu để châm không ngừng thay đổi, từ đá mài đến đồng, sắt, vàng, bạc và ngày nay là thép không gỉ.
Sách Linh khu đã ghi lại 9 loại kim có hình dáng, kích thước và cách dùng khác nhau.Chín loại kim cổ ấy là: Sàm châm, Viên châm, Đề châm, Phong châm, Phi châm, Viên lợi châm, Hào châm, Trường châm và Đại châm.

Hình 8.1. Chín (9) loại kim châm cổ
Ngày nay, trong châm cứu ta thường dùng 5 loại kim chính gồm:
− Kim nhỏ (hào châm): hình dáng giống hào châm cổ, nhưng kích thước hơi khác, có nhiều loại dài ngắn khác nhau. Đây là loại kim thường được dùng nhất hiện nay.
− Kim dài (trường châm ): hình dáng giống như trường châm cổ nhưng ngắn hơn, thường dùng để châm huyệt Hoàn khiêu (ở mông).
− Kim ba cạnh: tương tự như kim phong châm cổ. Kim có 3 cạnh sắc, dùng châm nông ngoài da và làm chảy máu.
− Kim cài loa tai (nhĩ hoàn): là loại kim mới chế tạo, dùng để găm vào da và lưu lâu ở loa tai.
− Kim hoa mai: cũng là một loại kim mới, dùng để gõ trên mặt da.

Hình 8.2. Các loại kim thông thường
Những loại kim châm cứu
- Chín loại kim nêu trong những tài liệu châm cúu cổ: Sàm châm, Viên châm, Đề châm, Phong châm, Phi châm, Viên lợi châm, Hào châm, Trường châm và Đại châm.
- Năm loại kim châm cúu thường dùng hiện nay gồm: Hào châm (kim nhỏ), Trường châm (kim dài), Kim tam lăng (kim 3 cạnh), Nhĩ hoàn (kim cài loa tai), Kim hoa mai.
C. NHữNG NộI DUNG CầN CHú ý KHI CHâM CứU
1. Thái độ của thầy thuốc
− Cũng như trong các phương pháp điều trị khác, thái độ của thầy thuốc trong châm cứu rất quan trọng
− Cần phải tranh thủ được lòng tin của bệnh nhân: lòng tin là một yếu tố tâm lý quan trọng sẽ đóng góp tích cực vào quá trình chữa bệnh và hồi phục sức khỏe của bệnh nhân.
+ Thầy thuốc cần lưu ý: sự hòa nhã, nghiêm túc, vui vẻ, coi trọng người bệnh cùng với thao tác châm thuần thục sẽ giúp bệnh nhân thoải mái và do đó bệnh nhân sẽ hợp tác tốt với thầy thuốc trong việc chữa bệnh.
+ Cần kiên trì khéo léo giải thích cho bệnh nhân yên tâm trước những thủ thuật châm, giúp bệnh nhân tránh những căng thẳng vô ích trong khi châm, tạo điều kiện tốt cho châm cứu phát huy tác dụng của nó.
2. Tư thế bệnh nhân
Chọn tư thế bệnh nhân đúng sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình châm.
Các nguyên tắc khi chọn tư thế người bệnh:
− Chọn tư thế sao cho vùng được châm được bộc lộ rõ nhất.
− Bệnh nhân phải hoàn toàn thoải mái trong suốt thời gian lưu kim (vì nếu không thoải mái, người bệnh sẽ phải thay đổi tư thế làm cong kim, gãy kim hoặc đau vì kim bị co kéo trái chiều).
a. Tư thế ngồi: có 7 cách ngồi
− Ngồi ngửa dựa ghế: để châm những huyệt ở trước đầu, mặt, trước cổ, ngực, trước vai, mặt ngoài và mặt sau tay, mu bàn tay, mặt ngoài và mặt trước chân, mu bàn chân.
− Ngồi chống cằm: để châm những huyệt ở đầu, trước mặt, gáy lưng, sau vai, mặt ngoài cánh tay, mặt trong và mặt sau cẳng tay và tay, bờ trong và mu bàn tay.

− Ngồi cúi sấp: để châm những huyệt ở đỉnh và sau đầu, gáy, mặt bên cổ, mặt sau vai, lưng, mặt bên ngực, mặt bên bụng, mặt sau và mặt ngoài cánh tay, mặt sau và mặt ngoài khuỷu tay.

− Ngồi cúi nghiêng: để châm những huyệt ở một bên đầu, một bên tai, một bên cổ, sau vai, lưng, mặt bên mình, mặt ngoài và mặt sau một bên tay, mặt sau một bên cẳng tay và cổ tay, mu bàn tay và bờ trong bàn tay.

- Ngồi thẳng l-ng: để châm những huyệt ở đầu, mặt,cổ,gáy,tai,l-ng,vai,mặt bên hông,mặt ngoài và mặt sau cánh tay,mặt ngoài và mặt sau khuỷu tay.

- Ngồi duỗi tay: để châm những huyệt ở đầu,mặt,cổ, gáy,tai,l-ng,vai,mặt bên ngực và bụng; mặt ngoài,mặt tr-ớc và mặt trong cánh tay; mặt ngoài,mặt tr-ớcvà mặt
trong khuỷu; mặt ngoài,mặt tr-ớc và mặt trong cẳng tay; mặt ngoài,mặt tr-ớcvà mặt trong cổ tay,hai bờ bàn tay, mặttr-ớcvà mặt bên các ngón tay.

- Ngồi co khuỷu tay,chống lên bàn: để châm những huyệt ở đầu, mặt,cổ,gáy,tai,l-ng,vai,ngực, mặtngoài mặttr-ớc và mặt sau cánh tay,mặtngoài và mặt sau khuỷu,cẳng tay và cổ tay,bờ ngoài bàn tay,mu bàn tay,mặt sau các ngón tay.

b. T-thế nằm: có3 t-thế nằm
- Nằm nghiêng: để châm những huyệt ở nửa bên đầu,nửa bên mặt,nửa bên cổ và gáy,mặt bên và mặt tr-ớc ngực -bụng,l-ng, mặt ngoài,mặt tr-ớc và mặt sau của tay và chân,mặt bên mông.

- Nằm ngửa:để châm những huyệt ở tr-ớc đầu,mặt,ngực, bụng,cổ,mặt tr-ớc và mặt ngoài vai, mặt tr-ớc,mặt trong và mặt ngoài tay -chân,muvàlòng bàn tay -bàn chân.

- Nằm sấp:để châm những huyệt ở sau đầu gáy,l-ng,mông,mặt sau và mặt bên vai,mặt bên thân,mặt sau,mặt ngoài,mặt trong tay -chân,lòng bàn chân.

