Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Bài trị nhiệt miệng

 Nhiệt miệng là chứng bệnh thường phát về mùa hè với biểu hiện viêm loét ở đầu lưỡi hoặc ở niêm mạc trong khoang miệng, kèm theo viêm lợi, ngứa lợi, sưng nề, dễ chảy máu, gây đau đớn, khó chịu, sốt, mất ngủ, tâm phiền,… Phương pháp chữa trị nhiệt miệng theo Đông y là thanh nhiệt giải độc, dưỡng âm, chống viêm, lương huyết.

Nhiệt miệng là chứng bệnh thường phát về mùa hè với biểu hiện viêm loét ở đầu lưỡi hoặc ở niêm mạc trong khoang miệng, kèm theo viêm lợi, ngứa lợi, sưng nề, dễ chảy máu, gây đau đớn, khó chịu, sốt, mất ngủ, tâm phiền,… Phương pháp chữa trị nhiệt miệng theo Đông y là thanh nhiệt giải độc, dưỡng âm, chống viêm, lương huyết.

Bài viêm quanh khớp vai

 Viêm quanh khớp vai là bệnh viêm khớp có tỉ lệ mắc ngày càng gia tăng, nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm sẽ dẫn đến tình trạng đau dai dẳng và hạn chế vận động khớp vai, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Viêm quanh khớp vai

Viêm quanh khớp vai là thuật ngữ dùng chung cho các bệnh lý viêm các cấu trúc phần mềm quanh khớp vai: gân, túi thanh dịch, bao khớp; không bao gồm các bệnh lý có tổn thương đầu xương, sụn khớp và màng hoạt dịch như viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm khớp dạng thấp... Ở Mỹ và Anh khoảng 5 - 10% người trưởng thành mắc bệnh viêm quanh khớp vai. Bệnh thường xảy ra ở người trên 50 tuổi, nữ gặp nhiều hơn nam, vai phải thường gặp hơn vai trái.

Theo y học cổ truyền, viêm quanh khớp vai còn được gọi là Kiên tý, Kiên ngưng, Ngũ thập kiên… Bệnh phần nhiều là do khí huyết suy hư, cảm thụ phong hàn thấp tà hoặc tổn thương lâu ngày dẫn đến kinh lạc bế tắc, khí huyết vận hành không thông khiến các tổ chức xung quanh co rút dính lại với nhau, gây tình trạng đau nhức và hạn chế vận động vùng vai. Mục tiêu điều trị của y học cổ truyền là nhằm giúp khí huyết vận hành thông suốt, “thông tắc bất thống”.

Bài liệt dây thần kinh mặt

 Liệt dây thần kinh mặt là liệt dây thần kinh số VII, gây ra các dấu hiệu liệt mặt tùy thuộc nguyên nhân. Dây thần kinh VII là dây hỗn hợp, có đầy đủ chức năng của một dây thần kinh ngoại vi: Vận động, cảm giác, thực vật, dinh dưỡng và phản xạ... nên khi liệt sẽ mất cả vận động, cảm giác và phản xạ.

Nguyên nhân gây liệt mặt

Liệt mặt nguyên phát (liệt mặt do lạnh hay liệt Bell): 

Do mạch nuôi của dây thần kinh bị co thắt gây ra thiếu máu cục bộ, phù và chẹn dây thần kinh trong ống Fallope. Các trường hợp liệt tự phát thường tiến triển cấp tính có liên quan tới gió lùa, lạnh, hay xảy ra vào ban đêm, nhất là vào mùa lạnh.

Liệt mặt thứ phát:

 Do tổn thương cầu não bởi các bệnh u thần kinh đệm, u lao, di căn ung thư hoặc đột quỵ vùng cầu não.

Liệt mặt có thể là dấu hiệu đầu tiên của viêm tủy xám, nhất là ở trẻ em; bệnh xơ não tủy rải rác; do tổn thương ở góc cầu tiểu não (do u dây thần kinh số VIII, u màng não, viêm màng nhện vùng góc cầu - tiểu não); tổn thương ở nền sọ (do u di căn ở nền sọ liệt mặt trong hội chứng Guillain - Garcin gây liệt các dây thần kinh sọ não một bên); chấn thương vỡ nền sọ; tổn thương trong xương đá (như zona hạch gối, chấn thương vỡ xương đá, ổ máu tụ ở hõm nhĩ, viêm tai xương chũm); tổn thương dây thần kinh số VII ngoài sọ (do chấn thương, u ở tuyến mang tai, bệnh hủi, bệnh uốn ván, hội chứng Guillain - Barré: Chiếm 69% trường hợp liệt mặt hai bên, viêm nhiều dây thần kinh sọ não, viêm nút quanh động mạch, bệnh Kahler, đái tháo đường tiềm tàng, liệt dây thần kinh số VII do thai nghén, liệt mặt di truyền).

