Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Đau trong y học cổ truyền

 Theo y học cổ truyền: đau sinh ra từ trong hoặc ngoài cơ thể mà con người có thể chịu đựng được gọi là thống, đau nối liền thành dải kèm mỏi nhức ê ẩm gọi là đông. Đông và thống gọi chung là thống chứng, tức triệu chứng đau nói chung.

Sự phát triển của quan niệm về đau gắn liền với sự phát triển chung của y học truyền thống, cơ bản có 6 giai đoạn được xem là bước đột phá trong lý luận về đau:

Giai đoạn đầu tiên ghi nhận trong” Hoàng Đế Nội Kinh” trong cả Linh khu và Tố vấn. Nội kinh đưa ra nền tảng liên kết đau với hệ kinh lạc trong cơ thể. Nội kinh phân loại các cơn đau theo âm, hàn, tâm hỏa, giải phẫu; điều trị bằng châm và ngải cứu theo lý luận kinh lạc và huyệt vị. Như vậy, Nội kinh quan niệm về đau, nguyên nhân chủ yếu là hàn và nhiệt, bệnh sinh chủ yếu dựa trên khí và huyết; điều trị dựa trên tác động lên kinh lạc bằng châm cứu, chích lể.

Giai đoạn thứ hai ghi nhận trong “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh. Theo đó, Trương Trọng Cảnh có hai đóng góp trong quan niệm điều trị đau: một là, cơn đau được chia thành đau ngoại sinh và đau nội sinh. Đau ngoại sinh là cơn đau biểu hiện của lục kinh, đau đầu do 3 kinh dương, kinh quyết âm gây ra nhức đầu, kinh thái âm phổ biến trong đau bụng, kinh thiếu âm gây đau trên cơ thể với cường độ cao nhất. Đau nội sinhđược thể hiện trong hung tý tâm thống luận có thể giải thích rõ ràng triệu chứng. Thứ hai là xây dựng nền tảng lý - pháp - phương - dược nhằm điều trị đau, thể hiện đầy đủ biện chứng luận trị, lý luận có hệ thống.Đau ngoại cảm được lập luận theo hàn tà, điều trị theo lục kinh biện chứng; đau nội thương và đau ngực dùng lập luận “dương hư âm huyền” và sử dụng Bạch tửu thang điều trị. Giai đoạn này, quan niệm đã rõ ràng và bước đầu có hệ thống hoàn chỉnh.

Giai đoạn thứ ba với sự phát triển mạnh mẽ của các trường phái, quan niệm về đau được mở rộng. Trong “Y học phát minh” của Lý Đông Viên đề xuất luận điểm “thông tắc bất thống, thống tắc bất thông”, nghĩa là thông suốt thì không đa, mà đau thì do không thông gây nên, hình thành nên một lý luận bệnh sinh về đau rõ ràng. Vương Hảo Cổ trong “Thử sự nan tri” đề xuất “Chư thống vi thực, thống tùy lợi giảm”, nguyên tắc điều trị cần “thông lợi”. Chu Đan Khê chỉ ra đau liên quan nhiều đến rối loạn khí, huyết, đàm, uất; đề xuất quan niệm đau do đàm thấp và hình thành học thuyết đàm luận trị. Đồng thời, đưa ra phương pháp điều trị đau đầu bằng thuốc theo lục kinh, tùy kinh gia dụng dẫn kinh dược: tại thái dương kinh dụng xuyên khung, tại dương minh gia bạch chỉ, tại thiếu dương dụng sài hồ, tại thái âm gia thương truật, tại thiếu âm gia tế tân, tại quyết âm gia ngô thù du.

Giai đoạn thứ tư với sự đóng góp của trường phái ôn bổ, “Chất nghi lục” của Trương Giới Tân xác lập học thuyết bổ hư trị thống, đại ý thường các loại đau là hư, không bổ không được. Hình thành luận điểm bệnh sinh thứ hai là “bất vinh tắc thống”. Giai đoạn này, các bệnh về đau được quy nạp vào bát cương gần đầy đủ: biểu lý, hàn nhiệt, hư thực.

Giai đoạn thứ năm, hệ thống lý luận về đau được hoàn thiện. Diệp Thiên Sĩ tổng hợp các quan niệm về đau, hình thành lý luận về đau, đồng thời đề xuất căn cứ theo thời gian và không gian để biện luận về đau: một là biện chứng theo hàn nhiệt, khí huyết, hư thực; hai là phân loại nguyên nhân do ngoại cảm hay nội thương. Ông đề cao việc xác định chính xác nguyên nhân đau và dùng châm cứu, xoa bóp, chườm ấm để điều trị. Ngoài ra, học thuyết hoạt huyết hóa ứ của Vương Thanh Nhậm sáng lập các phương thang chỉ thống nổi tiếng hàng đầu, trong giai đoạn này, như: huyết phủ trục ứ thang, cách hạ trục ứ thang, thiếu phúc trục ứ thang, thông kinh trục ứ thang, thân thống trục ứ thang.