Tùy vùng huyệt định châm mà chọn t-thế thích hợp. T- thế nằm th-ờng được chọn vì giúp bệnh nhân thoải mái và ít bị tai biến choáng do châm.
3. Xác định chính xác vị trí huyệt
Các nhà châm cứu thời xưa đã sáng tạo ra bốn phương pháp xác định chính xác vị trí huyệt.
a. Phương pháp đo để lấy huyệt
Phương pháp này sử dụng các quy ước về các loại thốn. Thốn là đơn vị chiều dài của châm cứu. Có 2 loại thốn:
− Thốn phân đoạn (bone proportional - cun), nên còn gọi là thốn B − Thốn ngón tay (finger - cun), nên còn gọi là thốn F.
Thốn B được sử dụng trong những vùng đã được phân đoạn.
Bảng 8.1. Các vùng phân đoạn (xem sơ đồ kèm)

Vùng cơ thể Mốc đo đạc Số thốn theo tài liệu cổ
(Linh khu)
Số thốn hiện nay
  Giữa 2 gốc tóc trán (đầu duy) 9 9
ĐầU Giữa 2 cung lông mày đến chân tóc trán 3 3
  Giữa chân tóc trán đến chân tóc gáy 12 12
  Bờ trên xương ức đến góc 2 cung sườn 9 9
BụNG Góc 2 cung sườn đến giữa rốn 8 8
NGựC Giữa rốn đến bờ trên xương vệ 6,5 5
LưNG Đường giữa lưng (nối các gai sống) đến bờ trong xương bả vai 3 3
CHI Ngang đầu nếp nách trước đến ngang nếp gấp khuỷu tay 9 9
TRêN Nếp gấp khuỷu tay đến nếp gấp cổ tay 12,5 12
  Mấu chuyển lớn đến ngang khớp gối 19 19
CHI DướI Nếp khoeo chân đến ngang lồi cao nhất mắt cá ngoài 16 16
  Bờ dưới mâm xương chày đến ngang lồi cao nhất mắt cá trong 13 13

Hình 8.3. Phân đoạn dọc đầu và Hình 8.4. Phân đoạn của mặt trước cơ thể
Thốn F thường được dùng cho các huyệt ở mặt, bàn tay, bàn chân, ....Thốn F được quy ước bằng chiều dài của đốt giữa ngón thứ 3 của chính cơ thể người ấy (đồng thân thốn). Theo công trình nghiên cứu của Viện Đông y Hà Nội, ở một người cao 1,58m với cách tính 1 thốn = 1/75 chiều cao cơ thể, thì chiều dài của thốn trung bình của người Việt Nam là 2,11cm.
b. Phương pháp dựa vào mốc giải phẫu hoặc hình thể tự nhiên (nếp nhăn, lằn chỉ,...) để lấy huyệt
Nói chung huyệt thường ở vào chỗ lõm cạnh một đầu xương, một ụ xương, giữa khe hai xương giáp nhau, giữa khe hai cơ hoặc hai gân giáp nhau, trên nếp nhăn của da hoặc ở cạnh những bộ phận của ngũ quan. Người xưa đã lợi dụng những đặc điểm tự nhiên này để làm mốc xác định vị trí huyệt (ví dụ: huyệt tình minh ở gần khoé mắt trong, huyệt thái xung ở khe giữa 2 xương bàn ngón 1 và 2).

Hình 8.5. Phân đoạn của mặt sau/cơ thể
D-ới đây là các loại thốn F:


Hình 8.6. Thốn F (theo đốt giữa ngón 3) và Hình 8.7. Thốn F (theo ngón cái) và Hình 8.8. Ba H (3) thốn F
c. Phương pháp lấy huyệt dựa vào tư thế hoạt động của một bộ phận
Phương pháp lấy huyệt này đòi hỏi người bệnh phải làm một số động tác đặc biệt để người thầy thuốc xác định huyệt (ví dụ như bệnh nhân co khuỷu tay để xác định huyệt khúc trì).
d. Phương pháp lấy huyệt dựa vào cảm giác khi dùng ngón tay đè
và di chuyển trên da
Sau khi xác định vùng huyệt bằng ba phương pháp trên, muốn tìm vị trí chính xác để châm kim, các nhà châm cứu thường dùng ngón tay ấn mạnh trên vùng huyệt và di chuyển ngón tay trên mặt da vùng huyệt. Mục đích của thao tác này nhằm phát hiện: hoặc bệnh nhân có cảm giác ê, tức, có cảm giác như chạm vào dòng điện hoặc người thầy thuốc cảm nhận được dưới da có một bó cơ cứng chắc hơn vùng bên cạnh.
4. Thao tác châm kim
a. Chọn kim
Chọn độ dài kim tùy thuộc độ dày cơ vùng định châm.
Kiểm tra lần cuối cùng xem kim châm có đảm bảo yêu cầu không? Loại bỏ kim quá cong, rỉ sắt hoặc móc câu.
b. Sát trùng da
áp dụng kỹ thuật vô trùng trong bệnh viện.
c. Châm qua da
Yêu cầu khi châm kim qua da bệnh nhân, không đau hoặc ít đau. Muốn vậy thao tác châm phải nhanh, gọn, dứt khoát.
Để đạt được yêu cầu trên, cần phải chú ý đến các nội dung sau:
− Cầm kim thật vững: cầm bằng 3 hoặc 4 ngón tay ở đốc kim.
− Cầm thẳng kim.
− Lực châm phải tập trung ở đầu mũi kim.
− Thực hiện động tác phụ trợ để châm qua da nhanh:
+ Căng da ở những vùng cơ dày.
+ Véo da ở vùng cơ mỏng hoặc ít cơ.
+ Khi làm căng da hoặc véo da cần lưu ý không chạm tay vào chỗ sẽ cắm kim để tránh nhiễm trùng nơi châm.
+ Khi châm, cần lưu ý góc đo của kim khi châm (của kim so với mặt da)
• Góc 600 - 900: vùng cơ dày.
• Góc 150 - 300: vùng cơ mỏng.
Cần kết hợp các điều kiện trên để châm đạt yêu cầu.
Ví dụ:
Vùng cơ dày: chọn kim dài, châm thẳng, sâu kết hợp với căng da; vùng cơ mỏng: chọn kim ngắn, châm xiên 150-300 kết hợp với véo da.