Các biểu hiện liệt mặt

Theo nguyên nhân gây tổn thương, người ta phân biệt liệt mặt ngoại vi, liệt mặt trung ương và các định khu tổn thương dây thần kinh số VII như sau:

Dấu hiệu liệt mặt ngoại vi

Khi bệnh nhân không cử động: Hai bên mặt không cân đối, các cơ mặt bị kéo về bên lành, nửa mặt bên bệnh bất động và nhẽo do bị giảm trương lực cơ, trán mắt nếp nhăn, lông mày hơi sụp xuống, má hơi xệ, rãnh mũi - má mờ, góc mép miệng bị xệ xuống, tai hình như thấp xuống. Nếu ở giai đoạn muộn có nhiều trường hợp mặt bệnh nhân khi không cử động nhìn thấy mặt cân đối, chỉ khi cử động mới thấy mất cân đối.

Liệt dây thần kinh mặt Vị trí các huyệt vùng mặt điều trị liệt dây thần kinh số VII.

Khi cử động: Bên bệnh không nhăn trán được, mắt không nhắm kín (dấu hiệu hở mi  lagophthalmus), không làm được động tác nhe răng, phồng má, mím môi, huýt sáo...

Các dấu hiệu đặc trưng của liệt mặt gồm:

Dấu hiệu Charles - Bell dương tính, là khi bệnh nhân nhắm mắt chủ động, mắt bên liệt nhắm không kín, nhãn cầu vận động lên trên và ra ngoài.

Dấu hiệu Negro: Khi bệnh nhân ngước mắt nhìn lên trên, đồng tử bên tổn thương ở vị trí cao hơn bên lành.

Dấu hiệu Souques: Trong khi nhắm hai mắt thì mắt bên bệnh nhắm không được chặt, lông mi của bên bệnh còn thò ra ngoài dài hơn bên lành.

Dấu hiệu Pierre Marie - Foix:  Giúp phát hiện liệt mặt nếu bệnh nhân hôn mê. Bác sĩ ấn mạnh vào hai góc hàm hoặc giật tóc mai của bệnh nhân, bệnh nhân sẽ nhăn mặt, khi đó nửa mặt bên lành sẽ co, còn bên liệt không có phản ứng gì.

Ngoài ra, liệt dây thần kinh VII ngoại vi có thể đi kèm theo liệt nửa người kiểu  trung ương bên đối diện như trong hội chứng Millard - Gubler hay hội chứng Foville cầu não dưới.

Liệt mặt trung ương do tổn thương đường vỏ nhân

Biểu hiện bệnh nhân chỉ liệt 1/4 dưới của mặt, không có dấu hiệu Charles - Bell. Dây thần kinh số VII rất dễ bị tổn thương, khi có các quá trình bệnh lý khu trú ở bán cầu đại não. Do nhân vận động dây thần kinh số VII có hai phần: Phần trên (phân bố vận động cho 1/4 trên của mặt cùng bên) được chi phối bởi cả hai bên bán cầu, còn phần dưới (phân bố vận động cho 1/4 dưới của mặt cùng bên) chỉ được chi phối bởi một bán cầu bên đối diện, cho nên khi có một bán cầu não bị tổn thương thì nửa dưới nhân vận động dây thần kinh số VII bên đối diện mất phân bố thần kinh, biểu hiện bằng liệt 1/4 dưới của mặt bên đối diện.

Như vậy, liệt dây thần kinh số VII là liệt 1/4 dưới của mặt, còn liệt dây VII ngoại vi là liệt nửa mặt (phải hoặc trái).

Các định khu tổn thương dây VII khác

- Liệt dây VII do tổn thương bán cầu não: Do vỏ não và đường vỏ - nhân dây VII bị tổn thương gây liệt dây VII trung ương cùng bên với liệt nửa người. Bệnh nhân bị liệt 1/4 dưới mặt bên đối diện với ổ tổn thương và liệt nửa người kiểu trung ương bên đối diện với ổ tổn thương.

