Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

Trị tắc tia sữa

 Tắc tia sữa, dân gian thường gọi “cái vú” chỉ chứng nhọt độc ở đầu vú. Y học hiện đại gọi là bệnh áp-xe tuyến vú, Đông y gọi là chứng nhũ ung, nhũ nham.

Bệnh thường gặp ở các sản phụ thời kỳ đang cho con bú  nhất là khi nhũ nhi mới chừng 1-2 tháng tuổi. Tuyến vú bị tắc nghẽn, sữa ứ đọng cộng thêm điều kiện vệ sinh thiếu sạch sẽ hoặc do trẻ bú làm tổn thương đầu vú dẫn đến viêm tuyến vú. Bệnh tiến triển nhanh kèm theo phát nóng, phát sốt, bầu vú sưng to, sờ nắn thấy có cục kết rắn, sưng, nóng, đỏ,  đau và sau có thể mưng mủ. Nguyên nhân do can khí uất kết, vị khí ủng trệ, nhiệt độc tích đọng lại hoặc do cảm nhiễm ngoại tà...

Để phòng bệnh, trước hết sản phụ cần chú ý giữ gìn bầu vú sạch sẽ; cần lau, rửa vệ sinh trước và sau khi cho con bú, loại bỏ phần sữa thừa khi trẻ nhỏ bú không hết tránh ứ đọng lại. Bên cạnh việc quan tâm tới ăn uống, chế độ dinh dưỡng hằng ngày phải luôn tạo sự thoải mái trong sinh hoạt, cuộc sống. Nơi ăn ở phải thoáng mát, tránh ẩm ướt, nóng bức về mùa hè hoặc thiếu ấm áp về mùa đông.

Trị tiểu dầm, tiểu đêm

 Tiểu dầm rất hay gặp ở trẻ em, thuộc chứng dạ niệu, niệu sàng trong y học cổ truyền và do nhiều nguyên nhân: tiên thiên bất túc do thận khí hư, hạ tiêu hư hàn mất chức năng bế tàng.

Tỳ phế khí hư không ức chế được thủy dịch gây nên hoặc do thấp nhiệt ở bàng quang khiến làm mất chức năng khí hóa cũng sinh bệnh.

Trẻ có biểu hiện khi ngủ mơ màng, hoảng sợ tiểu ra quần do tâm thận bất túc.  Phép trị chủ yếu bổ thận, kiện tỳ dưỡng tâm... 


Trị sa sút trí tuệ

 Sa sút trí tuệ (trí nhớ giảm sút, hay quên) y học cổ truyền xếp vào chứng “Kiện vong”, phần nhiều gặp ở người cao tuổi do quy luật tuổi tác gây nên.

Còn sa sút trí tuệ do nguyên nhân bệnh gây nên như sau tai biến chấn thương sọ não... không đề cập trong bài này. Sa sút trí tuệ hay quên có liên quan chặt chẽ với 3 tạng tâm, tỳ và thận liên quan mật thiết với nhau.

Tâm chủ về huyết mạch, tâm huyết bất túc làm huyết mạch khó lưu thông, gây hồi hộp hay quên hay giận. Tâm lại chủ về thần minh, huyết đầy đủ thần minh sáng suốt. Tâm lại dựa vào thận mà thận chứa tinh thông lên não, não là bể của tinh tủy, chỗ dựa của sự ghi nhớ. Tỳ chủ sinh huyết nhiếp huyết. Tỳ suy thần mất nuôi dưỡng do khí huyết bất túc, thận tinh hư hao dẫn đến tâm thận bất giao. Do vậy, để điều trị chứng sa sút trí tuệ trong tâm phải “Dưỡng tâm an thần, bổ ích tỳ vị”. 

Sa sút trí tuệ do thận tinh suy hư và tâm thận bất giao

Nếu do thận tinh suy hư: thận chủ tinh, chủ xương sinh ra tủy, thông lên não. Khi thận tinh bất túc tủy hải rỗng không, biểu hiện chủ yếu là hay quên và tinh thần trì trệ, răng lung lay, tóc rụng, râu tóc bạc, xương mềm yếu, đi đứng khó khăn, mạch hư yếu... Phép điều trị  là trọng tâm bổ tinh tủy. 

Nếu do tâm thận bất giao: do thận âm tổn thương hay gặp lão suy ốm lâu, ảnh hưởng thận âm suy hư không dâng thủy lên giúp đỡ tâm (tủy của thận không giúp hỏa ở tâm) nên tâm hỏa uất mà bốc lên hun đốt, hỏa bốc càng cướp đoạt thận âm ở dưới, sự điều hòa tâm thận mất nên gây ra tâm thận bất giao. Tùy theo mức độ của bệnh mà có triệu chứng: thường xuyên hay quên, hư phiền mất ngủ, hồi hộp sợ sệt, đầu choáng tai ù, lưng gối mỏi, triều nhiệt (nóng hâm hấp về chiều), tiểu nhiều, mồ hôi trộm  lưỡi có khi đỏ nứt... Hoặc nặng hơn tâm hỏa quá thịnh mà thận âm càng suy dẫn đến trên nhiệt dưới hàn mà có các phép trị và bài thuốc phù hợp:

Nếu thiên về tâm thận âm hư: phép điều trị là tư âm giáng hỏa, dưỡng tâm an thần. 