Hình 8.9. Góc châm kim vùng cơ dày và Hình 8.10. Góc châm kim vùng cơ mỏng
d. Vê kim
Vê kim để đưa kim tiến tới hay lui dễ dàng và tìm cảm giác đắc khí.
Sau khi châm xong dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ (hoặc ngón tay cái và ngón 2 - 3) để vê kim, cứ khi đẩy ngón cái tiến ra trước thì lùi ngón trỏ (hoặc ngón 2 - 3), khi ngón trỏ tiến thì ngón cái lùi. Động tác này được thực hiện đều đặn, linh hoạt, nhịp nhàng.
e. Cảm giác đắc khí
Đắc khí là vấn đề rất quan trọng khi châm.
Theo Đông y, khi châm đạt được cảm giác đắc khí chứng tỏ khí của bệnh nhân được huy động đến thông qua mũi châm - đạt kết quả tốt.
Nếu châm mà không tìm được cảm giác đắc khí chứng tỏ "khí" của bệnh nhân đã suy kém - không áp dụng châm để điều trị.
Có thể hiểu đây là đáp ứng của người bệnh, thông qua hệ Thần kinh đối với kích thích của mũi châm.
Có thể xác định khi châm có cảm giác đắc khí bằng một trong hai cách:
− Cảm giác của bệnh nhân: thấy căng, tức, tê, nặng, mỏi tại chỗ châm hoặc lan xung quanh nhiều hoặc ít.
− Cảm giác ở tay thầy thuốc: thấy kim như bị da thịt vít chặt lấy, tiến hay lui kim có sức cản (cảm giác tương tự khi châm vào cục gôm tẩy).
Các cách thường dùng để tạo cảm giác đắc khí:
+ Búng kim: búng vào cán kim nhiều lần.
+ Vê kim: ngón cái và trỏ vê đốc kim theo hai chiều nhiều lần. Cách này thường dùng.
+ Tiến, lui kim: vừa vê kim vừa kéo kim lên xuống.
e. Rút kim
Khi hết thời gian lưu kim, người thầy thuốc có thể rút kim theo hai cách:
− Nếu kim lỏng lẻo: cầm kim rút lên nhẹ nhàng.
− Nếu kim còn vít chặt: vê kim nhẹ trước khi rút lên sau đó sát trùng chỗ châm.
Sau khi rút kim, sát trùng da chỗ kim châm.
Một số trường hợp sau khi rút kim chỗ châm vẫn còn cảm giác khó chịu (thường do kích thích quá mức trong khi châm) thì có thể xử lý bằng hai cách: hoặc dùng ngón tay day, vuốt xung quanh hoặc cứu thêm lên trên huyệt thì cảm giác khó chịu sẽ dịu đi.
Những điểm cần chú ý khi thực hiện kỹ thuật châm
- Thầy thuốc châm cứu phải rèn luyện thái độ hòa nhã, nghiêm túc, vui vẻ, coi trọng người bệnh khi thực hiện thủ thuật.
- Thầy thuốc châm cứu phải chọn tư thế bệnh nhân sao cho vùng được châm được bộc lộ rõ nhất và bệnh nhân phải hoàn toàn thoải mái trong suốt thời gian lưu kim (có tất cả 7 loại tư thế ngồi và 3 tư thế nằm khác nhau để thầy thuốc chọn lựa).
- Thầy thuốc châm cứu phải sử dụng thành thạo những phương pháp xác định vị trí huyệt. Có bốn phương pháp khác nhau:
+ Dùng thốn để lấy huyệt (thốn B và thốn F)
+ Dựa vào mốc giải phẫu hoặc hình thể tự nhiên (nếp nhăn, lằn chỉ…) để lấy huyệt.
+ Lấy huyệt dựa vào tư thế hoạt động của một bộ phận.
+ Lấy huyệt dựa vào cảm giác của người bệnh khi dùng ngón tay đè và di chuyển trên da.
- Thầy thuốc châm cứu phải rèn luyện thành thạo kỹ thuật châm kim, gồm:
+ Sử dụng kim có độ dài phù hợp với vị trí của huyệt.
+ Đảm bảo yêu cầu vô trùng của kỹ thuật.
+ Châm qua da phải nhanh, gọn, dứt khoát.
+ Phối hợp đúng các thủ thuật để có được cảm giác đắc khí.
Cảm giác đắc khí
- Cảm giác đắc khí là đáp ứng của người bệnh, thông qua hệ Thần kinh đối với kích thích của mũi châm.
- Xác định cảm giác đắc khí bằng:
+ Cảm giác của bệnh nhân: thấy căng, tức, tê, nặng, mỏi tại chỗ châm hoặc lan xung quanh nhiều hoặc ít.
+ Cảm giác ở tay thầy thuốc: thấy kim như bị da thịt vít chặt lấy, tiến hay lui kim có sức cản.
IV. Chỉ định và chống chỉ định của châm
1. Chỉ định
Trong các chứng đau cấp và mạn tính: đau do đụng giập, chấn thương, đau sau mổ, đau các khớp hoặc phần mềm quanh khớp, đau bụng do rối loạn tiêu hóa, đau trong các bệnh lý về Thần kinh...
Điều chỉnh các rối loạn cơ năng của cơ thể: rối loạn chức năng Thần kinh tim, mất ngủ không rõ nguyên nhân, kém ăn, đầy bụng, tiêu chảy, táo bón, cảm cúm, bí tiểu chức năng, nấc,...
Còn chỉ định trong một số bệnh lý thực thể nhất định.
2. Chống chỉ định
− Cơ thể suy kiệt, sức đề kháng giảm.
− Tránh châm vào những vùng huyệt có viêm nhiễm hoặc lở loét ngoài da.
− Tất cả những cơn đau nghi do nguyên nhân ngoại khoa...
IV. Các tai biến khi châm và cách đề phòng
1. Kim bị vít chặt không rút ra được
− Thường do cơ tại chỗ co lại khi châm hoặc do sợi cơ xoắn chặt thân kim.
− Xử trí: ấn nắn, xoa bóp nhẹ nhàng xung quanh để làm giãn cơ hoặc vê nhẹ kim, rút ra từ từ.
2. Kim bị cong, không vê kim được
− Xử trí: lựa chiều cong rút ra, vuốt thẳng kim lại.
− Phòng ngừa: cầm kim đúng cách hoặc để bệnh nhân ở tư thế thích hợp.
3. Gãy kim
− Do kim gỉ sắt hoặc gấp khúc nhiều lần.
− Xử trí: giữ nguyên tư thế người bệnh khi kim gãy.
− Nếu đầu kim gãy thò lên mặt da: rút kim ra
− Nếu đầu kim gãy sát mặt da: dùng hai ngón tay ấn mạnh hai bên kim để đầu kim ló lên, dùng kẹp rút ra.
− Nếu đầu kim gãy lút vào trong da: mời ngoại khoa.
− Phòng ngừa: kiểm tra kỹ mỗi cây kim trước khi châm.
4. Say kim (choáng do châm, còn gọi là vượng châm ) Tai biến xảy ra nhanh, không chừa một ai và bất cứ lúc nào.
− Biểu hiện:
+ Nhẹ: mặt nhợt, vã mồ hôi, hoa mắt, bồn chồn, có thể buồn nôn.
+ Nặng: ngất, tay chân lạnh.
− Xử trí:
+ Nhẹ: rút hết kim, cho bệnh nhân nằm đầu thấp.
+ Nặng: rút kim, nằm đầu thấp; bấm day huyệt nhân trung, hợp cốc, có thể trích nặn máu 10 đầu ngón tay (nhóm huyệt thập tuyên) hoặc hơ nóng: khí hải, quan nguyên, dũng tuyền.
− Phòng ngừa: không châm kim khi đói quá hoặc no quá, mới đi xa đến còn mệt, quá sợ.
5. Rút kim gây chảy máu hoặc tụ máu dưới da
− Xử trí: dùng bông vô trùng chặn lên lỗ kim, day nhẹ.
− Phòng ngừa: rút bớt kim lên, đổi chiều khi xuất hiện cảm giác đau buốt dưới da vì kim đã châm trúng mạch máu.
6. Châm trúng dây thần kinh
Thường có cảm giác tê như điện giật theo đường Thần kinh.
− Xử trí: tương tự khi châm trúng mạch máu.
− Lưu ý: nếu đã châm trúng dây Thần kinh mà vẫn tiếp tục vê kim có thể làm tổn thương sợi Thần kinh.
7. Châm phạm vào cơ quan nội tạng
Những báo cáo gần đây cho thấy có những tai biến tràn khí màng phổi sau châm cứu.
Những tai biến khi thực hiện kỹ thuật châm
- Những tai biến của châm cứu gồm: khi bị vít chặt, kim bị cong, gãy kim, choáng do châm, chảy máu nơi châm, châm trúng dây Thần kinh. Ngoài ra đã có những tai biến nặng nề hơn đã được ghi nhận như tràn khí màng phổi, nhiễm trùng. - Tất cả những tai biến trên đều dễ dàng phòng tránh.
II. Kỹ thuật cứu
A. Định nghĩa cứu
Cứu là dùng sức nóng tác động lên huyệt để kích thích tạo nên phản ứng của cơ thể, nhằm mục đích phòng và trị bệnh.
B. Những việc làm để tăng hiệu quả của cứu
1. Thái độ của người thầy thuốc
Cũng như châm, thái độ của người thầy thuốc góp phần làm tăng kết quả của cứu. Cần ôn hòa, nhã nhặn, giải thích cho bệnh nhân hiểu về phương pháp cứu để tránh cho bệnh nhân lo lắng vô ích.
 
