Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Bài thuốc chữa chứng tân dịch hư tổn ở người cao tuổi

Chứng tân dịch hư tổn ở người cao tuổi do tuổi cao công năng của tạng phủ bị suy thoái làm cho sự sinh trưởng, phân bố, bài tiết của tân dịch không bình thường như: Khi tạng phế tân dịch kém thì phế mất chức năng tuyên giáng thường sinh các chứng: ho khan, suyễn thở, da khô, nước tiểu ít có màu đỏ.
Trường hợp tân dịch của tỳ bị hao tổn thì tỳ mất chức năng kiện vận sinh chứng bụng hay trướng đầy mà đau, chân tay rã rời có khi bị tê liệt. Đại tiện táo, lưỡi khô, khát nước. Nếu do thận khí không đủ để sưởi ấm phế và tỳ, làm tân dịch bốc hơi, dẫn đến sự khí hóa trong cơ thể không bình thường mà sinh ra chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, lưng gối mềm yếu. Do tân dịch của người cao tuổi bị hư tổn, việc khai thông của tam tiêu bị yếu kém, làm cho sự lưu thông của khí huyết bị bế tắc, sự bài tiết không thuận lợi mà sinh ra chứng tự ra mồ hôi, miệng khô, tiểu tiện lượng ít mà đỏ. Còn một nguyên nhân nữa là người cao tuổi là khi tân dịch bị hao tổn thì sinh ra chứng huyết hư làm tim hồi hộp, hoa mắt, tai ù. Bài viết dưới đây xin giới thiệu một số bài thuốc điều trị tùy thể để bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần.
Bài thuốc chữa chứng tân dịch hư tổn ở người cao tuổi
Vị thuốc hậu phác kiện tỳ vị.
Tân dịch hư tổn làm dương minh nhiệt kết
Triệu chứng: Sốt từng cơn, hai mắt kém con ngươi khó chịu, bụng trướng đầy, ra nhiều mồ hôi, đại tiện phân rắn, mạch trầm thực.
Bài thuốc: Đại thừa khí thang: Đại hoàng 12g, chỉ thực 8g, mang tiêu 8g, hậu phác 8g.
Cách dùng: Sắc uống. Chú ý: Uống một thang mà bệnh hết thì không uống thang thứ hai.
Tân dịch hư tổn làm nguyên khí tổn thương
Triệu chứng: Bệnh nhân phiền khát, buồn nôn. Phép trị: Ích tâm khí, thanh huyết nhiệt
Bài thuốc: Trúc diệp thạch cao thang. Trúc diệp 12g, thạch cao 16g, nhân sâm 8g, cánh mễ (lúa để lâu năm) 12g, bán hạ (chế) 12g, mạch môn 8g, cam thảo 4g.
Cách dùng: Ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.
Tân dịch hư tổn ôn tà phạm phế
Triệu chứng: Sốt cao, mũi khô, họng ráo, ho khan, khát nước. Phép trị: Nhuận phế chỉ ho tiêu khát.
Bài thuốc: Tang hạnh thang gia giảm: Tang diệp 12g, hạnh nhân 8g, xuyên bối mấu 6g, lê bì 8g, hạnh nhân 8g, đạm đậu xị 8g, chi tử 6g.
Cách dùng: Sắc uống. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trước khi ăn.
Do mắc chứng táo tà nặng làm tân dịch của phế hư tổn
Triệu chứng: Sốt cao, ho khan không có đờm, suyễn thở miệng mũi khô ráo, khát nước.
Bài thuốc: Thanh táo cứu phế thang: Thanh cao 12g, tang diệp 12g, nhân sâm 6g, hạnh nhân 6g, cam thảo 4g, hỏa ma nhân (hạt đay)12g, a giao 8g, mạch môn 8g, tỳ bà diệp 1 lá. Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước khi ăn.
Do táo nhiệt lưu luyến ở phế làm tân dịch của phế hư tổn mà sinh bệnh
Triệu chứng: Sốt cao, miệng khát, họng khô, ho khan không có đờm, chất lưỡi đỏ ít rêu.
Bài thuốc: Sa sâm mạch đông thang.  Sâm 12g, mạch môn 12g, ngọc trúc 8g, cam thảo 4g, thiên hoa phấn 8g, bạch biển đậu 8g, tang diệp 6g.
Cách dùng: Sắc uống  ngày 1 thang chia 3 lần trong ngày uống trước khi ăn.
Tỳ vị nhiệt làm tổn hư tân dịch
Triệu chứng: Sốt cao nhưng không rét, ra mồ hôi, mặt và mắt đỏ, nước tiểu vàng đỏ, đại tiện bí kết, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi khô, mạch hồng sác
Bài thuốc: Điều vị thừa khí thang. Đại hoàng 16g, cam thảo 8g, mang tiêu 20g.
Cách dùng: Ngày uống 1 thang, sắc một lần lấy 150ml. Uống lần thứ nhất đại tiện được thì không uống lần thứ hai, nếu chưa đại tiện được thì uống lần thứ hai, hoặc lần thứ 3 cho đến khi đại tiện được thì không được uống nữa.
Tân dịch hư tổn sinh chứng huyết nhiệt
Triệu chứng: Sốt cao, hôn mê nói sảng, miệng mũi xuất huyết, họng khô, tai điếc, phát ban, lưỡi khô chất lưỡi đỏ.
Bài thuốc: Thanh doanh thang gia đan bì bạch thược: Sinh địa 12g, huyền sâm 12g, hoàng liên 6g, liên kiều 8g, trúc diệp tâm (đọt tre non) 6g, mạch môn 12g, đan sâm 12g, kim ngân hoa 12g, đan bì 8g, bạch thược 12g.
Cách dùng: Sắc uống. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