Giai đoạn thứ sáu là chứng đau có hệ thống lý luận và cơ chế hoàn chỉnh. Lý luận về chứng đau được chỉnh lý toàn diện và có hệ thống, nguyên tắc bao quát “bất thông tắc thống” và “bất vinh tắc thống” và phân loại các phương pháp điều trị khác nhau chochứng đau. Với sự hỗ trợ của y học hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nghiên cứu về cơ chế của hội chứng đau đã được thực hiện ở cấp độ tế bào và phân tử, làm sáng tỏ lý luận y học cổ truyền về chứng đau.

Nhiều nghiên cứu hiện nay, khi tìm hiểu về sinh lý bệnh của đau, dựa trên “Hoàng đế nội kinh - Tố vấn - Cử thống luận” tổng hợp kiến thức kim cổ và phân tích tài liệu một cách khoa học. Đối với đau do nguyên nhân là hàn, các tài liệu có sự thống nhất sinh lý bệnh phù hợp áp dụng trong trường hợp này là “bất thông tắc thống”. Trên lâm sàng, đau là một hội chứng phức tạp, có ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân: do hàn, nhiệt, tình chí nội thương, lao lực, chấn thương... đều có thể dẫn đến khí huyết vận hành chậm lại hoặc trở trệ, từ đó thể hiện tính chất “bất thông” “bất vinh” trong chứng đau. Hiện tượng biến hóa hình thái lưỡi có mối liên quan với quá trình sinh lý bệnh trong từng giai đoạn, cũng là phương tiện chẩn đoán khách quan, phản ánh trạng thái khí huyết thịnh suy trong cơ thể. “Thương hàn luận bản chỉ” viết: “quan thiệt bổn, khả nghiệm kỳ âm dương hư thực, thẩm đài cấu, tức tri kỳ tà chi hàn nhiệt thâm thiển dã”. Như vậy, thiệt chẩn hỗ trợ cho chẩn đoán chính xác hơn. Trên lâm sàng khi biết rõ bệnh cơ, trị liệu chủ yếu để giải quyết vấn đề “thông” và “vinh”; dùng châm cứu, thuốc để sơ thông kinh lạc, hành khí hoạt huyết, ích khí bổ huyết, mục đích nhằm “thông tắc bất thống, vinh tắc bất thống”; khiến cơ thể khôi phục” kinh mạch lưu hành không dừng, tuần hoàn không dứt” trở về trạng thái sinh lý bình thường.



Bài trị kinh nguyệt đến sớm trong đông y

 Cơ chế sinh ra kinh nguyệt có sớm theo y học cổ truyền là do huyết nhiệt và khí hư gây nên.

Cơ chế sinh ra kinh nguyệt có sớm theo y học cổ truyền là do huyết nhiệt và khí hư gây nên. Huyết nhiệt thì bức bách làm huyết chạy càn, khí hư thì xung, Nhâm không cố nhiếp (giữ) được. Phương pháp điều trị kinh nguyệt sớm là thanh nhiệt ích khí để củng cố xung, nhâm là chính. Tuy vậy, trong lúc thanh nhiệt không nên dùng những thứ quá đắng, quá lạnh có hại cho việc sinh ra khí, đồng thời kinh xuống không được lưu lợi dẫn đến huyết khối.

Huyết trắng ra nhiều trong đông y

Người ta thường nói: “Mười nữ có chín bị huyết trắng”, huyết trắng (khí hư) ra nhiều là bệnh thường gặp của nữ giới.

Tuy nhiên, tuyệt không thể bỏ sót, bởi vì rất nhiều bệnh được gây ra do huyết trắng ra nhiều.Sau khi thăm khám, chẩn đoán xác định, nếu huyết trắng ra nhiều do thể chất suy nhược, mạnh dạn tẩm bổ một cách yên tâm. Khi tẩm bổ cần phân biệt thuộc thể tỳ hư hay thận hư. Trong thể thận hư lại phân biệt tỉ mỉ thận dương hư hay thận âm hư.

Huyết trắng ra nhiều thể tỳ hư

Nếu khí hư màu trắng, không mùi hôi, vùng kín không ngứa, cũng như sắc mặt vàng bủn, mỏi mệt sức yếu, ăn ít, đại tiện lỏng hoặc phân mềm, lưỡi nhạt rêu trắng, bắt thấy mạch nhược vô lực… là triệu chứng của tỳ khí bất túc, tức chẩn đoán thuộc thể tỳ hư, dùng bài thuốc bổ tỳ, kiện tỳ để chữa huyết trắng:

Huyết trắng ra nhiều thể thận dương hư

Nếu huyết trắng ra nhiều, như lòng trắng trứng gà, chất loãng, không mùi hôi, thường kèm mỏi lưng yếu sức, bụng dưới lạnh đau, tiểu trong dài, tiểu đêm nhiều, đại tiện lỏng, rêu trắng mỏng, bắt thấy mạch trầm mà sác… là triệu chứng của thận dương bất túc, tức chẩn đoán thuộc thể thận dương hư cần ôn bổ thận dương .

Huyết trắng ra nhiều thể thận âm hư

Nếu huyết trắng ra nhiều, thường có màu trắng đục, chất dính, không mùi hôi, vùng kín có cảm giác nóng rát, thường kèm nóng rang đầu mặt, dễ ra mồ hôi, chất lưỡi hơi đỏ, rêu ít, bắt mạch tế sác… là triệu chứng âm hư hỏa vượng, tức chẩn đoán thuộc thể thận âm hư cần  tư bổ thận âm để giáng hư hỏa

Nếu huyết trắng có những hiện tượng khác thường dưới đây không nên tẩm bổ vội vàng:

- Huyết trắng ra nhiều, màu vàng xám hoặc xanh xám có bọt, lợn cợn, mùi hôi tanh, phần nhiều là viêm âm đạo do trùng roi.