2. Chọn tư thế người bệnh
Nguyên tắc để chọn tư thế người bệnh:
− Huyệt được cứu phải hướng lên trên, mặt da nằm ngang.
− Tư thế được chọn phải tạo được sự thoải mái cho người bệnh trong suốt thời gian cứu.
C. PHươNG TIệN
Thường dùng ngải nhung (phần xơ của lá cây ngải cứu đã phơi khô, vò nát, bỏ cuống và gân lá). Có hai cách cứu khi dùng ngải nhung: điếu ngải và mồi ngải.
Điếu ngải: dùng ngải nhung quấn thành điếu lớn đốt rồi hơ trên huyệt.
Mồi ngải: dùng 3 ngón tay chụm và ép chặt một ít ngải cứu cho có hình tháp, đặt trực tiếp hay gián tiếp lên huyệt và đốt từ trên xuống. Cách này ít dùng.

Hình 8.11. Điếu ngải và Hình 8.12. Mồi ngải
Những thầy thuốc châm cứu ngày nay còn sử dụng đèn hồng ngoại để cứu ấm (thường một vùng với nhiều huyệt).
D. Cứu bằng điếu ngải
Có 3 cách cứu trực tiếp với điếu ngải và một cách cứu gián tiếp (cứu nóng).
1. Cứu điếu ngải để yên (cứu ấm )
Đốt đầu điếu ngải, hơ trên huyệt, cách da độ 2cm. Khi người bệnh thấy nóng thì cách xa dần ra, đến mức nào người bệnh thấy nóng ấm và dễ chịu thì giữ nguyên khoảng cách đó cho đến khi vùng da được cứu hồng lên là được (thường khoảng 10 - 15 phút). Khi cứu nên dùng ngón tay út, đặt lên da làm điểm tựa để cố định khoảng cách đầu điếu ngải với da.

Hình 8.13. Cứu ấm với mồi ngải
Cách cứu này dùng cho mọi chỉ định của cứu.
2. Cứu xoay tròn
Đặt diếu ngải cách da 1 khoảng đủ thấy nóng ấm, rồi từ từ di chuyển điếu ngải theo vòng tròn, từ hẹp tới rộng. Khi người bệnh thấy nóng đều vùng định cứu là được. Thường kéo dài khoảng 20-30 phút. Cách cứu này hay dùng để chữa các bệnh ngoài da.

Hình 8.14. Cứu xoay tròn
3. Cứu điếu ngải lên xuống (cứu mổ cò)
Đưa đầu điếu ngải lại gần sát da (người bệnh có cảm giác nóng rát) rồi lại kéo điếu ngải xa ra, làm như thế nhiều lần, thường cứu trong khoảng 2-5 phút.
Cách cứu này thường dùng cho chứng thực và trong chữa bệnh cho trẻ em.
4. Cứu nóng

Hình 8.15. Cứu mổ cò
Cứu nóng còn gọi là cứu gián tiếp bằng điếu ngải: hơ điếu ngải lên vùng da thông qua một lát gừng, lát tỏi hoặc một nhúm muối trên da.
E. CứU BằNG MồI NGảI
Cứu bằng mồi ngải có hai phương pháp khác nhau: cứu trực tiếp và cứu gián tiếp
1. Cứu trực tiếp: gồm 2 loại
− Cứu bỏng: hiện nay ít được dùng.
− Cứu ấm: thường dùng mồi ngải to.
Đặt mồi ngải vào huyệt và đốt. Khi mồi ngải cháy được 1/2, người bệnh có cảm giác nóng ấm thì nhấc ra và thay bằng mồi ngải thứ 2, thứ 3 theo y lệnh. Sau khi cứu xong, chỗ cứu thấy ấm và có quầng đỏ.
2. Cứu gián tiếp
Đây là cách cứu có dùng lát gừng, lát tỏi,.... đặt vào giữa da và mồi ngải, thường được dùng trong cách cứu ấm. Cách cứu này thường dễ gây biến chứng bỏng hơn cách cứu trực tiếp, cần chú ý để phòng tránh.
Khi mồi ngải cháy được 2/3 thì thay mồi ngải khác lên mà cứu, cho đến khi da chỗ cứu hồng nhuận lên thì đạt.
Hình thức cứu này (theo YHCT) là hình thức phối hợp hai tác dụng điều trị với nhau (tác dụng của châm cứu và tác dụng dược lý của dược vật sử dụng kèm như gừng, tỏi, muối...). Do đó tùy theo bệnh mà chọn loại này hay loại khác để lót mồi ngải.
VI. Chỉ định và chống chỉ định của cứu
1. Chỉ định
Các bệnh lý hoặc rối loạn thuộc thể "Hàn" theo Đông y.
Thường hay sử dụng trong những trường hợp huyết áp thấp, tiêu chảy kèm ói mửa, tay chân lạnh, các trường hợp đau nhức tăng khi gặp thời tiết lạnh.
2. Chống chỉ định
Các bệnh lý hoặc rối loạn thuộc thể "Nhiệt" của Đông y.
Cần đặc biệt chú ý khi cứu những vùng liên quan đến thẩm mỹ, đến hoạt động chức năng như vùng mặt, các vùng gần khớp (sợ làm bỏng sẽ gây sẹo co rút).
VI. Tai biến xảy ra và cách phòng chống
− Bỏng: tổn thương bỏng trong cứu thường nhẹ (độ I hay độ II).
− Xử trí: tránh không làm vỡ nốt phồng.
− Phòng ngừa: để tay thầy thuốc gần chỗ cứu để biết mức độ nóng.
Những điểm cần chú ý khi thực hiện kỹ thuật cứu
- Thầy thuốc châm cứu phải rèn luyện thái độ hòa nhã, nghiêm túc, vui vẻ, coi trọng người bệnh khi thực hiện thủ thuật.
- Thầy thuốc châm cứu phải chọn tư thế bệnh nhân sao cho vùng được cứu được bộc lộ rõ nhất (tốt nhất là vùng được cứu phải hướng lên trên, mặt da nằm ngang) và bệnh nhân phải hoàn toàn thoải mái trong suốt thời gian lưu kim. Có tất cả 7 loại tư thế ngồi và 3 tư thế nằm khác nhau để thầy thuốc chọn lựa.
- Có hai cách cứu cổ điển (dùng ngải nhung): điếu ngải và mồi ngải.
- Những cách cứu với điếu ngải:
+ Cứu trực tiếp: cứu ấm, cứu xoay tròn (chữa bệnh ngoài da), cứu mổ cò (cứu tả và cho trẻ em).
+ Cứu gián tiép với gừng, tỏi, muối.
- Những cách cứu với mồi ngải: trực tiếp và gián tiếp.
- Những cách cứu gián tiếp là hình thức phối hợp hai tác dụng điều trị với nhau (tác dụng của châm cứu và tác dụng dược lý của dược vật sử dụng kèm).
- Cứu được chỉ định cho những bệnh lý hàn, cũng thường dùng cho những bệnh lý hư.