BS. Nguyễn Xuân Hướng

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Tìm hiểu về tạng can

Đông y có thuyết tạng phủ, gọi tắt là tạng tượng. Tạng là chỉ các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Tượng là các hiện tượng do các tạng hoạt động biểu hiện ra bên ngoài lúc bình thường cũng như khi bị bệnh mà thầy thuốc có thể biết được.
6 tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận, tâm bào.Các cơ quan nội tạng của cơ thể được chia ra 6 tạng, 6 phủ và phủ kỳ hằng.
6 phủ: tiểu tràng, đại tràng, vị, đại trường, bàng quang, tam tiêu.
Phủ kỳ hằng là các cơ quan còn lại như: não, tủy, tử cung...
Trong phạm vi bài này xin phép trình bày về tạng can.
Chức năng của tạng can
Can chủ sơ tiết: Phân bố dương khí toàn thân, sách Tố vấn ghi: "Can giữ chức tướng quân". Nếu can khí thiếu làm người ta yếu đuối dễ sợ. Nếu can khí sơ tiết quá độ, can dương thịnh dễ sinh choáng váng, đau đầu, mắt đỏ, chảy máu mũi. Can khí bị dồn nén uất ức dễ sinh ngực đầy tức, đau mạng sườn.
Can tàng huyết: Tàng là giữ, chứa và điều hòa lượng huyết trong cơ thể. Khi hoạt động lượng huyết cung cấp cho cơ quan nhiều. Khi nghỉ lượng huyết cho các cơ quan ít. Khi ngủ thì huyết về can.
Can chủ cân: Cơ khớp co duỗi vận động được điều hòa là nhờ can dinh dưỡng cân tốt.
Khi bị trúng phong, tổn thương can, cơ thể có thể liệt từng phần như liệt mặt hoặc liệt nửa người. Can vinh nhuận ra móng tay móng chân, xem móng để biết can khỏe hay yếu "móng là phần dư của can". Can liên quan với tâm theo quan hệ tương sinh là hỗ trợ giúp đỡ nhau hoạt động. Can liên quan với tỳ theo quan hệ tương khắc, nghĩa là can ức chế kìm hãm tỳ không cho tỳ hoạt động quá mức.
Tạng thận quan hệ với can theo quan hệ tương sinh, tạng phế quan hệ với can theo quan hệ tương khắc.
Như vậy bệnh ở tạng can có thể do bị dồn nén uất ức cũng có thể do quá trình tương sinh không đủ. Thận yếu sinh can yếu.
Cũng có thể do khắc phạt quá mức: phế khắc can. Can quan hệ với đởm là quan hệ âm dương, quan hệ tạng phủ. Đởm và can cùng ở hành mộc trong ngũ hành.
Phòng bệnh cho tạng can chính là có chế độ sinh hoạt điều hòa, tránh căng thẳng, bực tức, uất ức. Người bị trù úm, dồn nén, oan ức nhiều, hoặc cuộc sống quá căng thẳng thường làm can suy yếu.
Thuốc để chữa bệnh can có nhiều, tùy thể bệnh mà thầy thuốc sẽ chọn để phối hợp với nhau.
Thí dụ: Các vị thuốc nhuận can như rau má, nhân trần, dành dành...; Thuốc điều hòa chức năng can như: sài hồ, hoàng cầm, bạch thược, thiên ma, câu đằng; Thuốc hỗ trợ can như sơn thù, ngũ vị...

Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015

Bệnh huyết tinh

Huyết tinh là hiện tượng tinh dịch có nhiều hồng cầu, thậm chí mang màu đỏ hoặc hồng và trong tinh dịch có thể có huyết dịch.

Nguyên nhân có thể do sinh hoạt tình dục quá độ, làm cho dương vật bị cọ xát mạnh gây thương tổn đến mao mạch của đường sinh dục, xuất hiện hiện tượng huyết tinh; do hậu quả của những chứng bệnh như: viêm tinh nang, viêm tuyến tiền liệt bị lao hoặc đóng sỏi, tạo u... gây ra hiện tượng huyết tinh.

Theo Đông y, bệnh huyết tinh có 2 loại hư chứng và thực chứng. Thực chứng thường do hạ tiêu thấp nhiệt hay do những tác động của vết thương nơi hạ bộ gây ra

Thể âm hư hỏa vượng: tinh dịch màu hồng tươi, bộ phận dương vật có cảm giác nhẽo chảy hoặc đau đớn. Người bệnh gầy gò, đau lưng, nhũn gối, cảm giác mệt mỏi, tinh thần rệu rã, miệng khô khan, lưỡi ít tưa, màu đỏ, mạch chậm và yếu. 

Thể hạ tiêu thấp nhiệt: tinh dịch có màu đỏ hoặc thẫm, đau eo lưng, ngứa hoặc đau dương vật, hạ bộ đau âm ỉ, nước tiểu đỏ, đái dắt, lưỡi vàng, mạch nhanh, không rõ nhịp.

Thể tụ huyết nội trở: tinh dịch có màu hồng hoặc có huyết đông, bụng dưới đau nhói, bên lưỡi có các điểm tụ máu màu tím thẫm, mạch tắc không rõ ràng

Theo Lương y Vũ Quốc Trung 

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Y HỌC CỔ TRUYỀN VÀ BỆNH ALZHEIMER

Alzheimer là một căn bệnh hành hạ khoảng 10 triệu người trên thế giới, đặc trưng là sự thương tổn ở não khiến cho dòng ý tưởng, cảm xúc và trí nhớ của người bệnh ngày càng rối loạn, chậm dần và ngừng hẳn. 

Theo nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer gấp đôi so với đàn ông. Điều này có liên quan tới hooc môn giới tính.

Các nhà khoa học đang tích cực tìm kiếm các phương pháp điều trị mới và hiệu quả cho bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, công việc này đang gặp nhiều khó khăn do phần lớn các nghiên cứu về bệnh Alzheimer lại tập trung vào bộ não của nam giới, và gần như bỏ qua việc nghiên cứu của phái nữ. Đây được coi là một điểm mù trong nghiên cứu do bộ não của hai giới, về cơ bản, là khác nhau.

Nghiên cứu từ Đại học Kansas còn cho thấy rằng nếu đứa trẻ có người mẹ mắc bệnh Alzheimer thì nó có nguy cơ mắc bệnh này tăng gấp đôi so với việc có một người bố mắc bệnh Alzheimer. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này bằng các thí nghiệm trên não chuột, nhưng sự khác biệt về bộ não của hai giới là một trở ngại lớn đối với họ. 

Cùng với sự gia tăng dân số và tuổi thọ, số người mắc bệnh Alzheimer cũng có xu hướng tăng lên, ước tính vào năm 2050 số bệnh nhân sẽ tăng lên gấp 3 lần so với hiện nay.

Mặc dù đã bỏ ra rất nhiều công sức, nhưng cho tới nay các nhà khoa học vẫn chưa kết luậ được nguyên nhân của căn bệnh này và chính vì vậy, việc tìm ra phương thức trị liệu hữu hiệu vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp.