- Huyết trắng màu trắng sữa như bã hậu hũ, phần nhiều là viêm âm đạo do nấm.

- Huyết trắng như nước vàng, người nghiêm trọng có huyết trắng như máu mủ, gặp ở phụ nữ sau khi hết kinh, phần nhiều là viêm âm đạo của người cao tuổi.

- Huyết trắng như mủ, ra nhiều, có thể gặp ở viêm âm đạo mủ, lở loét cổ tử cung, viêm khung chậu.

- Huyết trắng như nước, đôi lúc có sợi máu, phần nhiều là ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng.

Liệt kê cách chẩn đoán phân biệt nêu trên, khi chữa bệnh ta không quên tẩm bổ, nhưng tẩm bổ không được chữa trị sai.

Cửu châm trong nội kinh

 Cửu châm trong nội kinh không dùng để chỉ cụ thể chín loại kim châm, phương pháp châm hoặc tác động cụ thể.

“Hoàng đế nội kinh - Linh khu - Ngoại sủy” đại ý Hoàng đế cảm thán “Thiên cửu châm”, cửu châm nếu nhỏ không gì nhỏ hơn, nếu lớn không gì lớn hơn, nếu sâu không gì sâu hơn, nếu rộng thì bao la, nếu cao cao vô tận, là biểu hiện trạng thái vô cùng, vô tận; phù hợp với sự biến hóa của thiên đạo, của nhân sự, của tứ thời.

Hoàng đế nội kinh - linh khu - cửu châm thập nhị nguyên và cửu châm luận miêu tả tỉ mỉ về cách phân loại, tên gọi, hình dáng, độ dài, phạm vi ứng dụng. Quyển “Linh khu - quan châm”có ghi “cửu châm chi nghi, các hữu sở vi, trường đoản đại tiểu, các hữu sở thi dã”. Trong đó, viên châm và sàm châm dùng án áp lên cơ thể, phi châm dùng để bài nùng còn lại dùng châm thích hoặc thích huyết.

Cửu châm được hình thành do ở sự biến hóa của Âm Dương trong Trời Đất mà thành đại số, con số đó bắt đầu ở nhất mà chấm dứt ở cửu. Cho nên nói rằng: Nhất là nhằm phỏng theo Thiên, Nhị nhằm phỏng theo Địa, tam phỏng theo Nhân, tứ phỏng theo Thời, ngũ phỏng theo Âm (thanh), lục phỏng theo Luật, thất phỏng theo Tinh, bát phỏng theo Phong, cửu phỏng theo Dã.

Cửu châm

1. Loại kim thứ nhất tượng trưng cho thiên, thiên thuộc dương, trong ngũ tạng thiên tương ứng với phế vì phế nằm ở thượng tiêu, được xem là nắp đậy của lục phủ ngũ tạng. Bì phu là phần ngoài cùng của cơ thể, là chỗ hợp của phế.Cho nên, trị liệu vùng bì phu bị bệnh nên chế tạo ra loại kim này, gọi là sàm châm. Kim này tác động mà không tổn thương quá phần bì phu của con người, nếu quá sâu sẽ làm dương khí tiết ra ngoài.

2. Loại kim thứ hai tượng trưng cho địa, trong người địa cùng thổ tương ứng với nhục. Cho nên, trị liệu vùng cơ nhục bị bệnh nên chế tạo ra loại kim này, gọi là viên châm. Kim này tác động phần nhưng không gây tổn thương lên cơ nhục, nếu tổn thương cơ nhục sẽ làm dương khí kiệt.

3. Loại kim thứ ba tượng trưng cho nhân, người muốn duy trì sự sống thì huyết mạch phải vận hành không nghỉ. Muốn trị liệu bệnh của huyết mạch nên tạo ra loại kim này, gọi là đề châm. Loại này tác động nhẹ nhàng lên mạch lạc nhưng không quá sâu vào cơ nhục, giúp tập trung chính khí lại và bài xuất tà khí.

4. Loại kim thứ tư tượng trưng cho thời, tứ thời bát phong làm khách trong kinh lạc hình thành cổ chứng, bệnh lâu không thuyên giảm, thời điểm hiện tại nhiệt chứng hoành hành. Vì trị liệu loại bệnh này mà chế tạo ra phong châm, mục đích tả nhiệt xuất huyết, từ đó trừ được cố tật.

5. Loại kim thứ năm tượng trưng âm (thanh). Số năm nằm vị trí trung ương trong cửu cung, là ranh giới giữa âm và dương, giữa hàn và nhiệt, được xem là cực động tranh đấu của âm dương, hàn nhiệt; tà khí chính khí tương hỗ đối lập quá lâu mà hình thành ung thũng. Nhằm trị liệu bệnh này nên chế tạo ra phi châm. Dùng bài tiết nùng (mủ) mà phá vỡ sự giằng co bất lợi.