THỦ THUẬT BỔ TẢ TRONG CHÂM

Mục tiêu
1. Nêu được chỉ định của phép bổ và phép tả.
2. Trình bày được phương pháp châm bổ, tả theo hơi thở; theo chiều mũi kim; theo thứ tự châm; theo kích thích từng bậc; theo bịt và không bịt lỗ châm.
3. Trình bày được phương pháp Thiêu sơn hỏa, Thấu thiên lương.
4. Nêu được các phương pháp bổ tả hiện nay đang dùng.
Trong quá trình điều trị bệnh nhân, người thầy thuốc châm cứu, phải quan tâm đến thủ thuật bổ tả. Tùy theo trường hợp chọn lựa của thầy thuốc mà thủ thuật này sẽ được tiến hành đồng thời hoặc sau khi đã đạt được cảm giác “đắc khí”.
I. Chỉ định của phép bổ
− Những bệnh mà Y học cổ truyền chẩn đoán là hư, thường là những bệnh mắc đã lâu.
− Cơ thể suy nhược, sức đề kháng giảm
II. Chỉ định của phép tả
− Những bệnh mà Y học cổ truyền chẩn đoán là thực, thường là những bệnh mới mắc.
− Cơ thể bệnh nhân còn khỏe, phản ứng với bệnh còn mạnh.
III. Những loại thủ thuật bổ và tả kinh điển
Có cách bổ tả dùng đơn thuần một thủ thuật, có cách bổ tả dùng phối hợp 2 đến 3 thủ thuật. Người xưa đã đề cập đến những thủ thuật sau đây:
1. Bổ tả theo hơi thở
Bổ: khi người bệnh thở ra thì châm kim vào, gây được cảm giác “ đắc khí”, chờ lúc người bệnh hít vào thì rút kim ra. Như thế, khí được đầy đủ ở trong nên có tác dụng bổ hư.
Tả: khi người bệnh hít vào thì châm kim vào, gây được cảm giác “ đắc khí”, chờ lúc người bệnh thở ra thì rút kim ra.
2. Bổ tả theo chiều mũi kim, thứ tự châm
Bổ: sau khi đạt cảm giác “đắc khí”, hướng mũi kim đi theo chiều vận hành của kinh mạch để dẫn khí, do đó có tác dụng bổ, (ví dụ: châm các kinh âm ở tay thì hướng mũi kim về phía ngón tay, châm các kinh dương ở tay thì mũi kim hướng về phía đầu); nếu châm nhiều huyệt trên một kinh thì châm các huyệt theo thứ tự thuận với chiều vận hành của kinh khí, (ví dụ: châm các kinh âm ở tay thì châm các huyệt ở ngực, cánh tay trước; huyệt ở bàn tay, ngón tay sau).
Tả: sau khi đạt cảm giác “đắc khí”, hướng mũi kim đi ngược chiều vận hành của kinh mạch để đón khí, chuyển khí, do đó có tác dụng của tả (ví dụ: châm các kinh âm ở chân thì hướng mũi kim về phía ngón chân, châm các kinh dương ở chân thì hướng mũi kim về phía đầu). Nếu châm nhiều huyệt trên một kinh thì châm các huyệt theo thứ tự nghịch với chiều vận hành của kinh khí (ví dụ: châm các kinh âm ở chân thì châm các huyệt ở ngực, bụng trước, các huyệt ở bàn chân, ngón chân sau; châm các kinh dương ở chân thì châm các huyệt ở ngón chân, bàn chân trước, các huyệt ở đầu, mặt sau).
3. Bổ tả theo kích thích từng bậc
Bổ: châm nhanh vào dưới da (bộ thiên), gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 9 lần (số dương) rồi châm nhanh vào lớp cơ nông (bộ nhân) gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 9 lần; lại châm nhanh vào lớp cơ sâu (bộ địa) gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 9 lần; sau đó từ từ rút kim đến dưới da, dừng lại một lát, từ từ rút kim ra hẳn. Nếu bệnh tình cần thiết, có thể châm lại như trên lần thứ hai.
Tả: làm ngược lại với cách bổ. Trước tiên, từ từ châm thẳng vào lớp cơ sâu (bộ địa), gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 6 lần (số âm); rút kim nhanh lên lớp cơ nông (bộ nhân), gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 6 lần rồi lại rút kim nhanh lên dưới da (bộ thiên), gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 6 lần; sau đó dừng lại một lát rồi rút kim nhanh ra ngoài. Nếu bệnh tình cần thiết, có thể châm lại như trên lần thứ hai.
4. Bổ tả theo bịt và không bịt lỗ châm
Bổ: rút kim ra nhanh (Nội kinh) hoặc rút kim ra từ từ (Đại thành), day ấn để bịt ngay lỗ châm không cho khí thoát ra ngoài.
Tả: rút kim ra từ từ (Nội kinh) hoặc rút kim ra nhanh (Đại thành), không day bịt lỗ kim để cho khí tản ra ngoài.
 
Bảng 10.1. Bảng tóm tắt các cách bổ tả

Phương pháp Bổ Tả
Hơi thở Thở ra, châm kim vào
Hít vào, rút kim ra
Hít vào, châm kim vào
Thở ra, rút kim ra
Chiều mũi kim Hướng mũi kim đi thuận chiều kinh mạch Hướng mũi kim đi ngược chiều kinh mạch
Thứ tự châm Châm các huyệt theo thứ tự thuận chiều kinh mạch Châm các huyệt theo thứ tự ngược chiều kinh mạch
Kích thích từng bậc Châm vào nhanh 3 bậc
Rút kim chậm 1 lần
Châm vào chậm 1 lần
Rút kim nhanh 3 bậc
Bịt hay không bịt lỗ kim Rút kim chậm hay nhanh, day ấn bịt lỗ kim Rút kim nhanh hay chậm, không day bịt lỗ kim
5. Phương pháp bổ tả hỗn hợp
a. Thiêu sơn hỏa, Thấu thiên lương
Bổ: dùng thủ thuật Thiêu sơn hỏa có thể gây được cảm nóng ấm ở chỗ châm hoặc có khi cả toàn thân. Thủ thuật này phối hợp ba thủ thuật trên cùng làm
Bảo người bệnh hít vào bằng mũi 1 lần, thở ra bằng miệng 5 lần. Khi người bệnh đang thở ra châm mau vào dưới da, gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 3 hoặc 9 lần (số dương); châm tiếp vào lớp cơ nông, gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 3 hoặc 9 lần; lại châm tiếp vàp lớp cơ sâu, gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 3 hoặc 9 lần. Sau khi tiến hành và kích thích 3 bậc, từ từ kéo kim lên dưới da, dừng lại một lát, đợi người bệnh hít vào thì rút hẳn kim và day bịt ngay lỗ kim (Châm cứu đại thành).
Tả: dùng thủ thuật Thấu thiên lương, có thể gây được cảm giác mát ở chỗ châm hoặc có khi cả toàn thân. Đây cũng là thủ thuật phối hợp ba thủ thuật đơn giản trên.
+ Bảo người bệnh thở vào bằng miệng 1 lần, thở ra bằng mũi 5 lần. Khi người bệnh đang thở vào, châm từ từ vào lớp cơ sâu, gây “đắc khí”, vê kim theo một chiều 6 lần; rút nhanh lên lớp cơ nông, châm xuống từ từ rồi rút kim nhanh 3 lần; sau đó rút kim nhanh lên dưới da, dừng lại một lát, đợi khi người bệnh thở ra thì rút kim nhanh ra ngoài và không day bịt lỗ kim (Châm cứu đại thành).
IV. Những loại thủ thuật bổ và tả thường dùng hiện nay
Trên cơ sở kinh nghiệm của người xưa, hiện nay các thủ thuật bổ tả thường dùng gồm:
− Bổ tả theo hơi thở bệnh nhân.
− Bổ tả theo cường độ kích thích kim.
− Bổ tả theo thời gian lưu kim.
− Bổ tả theo kỹ thuật lúc rút kim.
Bảng 10.2. Thủ thuật bổ tả thường dùng
Phương pháp Bổ Tả
Theo hơi thở Thở ra, châm kim vào
Hít vào, rút kim ra
Hít vào, châm kim vào
Thở ra, rút kim ra
Cường độ Châm ”đắc khí”, để nguyên không vê kim Châm ”đắc khí”, vê kim nhiều lần
Thời gian Lưu kim lâu Lưu kim ngắn
Rút kim Rút kim nhanh Rút kim từ từ
Bịt lỗ châm Rút kim bịt ngay lỗ châm Rút kim không bịt lỗ châm
Thầy thuốc châm cứu hiện nay có khi phối hợp cả 5 yêu cầu trên, nhưng rất thường chỉ phối hợp 2 yêu cầu cường độ và thời gian.
V. Những thủ thuật và chỉ định thường dùng
Tên gọi phương pháp Thao tác chính Chứng thích hợp
Phương pháp bổ, tả; bình bổ, bình tả dựa theo tốc độ tiến lùi và vê kim Phép bổ Tiến kim chậm, vê kim nhẹ nhàng, khi rút kim đến sát ngoài da nghỉ một chút rồi rút kim nhanh Hư chứng