Cùng với sự nỗ lực của y học hiện đại, giới y học cổ truyền (YHCT), đặc biệt là Trung Quốc đã và đang lưu tâm nghiên cứu vấn đề này về cả lý thuyết và thực tiễn điều trị. Căn cứ trên các triệu chứng lâm sàng, các nhà YHCT nhận thấy bệnh Alzheimer đã được Đông y mô tả từ rất sớm trong phạm vi các chứng "bạch si", "ngai si", "thần ngai", "ngai bệnh", "si ngai"... với một hệ thống lý luận và các phương pháp điều trị, phòng bệnh hết sức phong phú và về cơ bản đã thống nhất những điểm cơ bản sau đây:

Về nguyên nhân và cơ chế sinh ra bệnh:

Y thư có câu: "Tâm trí tương lai, thận tàng dĩ vãng" là muốn nhấn mạnh đến vai trò của tạng thận đối với năng lực tư duy, ghi nhớ.

Ảnh chỉ có tính minh họa
Vấn đề cốt lõi ở chỗ khi cơ thể trở về già, tùy theo mức độ và tính chất khác nhau mà các tạng phủ dần dần đi đến chỗ thoái hóa, trong đó đậc biệt là tạng thận. Theo quan niệm của YHCT, thận ràng tinh, tinh sinh tủy, tủy thông với não, não là bể của tủy. Thận tinh không ngừng được đưa lên để nuôi dưỡng và phát huy cái "thần" của não. Khi thận tinh sút kém thì bể tủy sẽ cạn kiệt, mạch lạc trong não bị trở ngại làm cho tinh thần trở nên trì trệ, trí nhớ dần giảm sút.

Ngoài ra vai trò của các yếu tố căng thẳng thần kinh tâm lý mà YHCT gọi là "Thất tình" bao gồm: hỉ (vui), nộ (giận), ưu (lo), tư (nghĩ), bi (buồn), khủng (sợ), kinh (khiếp). Các loại tình chí này khí cường độ vượt quá khả năng điều tiết của cơ thể và tác động kéo dài có thể gây thương tổn vào tạng phủ, làm hại đến nguyên thần, từ đó gây rối loạn hoạt động trí năng tinh thần của cơ thể, cái mà YHCT gọi là "linh cơ, ký tinh".

Về điều trị:

Hiện nay các nhà YHCT nghiên cứu điều trị căn bệnh này theo 2 hướng chính và 1 hướng bổ sung

Hướng thứ 1:  dựa trên cơ sở biện chứng luận trị của YHCT mà phân chia thành các thể bệnh khác nhau như Tủy hải bất túc, Can thận khuy hư, Tỳ thận lưỡng hư, Tâm can hỏa thịnh, Đàm trọc trở khiếu và Huyết ứ não khiếu, từ đó lựa chọn các bài thuốc, vị thuốc, các công thức huyệt vị và phương thức tác động thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong điều trị.

Các bài thuốc cổ  như Hoàng liên giải độc thang, Đương qui xích thược tán, Câu đằng tán, Ức can tán, Khai tâm tán,  Ôn đởm thang, Thận khí hoàn, Tứ vật thang, Thông khiếu hoạt huyết thang, Bổ dưỡng hoàn ngũ thang, Đạo đàm thang, Qui tỳ thang, Xỉ tâm thang... Nhìn chung các bài thuốc này đều có khả năng cải thiện năng lực ghi nhớ, tính toán, tư duy, ngôn ngữ và tình cảm của người bệnh. 

Ví dụ Hoàng Liên giải độc thang có tác dụng cải thiện lưu lượng tuần hoàn và quá trình chuyển hóa của não, ức chế ngưng tập tiểu cầu, điều chuyển lượng máu từ vùng giáp ranh và hồi hải mã để gia taqwng cho khu vực trung tâm, cải thiện rõ rệt trí năng của người bệnh.

Hay bài Câu đằng tán có tác dụng làm tăng men cholinesterase và số lượng adrenaline và norodrenaline trong máu, từ đó có tác dụng bảo vệ tế bào não, cải thiện năng lực ghi nhớ của não bộ một cách rõ rệt.

Hướng thứ 2: tiến hành nghiên cứu có chọn lọc tìm ra những vị thuốc, xây dựng những bài thuốc mới có tác dụng ích trí kiện não. Hàng chục vị thuốc đã được khảo sát như nhân sâm, đẳng sâm, lá bạch quả, nhưng hươu, hạt rau cần, cát căn, xích thược, hoàng kỳ, chi tử, thiên ma, kim tiền thảo, linh chi, bá tử nhân, xuyên khung, hà thủ ô, dâm dương hoắc, nữ trinh tử, ích trí nhan, thỏ ty tử, tỏa dương, bạch truật, phục linh, tam thất, ngũ vị tử, viễn trí, phá cố chỉ, đỗ trọng, kỷ tử, toan táo nhân...