Nếu thiên về tâm hỏa quá thịnh làm thận thủy quá suy: tâm hỏa quá thịnh dẫn đến trên nhiệt dưới hư hàn nên gây phiền khát, miệng lở loét, tiểu vàng mặt đỏ, đại tiện khô táo... Phép điều trị  là thanh tâm tả hỏa, tư bổ thận âm. 

Sa sút trí tuệ do tâm tỳ suy hư

Tỳ hư không lấy gì để hóa sinh huyết làm huyết hư, tâm không đủ huyết để dưỡng tâm hỏa đã bất túc lại không sưởi ấm được tỳ vị để hóa sinh dẫn tâm tỳ đều hư. Bệnh nhân có sắc mặt bạc nhược, hồi hộp hay quên, đoản hơi, tinh thần khiếp nhược, mệt mỏi, kém ăn, kém ngủ, lưỡi nhợt, mạch nhược. Phép điều trị là bổ dưỡng tâm tỳ.

Sa sút trí tuệ do đàm trọc huyết ứ

Do dàm trọc quấy tâm tình chí không thỏa mái, can khí uất kết, tỳ không kiện vận, thủy thấp không được hóa, ứ trọc nội sinh nghịch lên quấy tâm. Hay do khí trệ dẫn đến huyết ứ, khí huyết không thông, tâm không được dưỡng đầy đủ hay ứ nghẽn, ủng tắc dẫn đến thần thức bị quấy rối nên hay quên. Biểu hiện hoa mắt chóng mặt, hung cách bí tắc, đau đầu nôn mửa, xuyễn thở, nằm ngồi không yên. Phép điều trị là hóa đàm ninh tâm. 

Nếu đàm uất lâu hóa nhiệt, hay tình chí bị kích thích (vui, giận dữ, lo lắng, bi quan, hoảng sợ) hóa hỏa làm đầu choáng váng, mặt đỏ, họng khô, thở gấp, ho khạc đờm vàng, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác, tâm phiền mất ngủ, miệng đắng... Phép điều trị là thanh nhiệt hóa đàm.

Mụn trứng cá đông y gọi thanh xuân đậu

 Mụn trứng cá đông y gọi thanh xuân đậu, phần nhiều gây ra do lỗ chân lông bị nhiễm khuẩn. Ngoài ra tuyến bã nhờn phân tiết quá thịnh cũng là một trong những nguyên nhân gây mụn…Nguyên nhân gây mụn trứng cá, mụn cám là do phế nhiệt mà phải phong, cộng thêm khí huyết không hòa mà gây ra. Tuy không phải đại bệnh nhưng những nam sinh, kiều nữ nếu bị bệnh này sẽ ảnh hưởng lớn về phong thái( mất tự tin trong giao tiếp).

Mụn trứng cá thông thường có 2 dạng, tùy dạng bệnh mà dùng bài thuốc thích hợp.

.Dạng tỳ vị ẩm nhiệt: mụn mẩn màu đỏ hoặc hơi đỏ, lúc ban đầu mụn nổi ít, dần dần tăng nhiều, mụn nổi đầu đen, có thể lặn ra chất như bã phấn, thường gặp ở người có cơ địa da nhờn. Đây là loại hình thường gặp nhất, thường có hiện tượng khô miệng, táo bón , lưỡi đỏ,nên cách chữa là thanh tiết tchs dịch vị trong trường vị.

.Dạng khí huyết uất trệ: mụn mẩn màu đỏ hoặc đỏ sạm. Nữ giới bị chứng trạng này khi có kinh nguyệt bệnh sẽ nặng thêm, sau kinh nguyệt bệnh tình lại giảm nhẹ. Nam giới bị chứng này sắc mặt sạm đen hoặc đỏ tím. Loại hình này thường gặp ở thanh niên nữ nên cách chữa trị là lương huyết thanh phế, hóa ứ lý khí.


Bệnh sởi bằng thuốc Đông y

  Sởi hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, rất dễ lây lan trong cộng đồng và nguy hiểm nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời. Đông y gọi bệnh sở là Ma chẩn hay sa tử và có những bài thuốc điều trị theo từng thời kỳ.