Phép điều hòa Tiến lui kim vừa phải Không hư không thực

Phép tả Tiến kim nhanh, vê kim nhanh và rút kim chậm rãi Thực chứng
 Phương pháp dựa theo cường độ kích thích Kích thích nhẹ Vê kim chậm và nhẹ nhàng Trẻ con, bệnh nhân sợ kim hay xỉu

Kích thích vừa Cường độ kích thích vừa Các loại bệnh

Kích thích mạnh Vê kim nhanh và mạnh Bệnh nhân phản ứng chậm (như hôn mê), viêm khớp, viêm cơ, bệnh tâm Thần
Phương pháp dựa theo độ nông sâu của kim châm Châm nông Châm đến dưới da Bệnh ngoài da, bệnh trẻ con, nhiệt chứng tại biểu

Châm vừa Châm vào thịt Các loại bệnh hàn chứng

Châm sâu Châm xuyên qua thịt Viêm cơ, viêm khớp, phong thấp mạn tính bệnh tâm Thần
Phương pháp dựa theo thời gian châm Châm nhanh Châm vào nhanh, rút ra nhanh Hôn mê, nhiệt chứng (ở biểu)

Châm hoãn Châm vào một lúc thì đổi thủ pháp Các bệnh mạn chứng nhiệt chứng (ở lý)

Lưu kim lâu Lưu kim thời gian dài Hàn chứng (viêm cơ, viêm khớp, phong thấp mạn tính), đau nhức, kinh liệt, co rút

NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT

Mục tiêu
1. Trình bày được ba cách chọn huyệt để cấu tạo công thức huyệt (chọn huyệt tại chỗ, chọn huyệt theo lý luận đường kinh, chọn huyệt đặc hiệu) và chỉ định sử dụng của những nguyên tắc này.
2. Trình bày được những cách chọn huyệt theo lý luận đường kinh (theo nguyên - lạc, huyệt du - mộ, huyệt ngũ du, huyệt khích).
3. Nêu được tên và tác dụng điều trị của những huyệt đặc hiệu.
Để điều trị, các nhà châm cứu thường phối hợp nhiều huyệt lại với nhau (còn được gọi là một công thức huyệt). Việc xây dựng công thức huyệt tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc chọn huyệt sau:
− Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ.
− Nguyên tắc chọn huyệt theo lý luận đường kinh. − Nguyên tắc chọn những huyệt đặc hiệu.
I. Chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ
Là cách chọn những huyệt ở chỗ đau, và lân cận nơi đau.
Nói chung, mỗi huyệt đều có ba loại tác dụng: tại chỗ, theo đường kinh và toàn thân. Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ là cách vận dụng đặc điểm đầu tiên về tác dụng điều trị của huyệt.
Những ví dụ sau đây là nói về cách chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ:
− Đau nhức khớp vai: chọn các huyệt kiên ngung, kiên tỉnh, trung phủ.
− Đau đầu vùng trán: chọn các huyệt ấn đường, toản trúc...
− Đau răng: chọn các huyệt giáp xa, địa thương, hạ quan.
Chỉ định: cách chọn huyệt này được sử dụng trong điều trị mọi trường hợp, nhất là đau nhức.
Chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ
- “Tại chỗ” được hiểu là nơi có triệu chứng biểu hiện của bệnh.
- Những huyệt được chọn theo nguyên tắc tại chỗ là những huyệt có vị trí ngay tại hoặc lân cận nơi triệu chứng biểu hiện ra.
- Đây là nguyên tắc chọn huyệt phổ biến nhất.
II. Chọn huyệt theo lý luận đường kinh
Là cách chọn huyệt trên các đường kinh có liên hệ với bệnh và chứng cần điều trị.
− Cách chọn huyệt này dựa trên nguyên tắc kinh mạch đi qua vùng nào thì có tác dụng phòng chống được bệnh tật liên quan đến vùng đó.
− Trên một hoặc những đường kinh có liên hệ đến bệnh chứng cần điều trị, người thầy thuốc châm cứu đặc biệt chú ý đến những huyệt nằm ở những đoạn từ khuỷu tay đến ngón tay và từ đoạn khoeo chân đến ngón chân.
− Các huyệt này thường thuộc các nhóm huyệt nguyên - lạc, khích huyệt, nhóm huyệt ngũ du. Việc chọn những huyệt thuộc những nhóm này phải tuân theo những luật nhất định về phối hợp huyệt.
Dưới đây là những cách chọn huyệt theo nguyên tắc đường kinh
A. CHọN HUYệT NGUYêN - LạC CủA 12 ĐườNG KINH CHíNH
1. Hệ thống nguyên lạc
Theo học thuyết kinh lạc thì cơ thể con người có 12 đường kinh chính: gồm 6 kinh của tạng (kinh âm) và 6 kinh của phủ (kinh dương).
Mỗi kinh của tạng (kinh âm) đều có quan hệ biểu - lý (bên trong và bên ngoài) với một kinh của phủ (kinh dương) nhất định (ví dụ như: kinh Phế với kinh Đại trường, kinh Can với kinh Đởm, kinh Thận với kinh Bàng quang, kinh Tâm bào với kinh Tam tiêu, kinh Tâm với kinh Tiểu trường, kinh Tỳ với kinh Vị).
Mỗi đường kinh đều có một huyệt nguyên và một huyệt lạc. Sự liên hệ giữa kinh âm và kinh dương nêu trên được thực hiện bằng hệ thống nguyên - lạc.
Khí huyết của một đường kinh A có thể đến đường kinh B (có quan biểu lý tương ứng với nó) thông qua hệ thống nguyên lạc này. Khí huyết của kinh A sẽ đi từ huyệt lạc của kinh A đến huyệt nguyên của kinh B. Ngược lại khí huyết của kinh B sẽ đi từ huyệt lạc của kinh B đến huyệt nguyên của kinh A.
Mối liên hệ nguyên - lạc trên được biểu thị bằng sơ đồ sau:

Hình 10.1. Sơ đồ biểu diễn hệ thống nguyên - lạc
Bảng 10.1. Tên huyệt nguyên lạc của 12 chính kinh

