Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Bệnh niệu huyết theo đông y

 Bệnh niệu huyết (tiểu ra máu) do nhiều nguyên nhân ở đường tiết niệu gây ra như viêm đường tiết niệu, sỏi đường tiết niệu, u bàng quang, u thận, lao thân...

Tiểu ra máu do thể tâm hỏa vọng động:

viêm nhiễm cấp tính đường tiết niệu, viêm cầu thận cấp, viêm bàng quang cấp 

Người bệnh tiểu ra máu, miệng khát, sốt, mặt đỏ, ngủ ít hay mơ; mạch hồng sác.

Phép chữa tiểu ra máu do thể tâm hỏa vọng động:

 thanh tâm hỏa, thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết. 

Tiểu ra máu do thể âm hư hỏa động :

viêm nhiễm mạn tính đường tiết niệu, viêm bàng quang mạn, lao thận 

Người bệnh đi tiểu ít, nước tiểu đỏ, khát nước, họng khô; chất lưỡi đỏ, ít rêu; mạch tế sác.

 Phép chữa Tiểu ra máu do thể âm hư hỏa động 

tư âm thanh nhiệt chỉ huyết.

Tiểu ra máu do thể huyết ứ:

 sỏi đường tiết niệu, sang chấn 

Người bệnh tiểu ra máu và có triệu chứng cơn đau quặn thận do sỏi.

 Phép chữa tiểu ra máu do thể huyết ứ:

 hoạt huyết chỉ huyết.

Tiểu ra máu kéo dài do tỳ hư không thống huyết

Người bệnh đi tiểu nhiều lần có lẫn máu, ăn không ngon, mệt mỏi, sắc mặt vàng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi bẩn; mạch hư nhược. 

Phép trị tiểu ra máu kéo dài do tỳ hư không thống huyết:

 kiện tỳ chỉ huyết. 

Bài trị chứng thấp ôn trong Ðông y

 Thấp ôn là một loại bệnh thấp nhiệt hay gặp vào mùa hạ đầu thu, mùa mưa nhiều, ẩm thấp. Đặc điểm của bệnh phát ra chậm chạp, thể bệnh dây dưa, kéo dài.

Người bệnh sốt nhẹ, sợ lạnh, đau người, nặng đầu, bĩ tức vùng ngực và thượng vị... Nguyên nhân do cảm nhiễm thấp tà xâm nhập cơ thể. Mặt khác, do tỳ hư hiệp với ngoại tà mà gây nên bệnh. Cơ chế sinh bệnh khá phức tạp, mới đầu ở phần vệ, rồi chuyển vào phần khí. Nếu đuổi được tà khí ra khỏi phần khí thì bệnh sẽ sớm bình phục. Nếu không, thấp theo nhiệt chuyển thành nhiệt thì sẽ vào dinh huyết.

Thấp át phần vệ, phần khí

Biểu hiện: Nhức đầu, sợ lạnh, người nặng nề, đau nhức, sốt nhẹ, hơi tăng về buổi chiều, vùng ngực và thượng vị đầy tức, không đói, không khát, da mặt hơi vàng nhợt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch nhu hoãn.

Phương pháp điều trị thấp át phần vệ, phần khí :

Tuyên hóa thấp tà.

Thấp ôn do tà ở phần khí

1. Cơ năng thăng giáng của tam tiêu bị trở trệ

Biều hiện: Thượng vị đầy trướng, đại tiện lỏng hoặc thất thường, người nặng nề đau mỏi, rêu lưỡi trắng trơn hoặc rêu vàng. Mạch nhu hoãn.

Phương pháp điều trị: Tuyên hóa thấp trọc trung tiêu.

2. Uế trọc làm chướng ngại mô nguyên

Biểu hiện: sợ lạnh, sốt ít, đau mình, có mồ hôi, tay chân nặng nề, nôn mửa đầy trướng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch hoãn.

Phương pháp điều trị: Sơ lợi thấu đạt thấp trọc.

3. Thấp nhiệt uất phát:

Biểu hiện: Sốt, đau mình, ra mồ hôi, bĩ tức vùng thượng vị, ậm ọe muốn nôn, ngực bụng mọc bạch bồi, rêu lưỡi vàng tươi nhớt.

Phương pháp điều trị: Thanh tiết thấp nhiệt thấu tà đạt ngoại.

4. Thấp nhiệt sinh đàm che lấp tâm bào

Biểu hiện: Sốt nhẹ, có lúc mê man, nói nhảm, rêu lưỡi vàng, cáu, nhợt. Mạch nhu, hoạt, sác.

Phương pháp điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp trừ đàm khai khiếu.