Hướng thứ 3: Ngoài các bài thuốc nói trên các biện pháp điều trị không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, khí công, dưỡng sinh cũng đã và đang được chú trọng nghiên cứu. Nhìn chung, các nhà khoa học đều cho rằng tuy trước mắt còn nhiều khó khăn, nhưng việc nghiên cứu và vận dụng các phương pháp điều trị của YHCT trong việc giải quyết căn bệnh Alzheimer là rất có triển vọng và bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.

Điều này chứng tỏ YHCT có đủ khả năng trong việc góp phần giải quyết các căn bệnh nan giải của thời hiện đại, miễn sao mọi người nhìn nhận đúng đắn và chọn được một hướng đi thích hợp.

Thông tin tham khảo:

Học ngoại ngữ giúp tăng cường sức khỏe trí não và giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, theo một nghiên cứu mới được công bố của các nhà khoa học Canada.

Các nhà khoa học thuộc trường Đại học York ở Toronto (Canada) phát hiện, những người có khả năng thành thạo 2 ngôn ngữ linh hoạt hơn số người chỉ nói được tiếng mẹ đẻ. Ngoài ra, những người nói được 2 ngôn ngữ mắc chứng đãng trí khi về già muộn hơn từ 4 - 5 năm so với những người chỉ thành thạo một ngôn ngữ. 

CÁC DẤU HIỆU BỆNH LÝ VỀ GAN VÀ CÁCH PHÁT HIỆN SỚM CÁC BỆNH VỀ GAN MẬT

Gan là một trong những tạng quan trọng nhất của cơ thể. Nếu chức năng gan hoạt động không tốt. Cơ thể sẽ mắc rất nhiều bệnh. Một số triệu chứng của tổn thương gan mà bạn cần lưu ý nhận ra trước khi quá muộn.

1. Hơi thở "có mùi"Có thể chưa bao giờ bạn nghĩ rằng hơi thở "có mùi" lại có thể là một dấu hiệu của tổn thương gan. Nếu gan của bạn không hoạt động tốt thì miệng thường có mùi. Tình trạng này là do cơ thể sản sinh quá nhiều ammonia.

2. Quầng thâm quanh mắt và mỏi mắt: Chức năng gan bị tổn thương có thể liên quan với tổn thương da và mệt mỏi ở mắt. Da dưới mắt cũng phản ánh tình trạng sức khỏe của con người. Nếu bạn thấy rất khó để khỏi quầng thâm mắt và mỏi mắt thì hãy đi khám bác sĩ ngay. Đó có thể là một dấu hiệu của tổn thương gan.

3. Các vấn đề nghiêm trọng về tiêu hóa: Nếu gan chứa nhiều chất béo, bạn sẽ không thể tiêu hóa cả nước. Tuy nhiên, các vấn đề về tiêu hóa ở mức nhẹ song xảy ra trong khoảng thời gan đều đặt thì cũng có thể là chỉ báo cho thấy gan bị tổn thương.
4. Thay đổi về màu da: Những thay đổi ở màu da có thể xảy ra là do tổn thương gan. Những đốm trắng trên da có thể xuất hiện khi chức năng gan hoạt động không tốt.
5. Phân và nước tiểu màu ngăm đen: Những người có các vấn đề về mất nước thường có phân và nước tiểu màu nâu sậm. Ngoài triệu chứng của mất nước thì hiện tượng này cũng là chỉ báo về chức năng gan hoạt động không tốt.
6. Mắt và móng tay bị vàngKhi màu trắng của mắt và của móng tay ngả sang màu vàng thì bạn nên đi khám bác sỹ ngay để được chữa trị kịp thời.
7. Trướng bụngGan sẽ to lên do nhiễm trùng hoặc tổn thương gan. Nếu bệnh tình không được điều trị, dạ dày của bạn cũng sẽ phình lên.

Để giúp gan khỏe mạnh, bạn nên tránh các thói quen ăn uống không lành mạnh, đặc biệt là những thức ăn chứa nhiều chất béo. Ngoài ra, bạn nên uống nhiều nước và ăn những thức ăn tốt cho sức khỏe như rau và trái cây hoặc nếu có điều kiện, nên dùng các sản phẩm có chức năng thải độc cho gan và thanh lọc cơ thể.