Kinh mạch Nguyên Lạc
Phế Thái uyên Liệt khuyết
Đại trường Hợp cốc Thiên lịch
Tâm bào Đại lăng Nội quan
Tam tiêu Dương trì Ngoại quan
Tâm Thần môn Thông lý
Tiểu trường Uyển cốt Chi chính
Can Thái xung Lãi câu
Đởm Khâu khư Quang minh
Tỳ Thái bạch Công tôn
Vị Xung dương Phong long
Thận Thái khê Đại chung
Bàng quang Kinh cốt Phi dương
2. Phương pháp sử dụng huyệt nguyên lạc
− Dùng huyệt nguyên kinh tương ứng của bệnh chứng đó phối hợp với huyệt lạc của kinh quan hệ biểu lý tương ứng với nó. Cách phối hợp này thường được áp dụng trong các bệnh lý hư.
Ví dụ:
+ Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán phế hư:huyệt được chọn gồm thái uyên (huyệt nguyên của Phế) và thiên lịch (huyệt lạc của Đại trường).
+ Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoánĐại trường hư,huyệt được chọn gồm hợp cốc (huyệt nguyên của kinh Đại trường) và liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
− Dùng huyệt lạc kinh tương ứng với chứng bệnh đó. Cách sử dụng riêng huyệt lạc thường được sử dụng cho cả trường hợp bệnh lý thực và trong cả bệnh lý hư.
Những ví dụ:
+ Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoánPhế thực,huyệt được chọn là liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
+ Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Đại trường thực,huyệt được chọn là thiên lịch (huyệt lạc của Đại trường).
B. CHọN HUYệT DU - Mộ
Trong châm cứu học, có một nguyên tắc chọn huyệt rất gần với đặc điểm sinh lý giải phẫu Thần kinh. Đó là nguyên tắc sử dụng các huyệt du và mộ.
1. Hệ thống du - mộ huyệt của 12 đường kinh
− Huyệt du: là những huyệt nằm trên kinh Bàng quang ở lưng (do đó còn gọi là bối du huyệt), đại biểu cho các tạng phủ. Ví dụ :
+ Phế du (bối du huyệt của Phế) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 3 - 4, dù thuộc về kinh Bàng quang nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Phế (các bệnh lý có liên quan đến hô hấp).
+ Tỳ du (bối du huyệt của Tỳ) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 11 - 12, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tỳ (các bệnh lý có liên quan đến tiêu hóa).
+ Đại trường du (bối huyệt du của Đại trường) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 4 - 5, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Đại trường (các bệnh lý có liên quan đến ruột già).
− Huyệt mộ: là một loại huyệt đại biểu khác cho các tạng phủ, nằm ở các đường kinh chính đi qua bụng
Ví dụ:
+ Đản trung (mộ huyệt của Tâm bào) nằm trên đường giữa ngực, ngang khoảng liên sườn 4; dù nằm trên mạch Nhâm nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tâm bào (có liên quan đến các bệnh lý của hệ tim mạch).
+ Trung quản (mộ huyệt của Vị) nằm trên đường giữa bụng, trên rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm; được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Vị (các bệnh của hệ tiêu hóa).
+ Trung cực (mộ huyệt của Bàng quang) nằm trên đường giữa bụng, dưới rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Bàng quang (các bệnh lý liên quan đến tiết niệu).
Hai loại huyệt này (du và mộ huyệt) có đặc điểm chung là ở gần các tạng phủ mà chúng đại diện. Vì vậy có tác dụng lớn trong chữa bệnh mạn tính của tạng phủ mà các huyệt này đại diện.
Bảng 10.2. Du và mộ huyệt của 12 đường kinh
Tạng phủ Mộ huyệt Du huyệt
Tâm Cự khuyết Tâm du
Can Kỳ môn Can du
Tỳ Chương môn Tỳ du
Phế Trung phủ Phế du
Thận Kinh môn Thận du
Tam bào Đản trung Quyết âm du
Đại trường Thiên xu Đại trường du
Tam tiêu Thạch môn Tam tiêu du
Tiểu trường Quan nguyên Tiểu trường du
Vị Trung quản Vị du
Đởm Nhật nguyệt Đởm du
Bàng quang Trung cực Bàng quang du
2. Phương pháp sử dụng du - mộ huyệt
− Nhóm huyệt du mộ được chỉ định trong các bệnh lý của các cơ quan nội tạng (bệnh của tạng phủ) và thường dùng trong các bệnh được chẩn đoán theo YHCT.
− Cách sử dụng khi có chỉ định là phối hợp cả du huyệt và mộ huyệt của kinh tương ứng với tạng phủ có bệnh.
− Ví dụ: chọn huyệt trung phủ (mộ của Phế) và phế du (du huyệt của Phế) để điều trị bệnh lý Phế hư.
− Tuy nhiên, trong thực tế lâm sàng việc sử dụng đồng thời cả du và mộ huyệt có lúc khó khăn, do đó du - mộ huyệt còn được sử dụng theo luật “dương dẫn âm, âm dẫn dương”, nghĩa là bệnh của tạng (thuộc âm) thì sử dụng bối du huyệt (ở lưng, thuộc dương); và ngược lại bệnh của phủ (thuộc dương) thì sử dụng mộ huyệt (ở bụng, thuộc âm), ví dụ: bệnh lý phế hư (thuộc âm) chọn huyệt phế du (thuộc dương); bệnh lý phủ Vị (thuộc dương) chọn huyệt trung quản (thuộc âm).
C. CHọN HUYệT NGũ DU
1. Ngũ du huyệt
Ngũ du huyệt là một nhóm huyệt trong những huyệt đặc trị của 12 đường kinh. Nó được phân bố từ khuỷu tay trở ra và đầu gối trở xuống.
Người xưa dựa vào sự vận hành của khí huyết trong kinh mạch, dùng hiện tượng nước chảy tự nhiên để minh họa (khí hành từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu). Để phân biệt, người ta dùng 5 tên gọi: tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợpvới những tác dụng riêng để biểu hiện sự lưu hành của khí qua mỗi huyệt trong kinh mạch
− Nơi nước đầu nguồn, chỗ xuất của khí là tỉnh
− Nơi nước chảy nhẹ, chỗ lưu của khí là vinh (huỳnh)
− Nơi nước dồn lại để lưu hành, chỗ chú của khí là du
− Nơi nước đi qua, chỗ hành của khí là kinh − Nơi nước tụ lại, chỗ nhập của khí là hợp.
Tác dụng của ngũ du huyệt + Tỉnh huyệt chủ trị dưới tâm đầy.
+ Huỳnh (vinh) huyệt chủ trị sốt.
+ Du huyệt chủ trị phong thấp, đau khớp.
+ Kinh huyệt chủ trị suyễn, ho.
+ Hợp huyệt chủ trị khí nghịch, tiết tả.
Sự phân bố của ngũ du theo ngũ hành
Kinh âm
+ Tỉnh huyệt thuộc mộc
+ Vinh huyệt thuộc hỏa
+ Du huyệt thuộc thổ
+ Kinh huyệt thuộc kim
+ Hợp huyệt thuộc thủy Kinh dương
+ Tỉnh huyệt thuộc kim
+ Vinh huyệt thuộc thủy
+ Du huyệt thuộc mộc
+ Kinh huyệt thuộc hỏa
+ Hợp huyệt thuộc thổ
 
 
 
 
Bảng 10.3. Hệ thống ngũ du huyệt của 6 âm chính kinh
Huyệt Tỉnh mộc Vinh hỏa Nguyên du thổ Kinh kim Hợp thủy
Phế Thiếu dương Ngư tế Thái uyên Kinh cừ Xích trạch
Tâm bào Trung xung Lao cung Đại lăng Giản sử Khúc trạch
Tâm Thiếu xung Thiếu phủ Thần môn Linh đạo Thiếu hải
Tỳ ẩn bạch Đại đô Thái bạch Thương khâu âm lăng
Can Đại đôn Hành gian Thái xung Trung phong Khúc tuyền
Thận Dũng truyền Nhiên cốc Thái khê Phục lưu âm cốc
Bảng 10.4. Hệ thống ngũ du huyệt của 6 dương chính kinh
Huyệt Tỉnh kim Vinh thủy Du mộc Nguyên Kinh hỏa Hợp thổ
Đại trường Thương dương Nhị gian Tam gian Hợp cốc Dương khê Khúc trì
Tam tiêu Quan xung Dịch môn Trung chữ Dương trì Chi câu Thiên tỉnh
Tiểu trường Thiếu trạch Tiền cốc Hậu khê Uyễn cốt Dương cốc Tiểu hải
Vị Lệ đoài Nội đình Hãm cốc Xung dương Giải khê Túc tam lý
Đởm Khiếu âm Hiệp khê Lâm thấp Khâu khư Dương phụ Dương lăng
Bàng quang Chí âm Thông cốc Thúc cốt Kinh cốt Côn lôn ủy trung
2. Phương pháp sử dụng ngũ du huyệt
Vận dụng cách chọn huyệt ngũ du phải dựa trên cơ sở của ngũ hành với luật sinh khắc để tiến hành.
− Chẩn đoán bệnh theo ngũ hành.
− Điều trị theo nguyên tắc: hư bổ mẹ, thực tả con.
− Có thể sử dụng 1 - 2 đường kinh.
Những ví dụ về cách sử dụng ngũ du huyệt
Ví dụ 1: Bệnh lý của tâm hỏa

