Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020

Tăng huyết áp

  Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến nhất trong các bệnh tim mạch. Nguyên nhân do nhiều yếu tố như xơ vữa động mạch, bệnh ở thận, hoặc trong giai đoạn tiền mãn kinh...

Tăng huyết áp độ 1 (chỉ số huyết áp 140 - 159/ 90 - 99 mmHg); tăng huyết áp độ 2 (160 -175/100 - 109mmHg); tăng huyết áp độ 3 (trên 180/120mmHg). Theo y học cổ truyền, tăng huyết áp thuộc phạm vi các chứng huyễn vựng (chóng mặt, hoa mắt), đầu thống (nhức đầu), thất miên (mất ngủ)...

Nguyên nhân do các tạng can, thận, tỳ, bị mất điều hòa mà gây ra bệnh. Ngoài ra còn do đàm thấp, hay gặp ở những người béo và cholesterol  máu cao. Người bệnh có biểu hiện đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, mất ngủ, tính tình hay cáu gắt. 


Bệnh phong thấp

 Phong thấp là bệnh rất phổ biến ở người trung niên và cao tuổi, thường gặp vào mùa đông xuân, mỗi khi thời tiết thay đổi và dai dẳng, lặp lại nhiều lần.

Người bệnh đau nhức và sưng các khớp, nhất là những khớp xương nhỏ của bàn tay và bàn chân.

Theo Đông y, đau nhức xương khớp thuộc phạm vi chứng tý, nguyên nhân do khí huyết không lưu thông tốt, gây ra bế tắc kinh lạc. Bệnh chia làm hai thể: do phong hàn và thấp nhiệt gây ra. Ngoài việc dùng thuốc thì dược thiện cũng là một phương pháp độc đáo hỗ trợ điều trị hiệu quả. 

Phong thấp thể phong hàn:

 Người bệnh đau nhức trong xương, chủ yếu hai chi dưới. Đau âm ỉ, khi gặp gió lạnh thì đau tăng lên. Chân bên đau bị lạnh, đau nhức kéo dài làm người bệnh mệt mỏi, mất ngủ, cơ thể suy nhược, ăn uống kém, hạn chế vận động.

Phong thấp thể thấp nhiệt: 

Người bệnh đau nóng đỏ các khớp xương, đau có tính chất cố định. Nguyên nhân do âm hư sinh nội nhiệt, kết hợp với thấp tà ứ kết lâu ngày sinh ra. Kèm theo người bệnh trằn trọc mất ngủ, chất lưỡi đỏ, váng đầu, bốc hỏa từng cơn. Nếu là nam giới dễ bị di tinh hoạt tinh, răng lung lay...


Nấc do lạnh

 Nấc trong y học cổ truyền gọi là ách nghịch. Nguyên nhân do sự điều hòa tân dịch không thuận, ăn uống nóng quá, lạnh quá hoặc do trạng thái tâm lý lo lắng, căng thẳng, kích thích; Nấc do thực tích, bụng sườn đầy tức; Nấc do lạnh; Nấc do nhiệt…

Nấc cụt có khi đơn giản tự hết trong ít phút nhưng cũng có khi dai dẳng. Tiếng do lạnh: tiếng nấc mạnh, thưa, trong dạ dày cảm thấy lạnh, ợ ra nước trong, tiểu tiện nhiều, chườm nóng thì đỡ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tiểu khẩn... Nấc do nhiệt: miệng hôi, khát nước, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện táo kết, người nóng bứt rứt, lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Trị viêm họng

 Họng là nơi giao thông giữa khí quản với thực quản nên các bệnh ở họng có liên quan mật thiết đến các bệnh ở phế và vị.

Viêm họng có 2 thể: cấp tính và mạn tính. Bệnh cấp tính ở họng thường do phong hàn, phong nhiệt hay do nhiệt từ vị gây ra. Các bệnh mạn tính ở họng thường do phế âm hư hay vị âm hư.

Các bệnh cấp tính ở họng do phong hàn, phong nhiệt, phép chữa là phát tán biểu tà; nếu họng sưng, đau, đỏ có mủ loét thì phải thanh nhiệt giải độc; nếu khạc ra nhiều đờm thì phải trừ đàm. Bệnh mạn tính, nếu họng khô khạc ra máu, viêm nhiễm lâu ngày, phép chữa là dưỡng âm nhuận phế hay dưỡng âm sinh tân. Sau đây là một số bài thuốc trị viêm họng cấp:

Người bệnh có triệu chứng họng đỏ khô, đau rát, niêm mạc họng hơi phù nề, sung huyết kèm theo các triệu chứng toàn thân như sốt, sợ lạnh, nhức đầu. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. 

Liệt thần kinh VII ngoại vi

 Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng.

Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng. Trong Đông y được quy thành 3 chứng trạng chủ yếu là: phong hàn, phong nhiệt và huyết ứ... Liệt dây thần kinh VII ngoại vi có nhiều phương pháp trị liệu khác nhau. Bài viết sau xin giới thiệu phương pháp tự xoa bóp, bấm huyệt để bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần.