Việc điều trị bệnh gan, mật được quyết định rất lớn bởi thời gian chuẩn đoán. Chính vì vậy, chuẩn đoán sớm một cách chính xác là một nhân tố mấu chốt để chữa trị các bệnh về gan, mật. Do vậy cần phải tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các bệnh về gan, mật từ đó có thể tiến hành điều trị sớm

1) Tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ

Để phát hiện một cách sớm nhất các bệnh về gan, mật, nên thường xuyên tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ. Nội dung kiểm tra bao gồm:

a) Xét nghiệm tiêu chí viêm gan:

Khi xét nghiệm viêm gan cần xét nghiệm một số chỉ số sau:
HbsAg: Kháng nguyên bề mặt viêm gan B
HbsAb: Kháng thể bề mặt viêm gan B
HBeAg: Kháng nguyên e viêm gan B
HbeAb: Kháng thể e viêm gan B
HbcAb: Kháng thể nhân viêm gan B

b) Xét nghiệm kiểm tra chức năng gan

Xét nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra một vài nhận định rằng: Đang có vấn đề gì đó về gan.

Xét nghiệm chức năng gan bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để kiểm tra nồng độ men gan; bilirubin; và protein gan.

Thông thường những người có kết quả xét nghiệm viêm gan thể hiện dương tính hoặc có tiền sử uống rượu, sử dụng thuốc, nếu xuất hiện chỉ số men gan tăng cao có thể cho thấy đã bị mắc bệnh viêm gan.

c) Xét nghiệm chuẩn đoán ung thư gan

Các xét nghiệm thường được làm để chuẩn đoán ung thư gan là xét nghiệm máu xác định nồng độ alpha-FP, khi AFP cao trêm 500 microgam/ml thì được gợi ý tới ung thư gan.

Ngoài ra, các xét nghiệm chuẩn đoán hình ảnh như siêu âm, chụp CT scaner ổ bụng có tác dụng xác định vị trí và sự xâm lấn của khối u gan. Xét nghiệm sinh thiết gan bằng chọc kim nhỏ đơn thuần hoặc sự hướng dẫn của siêu âm để chuẩn đoán mô bệnh học.

2) Dấu hiện của các bệnh gan, mật thời kỳ đầu

Nếu thấy xuất hiện một số hiện tượng dưới đây, có thể bạn đã bị mắc bệnh gan, mật:

a) Đau bụng: Đau bụng vùng trên kéo dài (đặc biệt là vùng bụng bên phải), đau âm ỉ, đau một chỗ, đau nhiều chỗ có thể đau lan cả vùng lưng bên phải. Sau khi ăn những đồ ăn béo có hàm lượng dầu mỡ cao thì càng đaudữ dội hơn.

b) Vàng da: Là triệu chứng chủ yếu của bệnh sỏi mật, có thể kèm theo các hiện tượng ớn lạnh, phát sốt, có sự tổn thương về gan như viêm gan, xơ gan cũng có thể xuất hiện vàng da.

c) Tiêu hóa không tốt: Trướng bụng, ợ chua, sợ ăn dầu mỡ, cơ thể mệt mỏi. Có thể buồn nôn, nôn mửa, khó chịu vùng bụng, đi ngoài (tiêu chảy).

d) Triệu chứng ngoài gan: Có thể nổi mẩn ngứa, viêm khớp, đau khớp. Kèm theo các triệu chứng giống như bị cảm cúm: Ớn lạnh, phát sốt. Còn có thể sút cân, suy kiệt cơ thể.


e) Thể trọng: Thể trọng giảm sút, bụng trướng nước, chảy máu chân răng, chảy máu cam; da nổi mẩm hoặc xuất huyết, bầm tìm…. Đối với nữ giới thì thường có kinh nguyệt quá nhiều, ở nam giới có hiện tượng vú nở to, có thể bị trở ngại về tình dục, đồng thời có một số biểu hiện về bệnh thần kinh.