- Tổn thương nhân dây VII ở cầu não: Gây liệt mặt ngoại vi. Hội chứng Millard - Gubler: Liệt dây VII ngoại vi bên tổn thương, liệt nửa người trung ương bên đối diện. Hội chứng Foville cầu não dưới: Bệnh nhân có dấu hiệu hai mắt nhìn sang bên đối diện với tổn thương. Liệt mặt ngoại vi bên tổn thương. Liệt nửa người bên đối diện (trừ mặt)...

Phương pháp điều trị liệt mặt 

Điều trị nội khoa liệt mặt 


Tùy theo nguyên nhân mà chọn dùng thuốc thích hợp. Các thuốc thường dùng như corticoide, axid acetyl salicylic, thuốc kháng sinh (khi có nhiễm khuẩn), các thuốc giãn mạch, thuốc kích thích tăng dẫn truyền (nivalin, methylcoban), thuốc tái tạo bao myelin (nucléo - CMP forte), sử dụng vitamin nhóm B liều cao, thuốc chống gốc tự do (vitamin E, eckhart Q10)...

Điện châm các huyệt: Bế phong, Dương bạch, Toản trúc, Tình minh, Ty trúc không, Đồng tử liêu, Thừa khớp, Nghinh hương, Giáp xa, Địa thương, Nhân trung, Thừa tương cùng bên liệt...

Toàn thân châm huyệt Hợp cốc, Phong bì bên đối diện. Cần tránh kích thích quá mức để gây co cứng cơ mặt. Khi mắt đã gần bình thường thì dừng điều trị kích thích. Khi thấy các dấu hiệu co cứng cần ngừng ngay liệu pháp điện châm, châm cứu, xoa bóp. Nếu bị liệt mặt co cứng dai dẳng điều trị không kết quả có thể tiêm cồn hủy dây thần kinh.

Điều trị ngoại khoa liệt mặt

Phẫu thuật để giải phóng dây thần kinh trong ống dây thần kinh mặt do viêm tai. Phẫu thuật được chỉ định trong các trường hợp liệt dây VII do viêm tai cấp hoặc mạn tính khi đã điều trị bảo tồn trong 4 - 5 tuần mà không có dấu hiệu phục hồi.

Cách phòng bệnh liệt mặt

Để phòng bệnh, cần điều trị dứt điểm các bệnh là nguyên nhân gây liệt mặt. Tránh gió lùa hay quạt lạnh trực tiếp vào vùng đầu mặt, nhất là ban đêm và mùa lạnh. Khi trời lạnh cần mặc ấm, đeo khẩu trang để tránh gió và lây nhiễm các bệnh do virus; tránh tiếp xúc đột ngột với nước lạnh...

Bài đau dây thần kinh tọa

 Đau dây thần kinh tọa (còn gọi đau thần kinh hông) thuộc phạm vi chứng tọa cốt phong của y học cổ truyền. Bệnh thường gặp ở tuổi trung niên, những người lao động chân tay, nam mắc nhiều hơn nữ. Nguyên nhân gây bệnh có nhiều như do nhiễm khuẩn, nhiễm độc, do lạnh, thoái hóa cột sống, thoát vị

Đau dây thần kinh tọa (còn gọi đau thần kinh hông) thuộc phạm vi chứng tọa cốt phong của y học cổ truyền. 

Bệnh thường gặp ở tuổi trung niên, những người lao động chân tay, nam mắc nhiều hơn nữ. Nguyên nhân gây bệnh có nhiều như do nhiễm khuẩn, nhiễm độc, do lạnh, thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm. Y học cổ truyền có nhiều phương pháp điều trị hiệu quả đối với những trường hợp do phong hàn, phong hàn thấp tý. 

Đau dây thần kinh hông do lạnh, trúng phong hàn ở kinh lạc: 

Người bệnh có biểu hiện đau vùng thắt lưng, đau lan xuống mông, mặt sau đùi, cẳng chân, đi lại khó khăn, chưa teo cơ, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch phù. Phương pháp chữa là khu phong tán hàn, hành khí, hoạt huyết.

Đau dây thần kinh hông do phong hàn thấp tý: 

Người bệnh có biểu hiện đau vùng thắt lưng cùng, lan xuống chân theo dọc đường đi của dây thần kinh hông to, teo cơ, bệnh kéo dài, dễ tái phát, thường kèm theo triệu chứng toàn thân, ăn kém, ngủ ít, mạch nhu hoãn, trầm nhược. Phép chữa là khu phong tán hàn, trừ thấp, hoạt huyết, bổ can thận, nếu teo cơ phải bổ khí huyết.