6. Loại kim thứ sáu tượng trưng cho luật. Âm luật là chỉ sự điều hòa âm dương tứ thời, nhờ có luật mới có trật tự bình thường của cơ thể. Nếu như hư tà xâm nhập kinh lạc phá vỡ trật tự bình thường hình thành tý chứng giai đoạn cấp tính. Để điều trị tý chứng cấp tính do hư tà đột nhiên xâm nhập mà chế tạo loại kim này, gọi là viên lợi châm.

7. Loại kim thứ bảy tượng trưng cho tinh. Thất tinh đại diện cho thất khiếu trong con người. Ngoại tà thông qua thất khiếu xâm nhập kinh lạc mà lưu lại, hình thành thống tí. Dùng để trị liệu bệnh này mà chế tác hào châm. Hào châm được giữ trong thời gian ngắn, điều khiển chính khí sung mãn hay đắc khí, tác động đồng thời lên kinh khí và tà khí mà tạo thành tác dụng.Khi rút kim ra tà khí sẽ tán và chính khí được phù dưỡng.

8. Loại kim thứ tám tượng trưng cho phong. Trong tự nhiên phong thuận theo tám hướng, tương đương con người có 8 quan tiết ở tay chân. Hư tà do phong làm thương tổn bát tiết; xâm nhập và lưu trệ giữa khớp xương, cột sống thắt lưng mà hình thành tý chứng vùng này. Để trị liệu cho loại bệnh này mà chế tạo trường châm.

9. Loại kim thứ chín tượng trưng cho dã. Cửu dã tương ứng quan tiết bì phu trong người. Bệnh tà mạnh mẽ, ồ ạt xâm nhập vào làm quan tiết tắc trệ, như chứng phong thủy mà đọng lại làm khí không qua được các quan tiết lớn.

Mặc khác, cửu châm còn được xem là châm đạo được nhắc đến “Hồi dương cửu châm ca” trong “Châm cứu tụ anh - quyển thứ tư” thực tế là chín huyệt du, đại biểu “cửu châm” liệu pháp và danh từ “cửu châm” biểu thị sự trân trọng, quý giá. Bên cạnh đó, “Cứu pháp bí truyện - phàm lệ” thời đại nhà Thanh cảm thán: người xưa dùng cửu châm, đã thất truyền, người hiện tại dụng châm không chỉ không am tường châm pháp đến cứu pháp cũng vậy. Cho thấy, cửu châm không phải là một lượng từ cụ thể về phương pháp hay dụng cụ châm thích, mà cửu châm được hiểu khái quát là châm đạo.

Hiện nay, thuật ngữ “cửu châm” hình thức sử dụng không nhiều, do sự phát triển vật liệu mới và công nghệ chế tạothiết bị y tế, cũng như sự tiến bộ của phương pháp điều trị, một số loại kim châm trong cửu châm không còn được sử dụng, bên cạnh một số loại được phát triển do tính ưu việt, đa dụng và được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, mô tả cửu châm trong y cổ văn vẫn là nguồn cảm hứng áp dụng triết lý phương đông vào điều trị y học cổ truyền  trong thời đại ngày nay và có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu liệu pháp và lý luận của châm cứu.

 

Mô tả chín loại châm trong hoàng đế nội kinh:

1. Sàm châm: hậu thế gọi là tiễn đầu châm. “Nhất viết sàm châm, trường nhất thốn lục phân,... đầu đại mạt duệ, khứ tả dương khí”. Kích thước 1 thốn 6 phân. Chủ yếu dùng châm nông ở bì phu cho xuất huyết, điều trị đầu và thân bị nhiệt chứng. Hiện tại, sàm châm được ứng dụng và phát triển thành mai hoa châm.

2. Viên châm: hậu thế gọi là viên đầu châm. “nhị viết viên châm, trường nhất thốn lục phân… châm như noãn hình, khai ma phân gian, bất đắc thương cơ nhục, dĩ tả phân khí” loại châm được miêu tả với đầu kim bầu dục, kích thước 1 thốn 6 phân, dùng để tác động, xoa bóp phần ngoài cơ thể, điều trị đau gân cơ.

3. Đề châm: người đời sau gọi là tác thôi châm. Thân kim to, mũi kim cùn hơi nhọn, như hạt kê, dài 3 thốn 5 phân, dùng xoa bóp kinh mạch, điểm huyệt, không xuyên qua da mà có tác dụng dẫn khí huyết, phù chính khư tà, điều trị các thể chứng hư, chứng đau.

4. Phong châm: còn gọi là tam lăng châm. Được miêu tả có thân hình trụ, đầu kim nhọn có ba mặt, kích thước 1 thốn 6 phân. Dùng châm nông cho ra máu, điều trị nhiệt chứng, ung thũng, tí chứng lâu năm.

5. Phi châm: xưng là phi đao châm hay kiếm châm. Hình dáng như thanh kiếm có hai lưỡi, dài 4 thốn, rộng 2,5 phân. Dùng cắt mở ápxe và máu, chủ trị loét, ápxe.

6. Viên lợi châm: một loại châm thân kim mỏng, mũi kim to, kích thước 1 thốn 6 phân. Điều trị ung thũng tí chứng.

7. Hào châm: mũi kim mỏng và nhọn, giới hạn chiều dài loại kim này là 4 thốn, còn gọi là mãn châm. Dùng trị tà ở kinh lạc gây đau nhức các loại. Hiện tại, trên lâm sàng hào châm được ứng dụng rộng rãi.