"BÍ ẨN" CHÂM CỨU

Châm cứu là gì?
Khởi nguồn chính xác của châm cứu là giả định các chiến binh cổ đại tổn thương nhẹ do bị trúng tên lại thấy các chứng bệnh mạn tính suy giảm. Các đồ hình từ thời nhà Thương (1600-1100 trước CN) cho thấy "châm" được dùng cùng với "cứu". Mặc cho sự xuất hiện của kim loại phải đến tận thế kỷ thứ II trước CN, "kim châm" mới thay thế "thạch châm".
Thư tịch cổ nhất về châm cứu là tác phẩm “Hoàng đế nội kinh”, xuất hiện khoảng 200 năm trước CN. Nó không phân biệt "châm" và "cứu", với cùng các chỉ định cho cả hai kỹ thuật. Cùng với sự lan tỏa văn hóa, châm cứu xâm nhập các quốc gia láng giềng, như Triều Tiên, Nhật Bản hoặc Việt Nam, với sự cải biến riêng thích hợp với từng vùng.
Tại châu Âu, các nghiên cứu cho thấy, trên cơ thể người băng Otzi có tới 15 nhóm hình xăm, một số trùng với các huyệt vị. Điều đó dẫn tới giả định, thực hành kiểu châm cứu đã xuất hiện trên khắp lục địa Á-Âu từ 5.000 năm trước.
Châm cứu là kỹ thuật dùng vật mảnh và nhọn (châm) hoặc mồi ngải (cứu) tác động lên các huyệt trên da để chữa bệnh. Theo y lý phương Đông, đó là kỹ thuật khôi phục sự cân bằng âm dương, các loại sinh khí vẫn được lưu hành theo hệ kinh mạch trong cơ thể.
Châm cứu là một y thuật có lịch sử từ hàng ngàn năm và đã được Tổ chức y tế thế giới WHO bước đầu công nhận. Tuy nhiên, bản chất thực sự của châm cứu vẫn là bí ẩn đối với khoa học hiện đại, khi nó được xem như một trường hợp khá điển hình của y học năng lượng.
Các nghiên cứu ủng hộ việc dùng châm cứu để giảm đau hoặc điều trị chứng nôn ói sau phẫu thuật hoặc sau xạ trị ung thư. Tuy nhiên nhiều nhà khoa học vẫn cho rằng, đó chỉ là một kiểu tâm lý liệu pháp.
Tác dụng của châm cứu
Tác dụng nổi bật của châm cứu là giảm đau. Các nghiên cứu chặt chẽ về phương pháp luận đã chứng tỏ, châm cứu tỏ ra hiệu quả với viêm khớp, đau nửa đầu, đau cổ vai cánh tay, đau thắt lưng cấp và mạn tính… Chính vì vậy, trong 40 chỉ định của WHO cho châm cứu, các chứng đau chiếm đa số và tác dụng càng rõ rệt khi dùng phương pháp điện châm hoặc hỏa châm.
Điện châm
Những nghiên cứu từ năm 1976 cho thấy, cơ chế giảm đau của châm cứu là kích thích hệ chống đau tự nhiên của cơ thể, qua việc phóng thích các chất giảm đau nội sinh trong não bộ. Đó là các morphine nội sinh, serotonin và noradrenaline.
Nôn ói sau phẫu thuật hoặc sau xạ trị ung thư là chỉ định ưu tiên khác của châm cứu. Dùng châm cứu trước hoặc sau xạ trị đều dẫn tới việc giảm tần suất và mức độ nôn, do đó giảm lượng thuốc chống nôn dùng cho người bệnh.
Tăng khả năng thụ thai và tạo thuận cho cuộc sinh nở cũng là lựa chọn ưa thích của giới châm cứu. Một báo cáo tổng kết trên Cochrane (nơi tiến hành các tổng kết quy chuẩn trong y khoa) năm 2008 cho thấy, với các trường hợp thụ thai trong ống nghiệm, châm cứu vào ngày cấy phôi vào dạ con làm tăng khả năng thụ thai; tuy nhiên kết luận chưa thực sự thuyết phục do số phụ nữ tham gia thử nghiệm chưa nhiều.
  
Mặc cho còn nhiều nghi ngờ về tác dụng,  nhưng châm cứu ngày càng được ưa chuộng tại phương Tây, nhất là với kỹ thuật điện châm dùng điện cực bề mặt thay kim để tránh đau và lây nhiễm. Và như một trường hợp điển hình của y học năng lượng, châm cứu vẫn là một thách thức đối với y học hiện đại, với những "bí ẩn" chờ đang được khám phá.

CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CHÂM CỨU

Mặc dù đã có rất nhiều bằng chứng từ xa xưa cho rằng châm cứu có tác dụng trong điều trị nhiều bệnh, từ các bệnh dị ứng đến điều trị giảm hay cắt cơn đau, châm cứu vẫn đối mặt với hai vấn đề cần giải quyết để được chấp nhận rộng rãi. 

Thứ nhất, nhiều công trình tổng họp nghiên cứu cho rằng còn thiếu dữ liệu lâm sàng đối chứng (giả châm cứu); thứ hai, chưa có một cơ chế khoa học giải thích tác dụng của châm cứu. 

Chính vì hai lý do này mà theo quan điểm của phần đông trong nền y học hiện đại, châm cứu không được coi là một liệu pháp điều trị thay thế. 
 
Nhóm nhà khoa học tại Đại học Rochester (New York) mới công bố kết quả nghiên cứu về cơ chế sinh học có thể giúp làm sáng tỏ cơ chế tác dụng của phương pháp chữa bệnh này, 

Như chúng ta đã biết, khi mô bị tổn thương sẽ sản sinh adenosine có tác dụng giảm đau. Nhóm nghiên cứu cho rằng adenosine liên quan đến cơ chế tác dụng của châm cứu. 

Xác định huyệt Túc Tam Lý
Thí nghiệm được Nedergaard và đồng nghiệp thực hiện như sau: gây đau chân sau của chuột (gây đau cơ giới hay bằng nhiệt) sau đó châm kim vào huyệt túc tam lý (ở phía dưới gò chày ngoài), vê kim. Sau khi châm một giờ, phản ứng với kích thích đau đến chậm hơn. Như vậy châm huyệt túc tam lý đã có tác dụng làm giảm đau. Các phương pháp nghiên cứu của nhóm cũng xác định được rằng lượng adenosine tăng cao tại vị trí châm. Để khẳng định vai trò của adenosine trong cơ chế tác dụng của châm cứu, các nhà khoa học châm huyệt túc tam lý của chuột thiếu thụ quan đối với adenosine (adenosine receptor). Kết quả, chuột không có đáp ứng như trên. 

Vitaly Napadow, nhà thần kinh học tại ĐH Y khoa Harvard (Boston, Massschusettes) cho rằng cơ chế được Nedergaard và đồng nghiệp mô tả có thể giải thích tác dụng giảm đau đầu.
 
Dominik Irnich , giám đốc trung tâm nghiên cứu đau đa nguyên nhân và cũng là nhà châm cứu tại khoa y ĐH Munich (CHLB Đức) cho biết những nghiên cứu khác về cơ chế tác dụng của châm cứu cho biết các chất như endorphin hay các chất dẫn truyền trung gian thần kinh khác cũng có vai trò trong cơ chế tác dụng của châm cứu. 

Tuy nhiên Nedergaard cho rằng các chất dẫn truyền trung gian thần kinh có tác dụng với toàn bộ hệ thần kinh trong khi adenosine không có tác động như vậy. Kết luận của bà được đưa ra dựa trên cơ sở kết quả thí nghiệm: nếu châm vào chân không chịu tác động gây đau, adenosine không được sinh ra tại nơi châm. 

Edzard Ernst, chuyên gia nghiên cứu các liệu pháp thay thế tại Exter (Anh) tin vào cơ chế này. Tuy vậy, phần còn thiếu ở đây, theo Edzard Ernst, là chứng minh hiệu quả của châm cứu; nếu tác dụng lâm sàng không dựa trên điều trị đối chứng (giả châm cứu) thì cơ chế đưa ra vẫn chưa thỏa đáng. 

Jana Sawynok tại ĐH Dalhousie (Canada) cho rằng cafein đã khóa thụ quan adenosine trong nghiên cứu này. Nếu thực sự như vậy, việc thử nghiệm lâm sàng xác định cơ chế tác dụng của châm cứu tại các vùng tiêu thụ nhiều cafein sẽ là vấn đề gây tranh cãi. 

Nedergaard cho rằng nghiên cứu của bà và cộng sự có thể tạo tiền đề giúp châm cứu mang lại hiệu quả cao hơn. Nhóm cũng tiến hành kiểm tra tác dụng kéo dài hiệu quả giảm đau khi châm của deoxycoformycin, chất có tác dụng ức chế phân giải adenosine. Thử nghiệm lâm sàng trên người sẽ được Nedergaard và đồng nghiệp tiến hành.