Bài trị hen phế quản

 Theo Đông y, hen phế quản thuộc chứng háo suyễn với nhiều thể bệnh. Việc điều trị phải dựa theo thể bệnh để cho thuốc hay châm cứu.

Hen do hàn:

Triệu chứng:

- Thay đổi thời tiết, lạnh nhiều xuất hiện cơn khó thở ra, kèm có tiếng rên rít.

- Ho đờm trong loãng trắng có bọt.

- Ngực đầy tức như bị nghẹt, khi cố dùng sức để thở thì có tiếng kêu phát ra.

- Người lạnh, sợ lạnh, sắc mặt xanh tái, thích uống nước nóng.

- Rêu lưỡi trắng mỏng, ướt trơn.

- Mạch phù (nếu do hàn tà gây nên; mạch trầm khẩn nếu cả trong ngoài đều có hàn).

Pháp trị: ôn phế tán hàn, trừ đờm, định suyễn.

Hen do nhiệt:

Triệu chứng:

- Khi gặp trời nóng nực thì lên cơn khó thở ra, thở mạnh thở gấp rút cảm giác ngộp.

- Ho nhiều, đàm vàng đặc đục, dẻo dính, khó khạc.

- Ngực đầy, khó thở kèm tiếng kêu phát ra.

- Lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhờn.

- Mạch hoạt sác.

Pháp trị: thanh nhiệt, tuyên phế hóa đàm.

Hen do ẩm thực:

Triệu chứng:

- Ăn phải thức ăn không thích hợp nên có cơn hen.

- Tiếng thở như tiếng ngáy, thô ráp, mệt, cảm giác tức hơi.

- Đầy trướng ngực bụng.

- Mạch hoạt thực.

Pháp trị: tiêu thực tích.

Hen do phế khí hư:

Triệu chứng:

- Thở gấp, đoản khí.

- Tiếng ho khẽ, yếu, tiếng nói nhỏ không có sức.

- Tự hãn, sợ gió.

- Miệng khô, mặt đỏ, hầu họng khô.

- Lưỡi hơi đỏ.

- Mạch phu nhu tế.

Pháp trị: dưỡng phế định suyễn.

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

Bài trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản

 Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là bệnh lý rất phổ biến trên thế giới và có tỷ lệ người mắc bệnh cao, lên đến 10 - 20%. Ở Việt Nam chưa có số thông kê cụ thể, nhưng ước tính người mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản có xu hướng ngày càng tăng. Bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm với viêm thanh quản, hen, viêm loét dạ dày - tá tràng...

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như hẹp thực quản, xuất huyết thực quản và nhất là ung thư vòm họng, ung thư dạ dày. Theo quan điểm của y học cổ truyền, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do lo nghĩ, ăn uống không điều độ, tỳ vị hư nhược gây nên. Lo nghĩ nhiều làm can khí uất kết, ảnh hưởng đến vị phủ, khí kết lâu ngày làm cho khí huyết không lưu thông mà dẫn đến bệnh. Ăn uống không điều độ, làm tổn thương tỳ vị, công năng của tỳ vị bị rối loạn. Tỳ vị hư nhược sinh ra thấp đàm, lâu ngày hóa nhiệt, thấp nhiệt ứ trệ bên trong, vị không giáng trọc mà bị nghịch lên trên gây bệnh.

Người bệnh có các triệu chứng như: ợ hơi, ợ nóng, ợ chua, buồn nôn, đau tức nóng rát vùng ngực, nước bọt tiết ra nhiều, đau họng, ho. Bệnh nhân nặng có thể bị khàn giọng, khó nuốt, không thể nằm thẳng...

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thể can vị bất hòa

Đau vùng thượng vị, đầy trướng bụng, đau lan sang hai bên sườn, tức ngực, hay thở dài, ợ hơi nhiều, tinh thần không tốt bệnh thêm nặng, lưỡi nhạt hay hồng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền.

Phép điều trị: sơ can giải uất, hòa vị giáng nghịch.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thể  can vị uất nhiệt

Vùng ngực đau nóng như có lửa đốt, hồi hộp, dễ cáu gắt, miệng khô, đắng, đại tiện táo, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền hoặc sác.