8. Trường châm: thân kim dài, mũi nhọn sắc, thân mỏng, dài 7 thốn. Dùng trị tà khí ẩn sâu, chứng tí lâu ngày không giảm.

9. Đại châm: hậu thế dùng kim này hơ nóng trên ngọn lửa đến đỏ, sau đó thích lên huyệt, còn gọi là hỏa châm. Dùng điều trị khi các khớp bị sưng phù.

 

Ngày nay, thuật ngữ “cửu châm” còn dùng để chỉ 9 loại kim châm mới được cải tiến từ cửu châm thời cổ đại. Cửu châm mới bao gồm: sàm châm, từ viên châm, đề châm, phong câu châm, phi châm, mai hoa châm, hỏa châm, hào châm, tam lăng châm.

Sự miêu tả tỉ mỉ từ hình dạng, kích thước, cơ chế cũng như phương pháp sử dụng của cửu châm, cho thấy điều trị bệnh theo y học cổ truyền không chỉ đòi hỏi sự chuẩn xác trong chẩn bệnh mà còn cần sự phù hợp trong phương pháp điều trị. Cửu châm không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y tế mà còn là sự thăng hoa trong triết lý phương đông cổ đại cần được quan tâm, tìm hiểu và chiêm nghiệm.

Viêm gan theo Đông y

 Đông y không phân thành bệnh viêm gan mà gọi chung là hoàng đản (chứng vàng da). Theo Y văn, hoàng đản nguyên nhân chủ yếu do thấp nhiệt uất kết trong tỳ vị, ảnh hưởng đến can, sinh ra mắt vàng, mặt vàng rồi đến toàn thân đều vàng, nước tiểu vàng sẫm. Nếu độc khí của thấp nhiệt lưu lại không tiêu được sẽ làm cho càng ngày càng ăn kém, gan càng ngày càng to.

Điều trị  viêm gan theo chứng bệnh

Về phân loại, Đông y phân ra hai chứng hoàng đản: Dương hoàng và Âm hoàng.

Chứng hoàng đản do dương hoàng 

Dương hoàng biểu hiện mặt, mắt vàng tươi sáng như màu quả quýt, da vàng nhuận, bệnh nhân cảm giác lợm giọng, nôn ọe, vùng thượng vị đau tức, nước tiểu đỏ và sẻn, có sốt, thân thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn kém, rêu lưỡi vàng nhờn, hoặc trắng mỏng, chất lưỡi đỏ.

 Phép chữa chứng hoàng đản do dương hoàng 

 Thanh nhiệt, lợi thấp.

Chứng hoàng đản do âm hoàng 

Âm hoàng có triệu chứng mặt, mắt và da vàng hãm tối, bụng đầy, rối loạn tiêu hóa, vùng thượng vị, trung vị, hạ vị đều đau tức, không sốt, thân thể mệt mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc hơi vàng trơn, chất lưỡi nhợt nhạt.

Phép chữa chứng hoàng đản do dương hoàng

Ôn hóa hàn thấp.

Điều trị viêm gan theo thể bệnh

Viêm gan mạn tính thường xảy ra sau khi mắc các bệnh viêm gan cấp (viêm gan siêu vi, viêm gan nhiễm độc); sau khi mắc bệnh sốt rét hoặc suy dinh dưỡng kéo dài. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là sự giảm sút chức năng gan, thoái hóa tế bào gan và các rối loạn về tiêu hóa, cơn đau vùng gan, vàng da, tiêu chảy hay táo bón, chậm tiêu, chán ăn

Nguyên nhân theo y học cổ truyền là do công năng của tỳ vị, can bị rối loạn, ảnh hưởng tới âm huyết hoặc tân dịch, từ đó ảnh hưởng tới sự hoạt động của cơ thể. Điều trị theo từng thể bệnh:

Viêm gan thể can nhiệt tỳ thấp: 

viêm gan có vàng da kéo dài. Người bệnh thường thấy đắng miệng không muốn ăn, bụng đầy trướng, ngực sườn đầy tức, miệng khô nhợt, đau nóng ở vùng gan, da sạm tối. Tiểu tiện ít, vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền. 

Phép chữa viêm gan thể can nhiệt tỳ thấp:

thanh nhiệt lợi thấp, thoái hoàng, kiện tỳ trừ thấp.

Viên gan thể can uất tỳ hư, khí trệ: 

hay gặp ở viêm gan mạn do viêm gan siêu vi. Người bệnh có biểu hiện mạn sườn phải đau, ngực sườn đau tức, miệng đắng, ăn kém, người mệt mỏi, đại tiện phân nát, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền. 

Phép chữa viên gan thể can uất tỳ hư, khí trệ:

sơ can kiện tỳ lý khí.

Viêm gan thể can âm bị thương tổn:

 người bệnh có biểu hiện đầu choáng, hồi hộp, ngủ ít, hay mê, lòng bàn tay bàn chân nóng, chất lưỡi đỏ, táo bón, nước tiểu vàng, mạch huyền sác.

Phép chữa viêm gan thể can âm bị thương tổn:

 tư âm dưỡng can. 