Nguyên nhân gây liệt thần kinh VII thường do cảm nhiễm phong hàn, phong nhiệt hoặc do chấn thương làm bế tắc sự vận hành của kinh mạch gây ra méo miệng, mắt nhắm không kín, nhân trung lệch sang bên lành, cơ bên liệt co cứng hay teo nhẽo, ăn uống rơi vãi...

Trị viêm phần phụ

 Trong y học cổ truyền, bệnh viêm phần phụ gọi là đới hạ. Biểu hiện khí hư tiết ra nhớt kéo dài như sợi tơ không dứt có khi rất hôi (viêm âm đạo, viêm loét cổ tử cung, viêm cổ tử cung, viêm xoang chậu...).

Trong y học cổ truyền, bệnh viêm phần phụ gọi là đới hạ. Biểu hiện khí hư tiết ra nhớt kéo dài như sợi tơ không dứt có khi rất hôi (viêm âm đạo, viêm loét cổ tử cung, viêm cổ tử cung, viêm xoang chậu...). Tuỳ theo màu sắc bạch đới ( sắc trắng), xích đới (vẩn đục lờ lờ máu cá) mà chia ra thể bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh thường do thấp nhiệt; đàm thấp; do chức năng của các tạng tỳ, thận suy yếu và can khí uất kết (do căng thẳng). Sau đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.

Do thấp nhiệt hạ tiêu (thường có nhiễm khuẩn nặng). Người bệnh hơi sợ lạnh, có khi sốt, đau vùng hạ vị, cự án, khí hư ra vàng như mủ hôi, chất lưỡi đỏ rêu vàng, mạch sác. Phép trị là thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyết hóa ứ.

Do tỳ hư: người bệnh có biểu hiện khí hư sắc trắng, ít hôi, bụng không trướng, không đau, sắc mặt trắng mệt mỏi, tay chân lạnh, đại tiện lỏng, nước tiểu trong, mạch hoãn nhược... Phép trị là kiện tỳ ích khí thăng dương trừ thấp. 

Do đàm thấp: thường gặp ở người béo. Người bệnh có biểu hiện khí hư ra nhiều giống như đờm, đầu nặng, choáng váng, miệng nhạt, bụng trướng đầy, ăn kém, hay lợm giọng, chất lưỡi nhợt, rêu trắng nhớt, mach  huyền hoạt. Phép trị là tập trung kiện tỳ mạnh.

Do can uất: Người bệnh có biểu hiện khí hư màu hồng nhạt hoặc trắng dính, ra không ngừng, tinh thần uất ức hay nóng giận, bực bội, ngực sườn đầy trướng, miệng đắng, tiểu vàng, mạch huyền. Phép trị là điều can giải uất và thanh nhiệt.

Do thận hư: Người bệnh có biểu hiện khí hư trắng trong như lòng trắng trứng, ra kéo dài không dứt, sắc mặt xám, mệt mỏi.

Nếu do thận dương hư: lưng  bụng, chân tay lạnh; tiểu trong, đại tiện lỏng, có khi phù chân. Phép trị là ôn bổ thận dương. 

Nếu do thận âm hư: khí hư nhiều, màu đỏ nâu, người gầy, da khô, nóng, chóng mặt hoa mắt, tiểu vàng tiện táo, sắc mặt ửng hồng, mạch tế sác. Phép trị là bổ thận âm. 





Chữa ít sữa, tắc sữa sau sinh

 Sau sinh ít sữa hoặc sữa không xuống là vấn đề thường gặp khiến nhiều bà mẹ lo lắng. Theo Đông y, nguyên nhân phần nhiều do mất huyết, can uất, tỳ hư, chức năng nội tạng hư tổn…

Sau sinh ít sữa hoặc sữa không xuống là vấn đề thường gặp khiến nhiều bà mẹ lo lắng. Theo Đông y, nguyên nhân phần nhiều do mất huyết, can uất, tỳ hư, chức năng nội tạng hư tổn… Liên quan đến tâm lý hay tức giận can uất sữa không thông, lo lắng thái quá ăn ngủ kém, huyết thiếu mà sữa ít. Phép trị chủ yếu bổ khí dưỡng huyết, kiện tỳ vị, binh can khai uất thông nhũ. 

Sau sinh ít sữa do khí huyết hư: phép trị ích khí, dưỡng huyết, thông nhũ… Trị sản phụ khí huyết đều suy, ít sữa hoặc không có sữa, sản phụ sau sinh mệt mỏi, chóng mặt, xương khớp nhức mỏi

Sau sinh ít sữa do tỳ hư mất máu nhiều: phép trị đại bổ khí huyết, ích tâm tỳ, lợi sữa… Trị phụ nữ sau sinh ít sữa, sản phụ khí huyết hư mệt mỏi, nhức mỏi, đau bụng, táo bón, huyết xấu.

Sau sinh ít sữa do can khí uất trệ: phép trị sơ can giải uất kiện tỳ dưỡng huyết lợi sữa... Chữa sản phụ sữa ít, cương sữa phát sốt, chứng can uất huyết hư, huyết uất, sản phụ sau sinh bị trĩ táo bón, viêm đại tràng.