Phép điều trị: sơ can thanh nhiệt, hòa vị giáng nghịch.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thể  hàn nhiệt thác tạp

Biểu hiện đau nóng vùng ngực rõ rệt, ợ chua nhiều, bụng đau âm ỉ, thích ấn, thích chườm ấm, lúc đói đau tăng lên, ăn vào thì đau giảm, nôn ra đàm dãi, ăn kém, tay chân lạnh, đại tiện nát, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch nhu sác hoặc trầm hoãn.

Phép điều trị: hàn nhiệt bình điều, hòa vị giáng nghịch.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thể  khí trệ huyết ứ

Đau nhói vùng sau ngực, bụng đầy trướng, hình thể gầy yếu, nuốt khó khăn, nặng có thể nôn ra máu, lưỡi tím có điểm ứ huyết, mạch sáp hoặc huyền.

Phép điều trị: hành khí hoạt huyết, hòa vị giáng nghịch.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản thể vị âm hư nhược

Vùng sau ngực hoặc dạ dày đau âm ỉ, miệng khô háo, lòng bàn tay bàn chân nóng, người mệt mỏi, đại tiện táo, lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch tế sác.

Phép điều trị: dưỡng âm ích vị, hòa trung giáng nghịch.

Đái tháo đường theo y học cổ truyền

 Bệnh đái tháo đường theo y học cổ truyền thuộc phạm vi chứng tiêu khát. Bệnh đã được các Y gia cổ mô tả từ rất sớm.

Từ thế kỷ IV – V trước công nguyên trong “Hoàng đế nội kinh – Tố vấn” đã nhắc đến chứng “tiêu” hay “tiêu khát”. Trong sách “Hoàng đế nội kinh – Linh khu, Ngũ biến thiên”  có viết: “Ngũ tạng giai nhu nhược giả, thiện bệnh tiêu đan” có nghĩa là: Ngũ tạng nhu nhược dễ mắc bệnh tiêu. Trong “Ngoại trị bị yếu, Tiêu khát môn” viết: “Tiêu khát giả, nguyên kỳ phát động, thử tắc thận suy sở trí, mỗi phát tức tiểu tiện chí điềm” nghĩa là: Bệnh tiêu khát ban đầu do thận suy nên mỗi khi tiểu tiện nước tiểu có vị ngọt.

Theo Đại Y thiền sư Tuệ Tĩnh: Tiêu khát là chứng trên thì muốn uống nước, dưới thì ngày đêm đi tiểu rất nhiều, nguyên nhân do dâm dục quá độ, trà rượu không chừng, hoặc ăn nhiều đồ xào nướng, hoặc uống thuốc bằng kim thạch làm cho khô kiệt chất nước trong thận, khí nóng trong tâm cháy rực, tam tiêu bị nung nấu, ngũ tạng khô ráo, từ đó sinh ra chứng tiêu khát. Theo “Hải thượng Y tông tâm lĩnh, Y trung quan kiện”: Bệnh tiêu khát phần nhiều là do hỏa tiêu hao chân âm, ngũ dịch bị khô kiệt mà sinh ra.

Bệnh nguyên bệnh cơ

Từ những ghi chép của y văn cổ qua các thời đại thấy có nhiều yếu tố liên quan đến bệnh tiêu khát. Thứ nhất là do tiên thiên bất túc, tức nguyên khí bị hư. Thứ 2 là do hậu thiên: Do ăn uống thất điều, quá no hay quá đói, ăn nhiều chất béo, ngọt, tinh thần không ổn định, tình chí thất điều làm ảnh hưởng đến công năng của các tạng phủ. Bệnh thường xảy ra ở người cao tuổi. Các nhân tố gây bệnh thường phối hợp với nhau gây ra những hội chứng bệnh trong bệnh tiêu khát.

Tiên thiên bất túc: Do bẩm tố tiên thiên bất túc, ngũ tạng hư yếu, tinh khí của các tạng đưa đến thận để tàng chứa giảm sút dẫn đến tinh khuy dịch kiệt mà gây ra chứng tiêu khát.

Ăn uống không điều độ: Ăn quá nhiều đồ béo ngọt, uống quá nhiều rượu, ăn nhiều đồ cay nóng lâu ngày làm nung nấu, tích nhiệt ở tỳ vị, nhiệt tích lâu ngày thiêu đốt tân dịch mà gây ra chứng tiêu khát.