Viêm gan thể khí trệ huyết ứ: 

hay gặp ở thể viêm gan mạn có kèm theo hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch chủ. Người bệnh có biểu hiện sắc mặt tối sạm, môi thâm, lưỡi tím, lách to, người gầy, ăn kém, tuần hoàn bàng hệ ở bụng, đại tiện phân nát, nước tiểu vàng ít, chất lưỡi đỏ hoặc có điểm ứ huyết, rêu lưỡi vàng dính, mạch huyền sác.

Phép chữa viêm gan thể khí trệ huyết ứ: 

sơ can lý khí hoạt huyết.

Trị suy dinh dưỡng trẻ em trong đông y

 Đông y gọi suy dinh dưỡng ở trẻ em là chứng cam tích, mà nguyên nhân thường gặp là do khẩu phần ăn không hợp lý,

Đông y gọi suy dinh dưỡng ở trẻ em là chứng cam tích, mà nguyên nhân thường gặp là do khẩu phần ăn không hợp lý, như: ăn thiếu đạm kéo dài, ăn nhiều chất béo ngọt khiến không tiêu hóa được, tích lại làm tổn thương tỳ vị, cũng có khi do nhiễm nhiều giun...

Nhìn chung các biểu hiện ban đầu đối với trẻ mắc chứng cam tích thường thấy xuất hiện như: cơ thể hơi gầy, kém ăn hoặc ăn nhiều, đi cầu nhiều, phân khi lỏng khi đặc, đầy bụng, có thể sốt nhẹ, miệng khát, lòng bàn chân, bàn tay nóng, người bứt rứt, hay khóc, ngủ không yên, rêu lưỡi hơi vàng, mạch tế hoạt.

Suy dinh dưỡng thể tỳ hư (còn gọi là tỳ cam):

Tương ứng với suy dinh dưỡng độ 2. Biểu hiện như mặt vàng, người gầy, miệng khô, khát nước, sôi bụng, tiêu chảy. Có trường hợp do tân dịch giảm gây táo bón, bụng to, gân xanh nổi lên, nước tiểu đục trắng, rêu lưỡi trắng.

Phương pháp chữa suy dinh dưỡng thể tỳ hư

Bổ khí, bổ tỳ vị.

Suy dinh dưỡng thể can cam 

 (tức bệnh do khí huyết hư can thận hư mà gọi là can cam, tương ứng với suy dinh dưỡng độ 3):

Biểu hiện như người gầy, da khô, bộ mặt già, tinh thần mệt mỏi, kém ăn, tiếng khóc nhỏ, rêu lưỡi mỏng khô, lông, tóc khô. Ngoài ra còn có các triệu chứng khác như: khô loét giác mạc, loét miệng, tử ban (lắng đọng sắc tố), phù thũng…

Phương pháp chữa suy dinh dưỡng thể can cam 

Bổ khí huyết, bổ can, thận tỳ vị.

Liệu pháp cạo gió bài bản và khoa học

 Cạo gió là một phương pháp điều trị đơn giản, lưu truyền lâu đời, ít tác dụng phụ, hiệu quả thấy rõ, có ưu thế độc đáo.

Liệu pháp cạo gió dùng bờ trơn láng của các công cụ như tấm cạo gió, đồ sứ, muỗng nhỏ, đồng xu…, xát mạnh vào một vùng nào đó trên cơ thể người bệnh, lặp lại nhiều lần từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, để kích thích tuần hoàn máu dưới da nhằm chữa một số chứng bệnh thường gặp.

Để giảm sức cản khi cạo, tránh tổn thương làn da, tăng hiệu quả điều trị, trước khi thao tác cần thoa lên bộ phận cần cạo một lớp chất xúc tác như: dầu vừng, dầu gió, rượu trắng, nước…

Tư thế người bệnh khi cạo gió

Nằm ngửa. Người bệnh mặt hướng lên trên, nằm duỗi thẳng trên giường, để lộ phần bụng và cạnh trong của chi trên. Thích hợp dùng cho lấy huyệt và cạo các huyệt hay các vị trí ở mặt, đầu, bụng, cạnh trong, cạnh trước của chi trên, cạnh trước và cạnh ngoài của chi dưới.

Nằm úp. Người bệnh nằm sấp, duỗi thẳng chân trên giường. Tư thế này thích hợp dùng cho lấy huyệt và cạo vị trí hay huyệt vị ở phần lưng, mông, sau chi dưới gần bàn chân.

Nằm nghiêng. Người bệnh mặt hướng sang một bên, hai đầu gối hơi co, cơ thể ở tư thế nằm nghiêng. Thích hợp lấy huyệt và cạo gió huyệt vị ở một bên mặt, bả vai, cạnh ngoài của tứ chi, khe lườn ở phần ngực và lưng, mặt bên của cơ thể.

Ngồi cúi. Người bệnh ngồi cúi trên ghế, để lộ lưng sau và cổ, thích hợp dùng cho lấy huyệt và cạo vị trí hoặc huyệt vị hai bên xương sống, sau đầu, cổ, bả vai, lưng, mông hoặc tiến hành kiểm tra hai bên xương sống.