Ví dụ 2: Bệnh lý của tỳ thổ

Ví dụ 3: Bệnh lý của phế kim

Ví dụ 4: Bệnh lý của Can Mộc

Ví dụ 5: Bệnh lý của thận thủy

D. Chọn huyệt khích
Khích có nghĩa là khe hở, ý nói vùng mà mạch khí tụ lại nhiều. Mỗi kinh mạch trong 12 kinh chính đều có 1 huyệt khích. Ngoài ra những mạch âm duy,
Dương duy, âm kiểu, Dương kiểu cũng có huyệt khích. Như vậy có 16 huyệt khích và tất cả đều nằm trên những kinh chính.
Đặc tính quan trọng của huyệt khích là điều trị rất tốt những bệnh cấp, nhất có là kèm đau nhức của các kinh thuộc nó.
Bảng 10.5. Bảng hệ thống huyệt khích
Đường kinh Tên huyệt Đường kinh Tên huyệt
Phế Khổng tối Tỳ Địa cơ
Tâm bào Khích môn Can Trung đô
Tâm âm khích Thận Thủy tuyền
Đại trường ôn lưu Vị Lương khâu
Tam tiêu Hội tông Đởm Ngoại khâu
Tiểu trường Dưỡng lão Bàng quang Kim môn
âm kiểu Giao tín âm duy Trúc tân
Dương khiếu Phụ dương Dương duy Dương giao
Chọn huyệt theo lý luận đường kinh
- Phương pháp chọn huyệt theo lý luận đường kinh được dựa trên nguyên lý “đường kinh đi qua vùng nào thì có tác dụng phòng và điều trị được bệnh tật liên quan đến vùng đó”.
- Các huyệt được chọn theo lý luận đường gồm các huyệt nguyên - lạc, khích huyệt, nhóm huyệt ngũ du.
- Sử dụng các bối du huyệt và mộ huyệt (dù không nằm trên đường kinh tương ứng) cũng tuân theo nguyên tắc chọn huyệt theo lý luận đường kinh.
- Luật chọn huyệt nguyên lạc:
+ Điều trị bệnh hư: dùng huyệt nguyên của kinh bệnh phối hợp với huyệt lạc của kinh quan hệ biểu lý với kinh bệnh.
+ Điều trị bệnh thực: dùng huyệt lạc của kinh bệnh.
- Luật chọn huyệt ngũ du (huyệt tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp):
+ Bệnh phải được chẩn đoán (tên bệnh) theo ngũ hành.
+ Được sử dụng trong điều trị bệnh thực và hư.
+ Chọn huyệt theo nguyên tắc: hư bổ mẹ, thực tả con.
+ Có thể sử dụng 1-2 đường kinh.
- Các huyệt khích được chỉ định trong bệnh thực (tất tốt cho những bệnh cấp), nhất có kèm đau nhức.
- Luật chọn huyệt du - mộ:
+ Được sử dụng trong điều trị bệnh hư của tạng phủ.
+ Chọn huyệt theo nguyên tắc: dương dẫn âm, âm dẫn dương (bệnh của tạng, dùng du huyệt; bệnh của phủ, dùng mộ huyệt).
III. Chọn huyệt đặc hiệu
Đây là những huyệt được tổng kết bằng lý luận và bằng kinh nghiệm điều trị. Trong châm cứu, có rất nhiều các huyệt đặc hiệu (nhóm tứ đại huyệt , lục tổng huyệt , bát hội huyệt , giao hội huyệt v.v...)
− Bát mạch giao hội huyệt là huyệt giao hội của 8 mạch. Tất cả từng cặp đều nằm tương đối cân xứng ở tay và chân. Đặc tính của bát mạch giao hội huyệt là dùng để trị bệnh của 8 mạch cũng như hỗ trợ điều trị bệnh kinh chính (xin tham khảo bài Kỳ kinh bát mạch).
Bảng 10.6. Bảng bát mạch giao hội huyệt
Giao hội huyệt Chiếu hải Liệt khuyết Lâm khấp Ngoại quan
Kinh Thận Phế Đởm Tam tiêu
Mạch âm kiểu Nhâm Đới Dương duy

Giao hội huyệt Hậu khê Thân mạch Công tôn Nội quan
Kinh Tiểu trường Bàng quang Tỳ Tâm bào
Mạch Đốc Dương kiểu Xung âm duy
− Bát hội huyệt là 8 huyệt dùng để chữa bệnh cho 8 loại tổ chức trong cơ thể (tạng, phủ, khí, huyết, gân, xương, tủy, mạch). Do đó, khi một loại tổ chức nào đó trong cơ thể có bệnh, có thể sử dụng hội huyệt tương ứng mà chữa.
Bảng 10.7. Bảng bát hội huyệt
Bát hội huyệt Hội của phủ Hội của tạng Hội của khí Hội của huyết Hội của cốt Hội của tủy Hội của gân Hội của mạch
Tên huyệt Trung quản Chương môn Đản trung Cách du Đại trữ Tuyệt cốt Dương Lăng Thái uyên
− Lục tổng huyệt là 6 huyệt dùng để điều trị bệnh cho 6 vùng cơ thể khác nhau. Sự xuất hiện của 6 huyệt trên có nguồn gốc từ 4 đại huyệt (hợp cốc, ủy trung, liệt khuyết, túc tam lý) - Chu quyền trong càn khôn sanh lý - Châm cứu đại thành. Sau được bổ sung dần thêm hai huyệt là nội quan và tam âm giao mà thành. Toàn bài ca của lục tổng huyệt “Đổ phúc Tam lý lưu, Yêu bối ủy trung cầu, Đầu hạng tầm liệt khuyết. Diện khẩu hợp cốc thâu, Tâm hung thủ nội quan, Tiểu phúc tam âm mưu”.
− Hợp cốc
− Liệt khuyết
− ủy trung
− Tam âm giao − Nội quan
− Túc tam lý
Chữa vùng đầu, mặt, miệng, răng.
Chữa vùng cổ gáy.
Chữa vùng lưng, thắt lưng.
Chữa bệnh lý vùng bụng dưới tiết niệu, sinh dục.
Chữa bệnh vùng ngực.
Chữa vùng bụng trên, bụng giữa.
Chọn huyệt đặc hiệu
- Các huyệt đặc hiệu gồm các nhóm tứ đại huyệt, lục tổng huyệt, bát hội huyệt, giao hội huyệt.
- Dùng 8 mạch giao hội huyệt để trị bệnh của 8 mạch cũng như hỗ trợ điều trị bệnh kinh chính.
- Dùng 6 tổng huyệt để điều trị bệnh cho 6 vùng cơ thể khác nhau.