Tình chí thất điều: Do suy nghĩ, căng thẳng thái quá, do uất ức lâu ngày, lao tâm lao lực quá độ mà ngũ chí cực uất hóa hỏa. Hỏa thiêu đốt phế, vị, thận làm cho phế táo, vị nhiệt, thận âm hư. Thận âm hư dẫn đến tân dịch giảm, phế táo làm mất chức năng tuyên phát túc giáng, thông điều thủy đạo, không đưa được nước, tinh hoa của thủy cốc đi nuôi cơ thể mà dồn xuống bàng quang nên người bệnh khát nước, tiểu nhiều, nước tiểu có vị ngọt.

Phòng lao quá độ: Do đam mê tửu sắc, phòng lao quá độ làm thận tinh hao tổn, hư hỏa nội sinh làm tân dịch càng khuy kiệt. Cuối cùng thận hư, phế táo, vị nhiệt dẫn đến tiêu khát.

Dùng thuốc ôn táo kéo dài làm hao tổn tân dịch: Ngày xưa nhiều người thích dùng phương thuốc “Tráng dương chí thạch”, là loại thuốc táo nhiệt, làm tổn hại chân âm và sinh ra tiêu khát. Các thuốc tráng dương khác cũng thường có tính ôn táo, dùng lâu ngày cũng sinh táo nhiệt, hao tổn tân dịch mà gây bệnh.

Phân thể lâm sàng và điều trị

Người xưa quan niệm tiêu khát có 3 thể: Thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu. Cả 3 thể này đều biểu hiện tứ chứng cổ điển: Ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, gầy nhiều. Thượng tiêu khát (phế nhiệt) sẽ gây ra uống nhiều, trung tiêu khát (vị nhiệt) sẽ gây ra ăn nhiều, hạ tiêu khát (thận âm hư) sẽ gây ra đái nhiều.

Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về lịch sử, kinh tế, xã hội mà bệnh tật cũng thay đổi theo. Qua quá trình nghiên cứu và điều trị, người ta nhận thấy cách phân chia trước đây không còn phù hợp. Với những bệnh nhân đái tháo đường hiện nay các triệu chứng cổ điển rất mờ nhạt, thay vào đó là các biểu hiện khác như: Giảm thị lực, tăng huyết áp, thiểu năng động mạch vành, rối loạn chuyển hóa Lipid… Vì vậy dựa vào nguyên nhân gây bệnh, biểu hiện lâm sàng mà phân ra các thể bệnh sau:

Đái tháo đường thể vị âm hư, tân dịch khuy tổn.

 Đái tháo đường thể vị âm hư, vị hỏa vượng.

Đái tháo đường thể  khí âm lưỡng hư.

 Đái tháo đường thể thận âm hư.

 Đái tháo đường thể thận dương hư.

Việc điều trị chủ yếu là thay đổi chế độ ăn uống sinh hoạt. Dùng thuốc theo lý luận y học cổ truyền để chữa bệnh và điều trị các biến chứng.

Đái tháo đường thể vị âm hư tân dịch khuy tổn

Chứng hậu: Miệng khô, họng táo, ăn nhiều, mau đói, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc trắng khô, mạch trầm huyền.

Pháp điều trị: Dưỡng âm sinh tân.

Đái tháo đường thể vị âm hư, vị hỏa vượng

Chứng hậu: Khát nước, uống nhiều, ăn nhiều, mau đói, mệt mỏi, nóng trong, tiểu nhiều, nước tiểu vàng đục, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch sác.

Pháp điều trị: Tư âm thanh nhiệt.

 Đái tháo đường thể khí âm lưỡng hư

Chứng hậu: Miệng khô, họng táo, mệt mỏi, đoản khí, Lưng gối mỏi yếu, hồi hộp trống ngực, đau ngực, tự hãn, đạo hãn, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, chân tay tê bì, giảm thị lực, lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm vi.

Pháp điều trị: Ích khí dưỡng âm.

Đái tháo đường thể thận âm hư

Chứng hậu: Miệng khát, mệt mỏi, đau lưng mỏi gối, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ ít, hay mê, đại tiện táo, nước tiểu vàng sẫm, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch trầm tế sác.

Pháp điều trị: Tư bổ thận âm.

Đái tháo đường thể thận dương hư

Chứng hậu: Miệng khát, không muốn uống nước, mệt mỏi, đoản khí, sợ lạnh, chân tay lạnh, tự hãn, phù thũng, sắc mặt xám nhợt, đại tiện lúc lỏng lúc táo, tiểu tiện nhiều, nước tiểu đục, liệt dương, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng khô, mạch trầm vi vô lực.

Pháp điều trị: Bổ thận dương.