Ngồi tựa. Người bệnh ngồi tựa lưng vào ghế, để lộ phần dưới cằm, cổ họng. Thích hợp dùng cho lấy huyệt và cạo gió vị trí hay huyệt vị ở mặt, trước cổ, hai bên xương cổ họng, khe giữa lườn ở ngực.

Các phương pháp cạo gió
Phương pháp cạo trực tiếp.

 Sau khi bôi chất xúc tác lên trên chỗ cần cạo gió, dùng dụng cụ cạo trực tiếp cạo lên da người bệnh, tiến hành lặp lại thao tác cho đến khi da hằn lên vết bệnh thì dừng lại. Người bệnh nên ở tư thế ngồi hoặc ngồi hơi cúi. Người cạo dùng khăn ấm lau vùng da ở chỗ cạo gió của người bệnh, bôi đều chất xúc tác, sau đó cầm dụng cụ cạo, tiến hành cạo, cạo đến lúc vùng da đỏ ửng thì dừng lại.

Phương pháp bổ (bổ cạo). 

Lực ấn nhỏ, tốc độ chậm, có thể kích phát chính khí của cơ thể làm cho chức năng cơ thể hồi phục nhanh. Lâm sàng phần lớn dùng cho người già, cơ thể yếu, bệnh kéo dài, bệnh nặng hoặc cơ thể gầy yếu.

Phương pháp tả (tả cạo). 

Lực ấn lớn, tốc độ nhanh, có thể giảm độc ở phần bệnh, làm cho chức năng cơ thể khôi phục bình thường. Lâm sàng phần lớn dùng cho người bệnh là thanh niên cường tráng, người mới mắc bệnh, bệnh gấp hoặc người có hình thể rắn chắc.

Phương pháp bình bổ, bình tả (bình cạo). 

Còn gọi là phương pháp cạo cân bằng, có 3 loại phương pháp tay: thứ nhất là lực ấn lớn, tốc độ chậm. Thứ hai là lực ấn nhỏ, tốc độ nhanh. Thứ ba là lực ấn vừa phải, tốc độ vừa phải. Khi ứng dụng cụ thể có thể căn cứ vào bệnh tình và thể chất của người bệnh để linh hoạt sử dụng. Trong đó lực ấn vừa, tốc độ vừa dễ được người bệnh tiếp nhận. Phương pháp này cân bằng giữa phương pháp bổ và phương pháp tả, thường dùng cho người khỏe mạnh bình thường.

Cạo gió các vị trí trên cơ thể người
Cào gió vùng đầu:

Cạo hai bên đầu: từ huyệt Thái dương (hai bên đầu) bắt đầu cạo đến huyệt Phong trì, cạo qua các huyệt vị: Đầu duy, Hàm phục, Huyền lư, Huyền li, Luật cốc, Thiên xung, Phù bạch, Não không.

Phần đầu trước: từ huyệt Bách hội bắt đầu cạo đến viền tóc đầu trước, qua các huyệt: Tiền đỉnh, Thông thiên, Tín hội, Thượng tinh, Thần đình, Thừa quang, Ngũ xứ, Khúc sai, Chính doanh, Đương dương, Đầu lâm khấp.

Phần đầu sau: từ huyệt Bách hội bắt đầu cạo đến viền tóc ở đầu sau, qua các huyệt: Hậu đỉnh, Lạc khước, Cường gian, Não hộ, Ngọc chẩm, Não không, Phong phủ, Á môn, Thiên trụ.

Phần toàn bộ đầu: dùng huyệt Bách hội làm trung tâm theo phương hướng tỏa ra xung quanh cạo toàn bộ đầu. Qua toàn bộ huyệt vị và trung khu cảm giác, trung khu vận động, trung khu nghe, trung khu nhìn, trung khu dạ dày, trung khu khoang não, trung khu sinh sản.

Cạo gió vùng mặt:

Cạo phần trán: trán bắt đầu từ chính giữa phía trước phân tách ra, hai bên lần lượt cạo từ trong ra ngoài. Vùng trán bao gồm da giữa viền tóc trước và lông mày. Qua các huyệt: Ấn đường, Toán trúc, Ngư yêu, Ty trúc không.

Cạo phần hai gò má: từ huyệt Thừa khấp đến Cự liêu, Nghênh hương đến khu vực Nhĩ môn, Nhĩ cung, lần lượt cạo từ trong ra ngoài, qua các huyệt vị: Thừa khấp, Tứ bạch, Quyền liêu, Hạ quan, Cự liêu, Thính cung, Thính hội, Nhĩ môn.

Cạo phần cằm dưới:  lấy Thừa tương làm trung tâm lần lượt cạo từ trong ra ngoài. Qua các huyệt vị Thừa tương, Địa thương, Đại nghênh, Giáp xa.

Cạo gió vùng lưng:

Phương pháp cạo phần lưng bao gồm phương pháp cạo phần đốt sống ngực, đốt sống lưng và đốt sống đuôi.

Đường chính giữa phần lưng (đốt sống ngực, đốt sống lưng, đốt sống đuôi): từ huyệt Đại chùy đến huyệt Trường cường.

Cạo hai bên lưng (bao gồm đốt sống ngực, đốt sống lưng, hai bên đốt sống đuôi): chủ yếu cạo các đường Túc thái dương bàng quang kinh ở phần lưng, tức 1,5 tấc và 3 tấc bên cạnh xương sống.

cao gioHướng cạo gió vùng lưng

Cạo gió vùng ngực:

Cạo phần ngực bao gồm cạo đường chính giữa và hai bên ngực.