Theo đông y, bệnh sởi do khí độc đi vào Phế, phế chủ bì mao nên có các nốt ban đỏ, khoảng 10 ngày các nốt ban bay mất. Nhưng nếu cơ thể suy yếu, nhiệt thịnh bế ở trong, nhiệt tà quá mạnh không ra ngoài (các nốt ban không mọc) dễ gây biến chứng: viêm phổi, tiêu chảy …  

Thời kỳ phát sốt (3 – 4 ngày): Người bệnh bắt đầu sốt, ho, chảy nước mũi, chảy nước mắt, người mệt mỏi, sốt cao dần, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, niêm mạc miệng có ban chẩn, xem kỹ vùng tai, gáy, cổ, lưng có một vài điểm ban đỏ (rất giống thời kỳ khởi phát của các bệnh truyền nhiễm khác, cần chú ý dịch tễ học).

Thời kỳ sởi mọc (3 – 4 ngày): Xuất hiện các nốt ban sởi, tuần tự từ đầu, mặt, thân mình, lòng bàn tay, bàn chân, mọc càng ngày càng dày, sốt cao, ho nhiều, đại tiện nát, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ, mạch sác. Phép chữa là thanh nhiệt giải độc.

Thời kỳ sởi bay (3 – 4 ngày): Sốt có giảm, nhưng còn triều nhiệt do tân dịchgiảm, ho, miệng khô, lưỡi đỏ, rêu ít.


Rối loạn bài tiết mồ hôi

 Tình trạng rối loạn bài tiết mồ hôi thuộc phạm vi “hãn chứng” bao gồm: tự nhiên hay vã mồ hôi gọi là tự hãn chứng, ra mồ hôi trộm gọi là đạo hãn chứng, ra mồ hôi quá nhiều gọi là đa hãn chứng, không có mồ hôi gọi là vô hãn chứng, mồi hôi nặng mùi gọi là xú hãn chứng, mồ hôi có màu vàng gọi là hoàng hãn chứng, ra mồ hôi nhiều ở các vùng khác nhau như đầu, tay chân, một nửa người... được gọi là đầu hãn chứng, thủ túc đa hãn chứng, bán thân đa hãn chứng...

Theo quan niệm của cổ nhân, tự hãn phần lớn là do cơ thể suy nhược, sau khi bị bệnh nặng hoặc lâu ngày, phụ nữ sau khi sinh đẻ... dẫn đến tình trạng dương khí suy kém, phế khí bất cố khiến cho mồ hôi dễ ra hoặc ra rất nhiều; đạo hãn là do lao lực quá độ, dịch thể hao tổn nhiều dẫn đến phần âm suy kém, hư nhiệt phát sinh làm xuất hiện tình trạng vã mồ hôi khi ngủ hay còn gọi là mồ hôi trộm... chứng bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng nhiều khi tạo cảm giác rất khó chịu.

Chứng thấp ôn

 Thấp ôn là một loại bệnh thấp nhiệt hay gặp vào mùa mưa nhiều, ẩm thấp. Đặc điểm của bệnh phát ra chậm, thể bệnh dây dưa, kéo dài.Người bệnh sốt nhẹ, sợ lạnh, đau người, nặng đầu, bĩ tức vùng ngực và thượng vị...

Nguyên nhân do cảm nhiễm thấp tà xâm nhập cơ thể. Mặt khác do tỳ hư hiệp với ngoại tà mà gây nên bệnh. Cơ chế sinh bệnh khá phức tạp, mới đầu ở phần vệ, rồi chuyển vào phần khí. Nếu đuổi được tà khí ra khỏi phần khí thì bệnh sẽ sớm bình phục. Nếu không, thấp theo nhiệt chuyển thành nhiệt thì sẽ vào dinh huyết. Do vậy tùy từng cơ chế bệnh sinh mà dùng bài thuốc điều trị khác nhau.

Thấp át phần vệ, phần khí

Biểu hiện: nhức đầu, sợ lạnh, người nặng nề, đau nhức, sốt nhẹ, hơi tăng về buổi chiều, vùng ngực và thượng vị đầy tức, không đói, không khát, da mặt hơi vàng nhợt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch nhu hoãn.

Điều trị: tuyên hóa thấp tà

Tà ở phần khí

Cơ năng thăng giáng của tam tiêu bị trở trệ

Biểu hiện: thượng vị đầy trướng, đại tiện lỏng hoặc thất thường, người nặng nề đau mỏi, rêu lưỡi trắng trơn hoặc rêu vàng. Mạch nhu hoãn.

Phép trị: tuyên hóa thấp trọc trung tiêu

Uế trọc làm chướng ngại mô nguyên

Biểu hiện: sợ lạnh, sốt ít, đau mình, có mồ hôi, tay chân nặng nề, nôn mửa đầy trướng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch hoãn.

Phép trị: sơ lợi thấu đạt thấp trọc.

Thấp nhiệt uất phát

Biểu hiện: sốt, đau mình, ra mồ hôi, bĩ tức vùng thượng vị, ậm ọe muốn nôn, ngực bụng mọc bạch bồi, rêu lưỡi vàng tươi nhớt.

Phép trị: Thanh tiết thấp nhiệt thấu tà đạt ngoại.