Cạo đường chính giữa (quan sát ngực để tiến hành): từ huyệt Thiên đột qua Kinh thiện đến Cưu vỹ, cạo từ trên xuống dưới.

Cạo hai bên ngực: từ đường chính giữa cạo từ trong ra ngoài.

cao gioHướng cạo gió vùng ngực

Cạo gió vùng cổ:

Phương pháp cạo phần cổ bao gồm phương pháp cạo đường chính giữa, và hai cạnh cổ.

Cạo đường chính giữa cổ (tuần tự tiến hành các mạch ở cổ): từ huyệt Á môn đến huyệt Đại chùy.

Cạo từ hai bên cổ đến trên vai: từ huyệt Phong trì đến Kiên tỉnh, Cự cốt. Qua các huyệt Kiên trung du, Thiên liêu, Bỉnh phong.

cao gioHướng cạo gió vùng cổ

Cạo gió vùng bụng:

Phương pháp cạo bụng bao gồm cạo đường chính giữa và cạo hai bên bụng.

Cạo đường chính giữa (quan sát phần bụng để tiến hành): từ huyệt Cưu vỹ đến huyệt Thủy phân, từ huyệt Âm giao đến huyệt Khúc cốt.

Cạo hai bên bụng: từ huyệt U môn, Bất dung, Nhật nguyệt hướng xuống dưới, qua Thiên khu, Hoang du đến Khí xung, Hoành cốt.

Cạo gió phần tứ chi:

Cạo cạnh trong chi trên: từ trên xuống dưới qua Thủ tam âm kinh tức Thủ thái âm phế kinh, Thủ quyết âm tâm bào kinh, Thủ thiếu âm tâm kinh.

Cạo gió cạnh ngoài của chi trên: từ trên xuống dưới qua Thủ tam dương kinh tức Thủ dương minh đại trành kinh, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh, Thủ thái dương tiểu tràng kinh.

Cạo cạnh trong của chi dưới: từ trên xuống dưới qua Túc tam âm kinh tức Túc thái âm tỳ kinh, Túc quyết âm can kinh, Túc thiếu âm thận kinh.

Cạo phần mặt trước, cạnh ngoài, mặt sau của chi dưới: từ trên xuống dưới qua Túc dương minh vị kinh, Túc thiếu dương kinh, Túc thái dương bàng quang kinh.

Những điều cần lưu ý khi cạo gió.

- Khi cạo gió người bệnh cần bộc lộ làn da, nên lưu ý giữ ấm trong phòng, nhất là vào mùa lạnh cần tránh hàn lạnh và ngọn gió. Khi cạo gió vào mùa nóng, cần tránh quạt máy thổi trực tiếp vào làn da bộc lộ.

- Sau khi cạo gió trong vòng 1 giờ không tắm nước lạnh.

- Không nên cạo gió lần thứ hai khi vết bệnh của lần trước chưa biến mất, thời gian cách nhau giữa hai lần cạo 4 - 7 ngày, với vết bệnh biến mất để làm chuẩn.

- Khi cạo gió, không ngừng hỏi thăm người bệnh có đau hay không, theo dõi phản ứng của người bệnh để điều chỉnh sức cạo nặng nhẹ, không gây tổn thương da. Khi cạo vùng lưng nên thuận từ trên xuống dưới, thường không cạo ngược từ dưới lên trên.

- Trong quá trình cạo gió, người bệnh xảy ra hiện tượng chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, vã mồ hôi lạnh, sắc mặt trắng nhạt, tay chân lạnh, tức ngực buồn nôn hoặc hôn mê, tạm ngừng cạo gió kịp thời, nhanh chóng cho người bệnh nằm thẳng, bằng tư thế đầu thấp chân cao. Cho người bệnh dùng 1 ly nước đường ấm, lưu ý giữ ấm. Kịp thời xoa nắn huyệt Bách hội, Nhân trung, Nội quan, Túc tam lý, Dũng tuyền. Nằm nghỉ giây lát người bệnh sẽ hồi phục.

Chống chỉ định trong cạo gió

- Vùng bụng, vùng thắt lưng của phụ nữ mang thai, đầu vú của phái nữ: cấm
cạo gió.
- Bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu, hôn mê gan và các bệnh có khuynh hướng chảy máu: cấm cạo gió.
- Bệnh ngoài da, dị ứng da,
lở loét ngoài da, ung nhọt, hay vết thương chưa lành, chấn thương gãy xương cấm cạo gió.
- Người bệnh tim nặng xuất hiện suy tim, người bệnh thận xuất hiện suy thận, người bệnh xơ gan báng bụng, người phù toàn thân cấm cạo gió.
- Mắt, lỗ tai, lỗ mũi, lưỡi, môi, rốn (huyệt Thần khuyết) cấm cạo gió.
- Người say rượu, quá no, quá đói, quá mệt mỏi cấm cạo gió, tránh xảy ra hiện tượng sốc phản vệ.
- Hộp sọ trẻ nhỏ chưa phát triển hoàn chỉnh, cấm cạo gió vùng đầu.