Bài trị mụn nhọt mùa nóng theo y học cổ truyền

 Mụn nhọt rất hay gặp và mùa hè và gây nhiều phiền toái. Chúng có thể mọc ở khắp mọi nơi trên cơ thể, thậm chí cả những vùng nhạy cảm nhất.

Nếu không được chữa trị kịp thời, những  mụn nhọt này rất có thể dẫn tới những biến chứng nguy hiểm.

Mụn nhọt là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính ở các lỗ chân lông hay tuyến bã nhờn. Nguyên nhân theo y học cổ truyền là do hỏa độc gây ra, nếu kèm theo huyết nhiệt thì bệnh hay tái phát dai dẳng. Người bệnh có biểu hiện tại chỗ nhiễm khuẩn có sưng, nóng, đỏ, đau; kèm theo toàn thân có thể sốt, mạch nhanh, rêu lưỡi trắng dày. Mụn nhọt nếu không chữa kịp thời hoặc chữa không khỏi sẽ thành ổ mủ, dần dần vỡ mủ, rồi liền da thành sẹo. 

Giai đoạn đầu trị mụn nhọt:

 mụn mới phát, sưng đau, nóng đỏ, đại tiện táo, tiểu tiện vàng mạch sác có thể kèm theo biểu chứng như phát sốt, mạch phù sác... 

Phép trị giai đoạn đầu trị mụn nhọt

Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết tiêu viêm.

Giai đoạn hóa mủ: 

mụn từ màu đỏ, rắn sưng nóng đỏ đau dần dần đầu mụn mềm dần. Nếu mụn sắc nhạt, khó làm mủ thì nên dùng thuốc uống hỗ trợ rút ngắn quá trình nung mủ. 

Phép trị giai đoạn hóa mủ :

thác độc bài nùng.

Giai đoạn huyết nhiệt:

 Mụn nhọt thường tái phát (cơ địa dị ứng dễ nhiễm trùng). 

Phép trị là thanh nhiệt lương huyết giải độc, đề phòng tái phát.

Rối loạn nhịp tim theo đông y

  Theo Đông y: “Tâm tàng thần, là đại chủ của lục phủ ngũ tạng, là nguồn gốc của sinh mạng, tâm là nơi biến hóa của thần”.

Lại nói:  “ Tâm chủ huyết mạch, khi huyết đầy đủ thì cơ thể khỏe mạnh, sức sống dồi dào. Khi tâm huyết kém thì cơ thể gầy yếu, nhịp tim chậm, có khi loạn nhịp, người mệt mỏi và sinh ra nhiều chứng bệnh khác nhau”.

Biểu hiện cơ thể gầy yếu, người mệt mỏi, ăn uống kém, ngủ kém, tiểu đêm nhiều lần, huyết áp thấp thường 100/60 có khi 90/60. Nhịp tim thường 45 lần/phút, khi mệt quá có thể xuống 40 hoặc 35 lần/phút.

Chẩn đoán rối loạn nhịp tim: 

Do tỳ vị hư hấp thụ thức ăn kém, dẫn đến khí huyết suy, huyết dịch không đủ để cung cấp cho tim hoạt động.

Triệu chứng rối loạn nhịp tim theo đông y

Thể trạng gầy yếu, ăn uống kém, người mệt mỏi,  đại tiên khi táo khi lỏng, tiểu tiện nhiều lần trong ngày, nhưng có khi đi tiểu ít cả về số lần và số lượng nước tiểu, đau lưng, lưỡi khô ráp, mạch trầm tế vô lực...

Điều trị rối loạn nhịp tim theo đông y:

 Kiện bổ tỳ vị, bổ thận ích tinh, bồi bổ khí huyết.

Sùi mào gà trong y học cổ truyền

 Trong y học cổ truyền, sùi mào gà thuộc phạm vi các chứng táo vưu, tao hậu, táo hậu... với nguyên nhân chủ yếu là do vệ sinh không tại chỗ không sạch sẽ...

Trong y học cổ truyềnsùi mào gà thuộc phạm vi các chứng táo vưu, tao hậu, táo hậu... với nguyên nhân chủ yếu là do vệ sinh không tại chỗ không sạch sẽ, thấp nhiệt hạ chú bì phu, niêm mạc lâu ngày mà phát thành bệnh. Về mặt trị liệu, nguyên tắc chung là phải thanh nhiệt lợi thấp, giải độc tán kết.

Bài trị chứng mất ngủ theo đông y

 Giấc ngủ rất cần thiết để duy trì mức độ hoạt động bình thường của các chức năng nhận thức, tư duy, sáng tạo và linh hoạt.

Theo nghiên cứu, mỗi ngày trẻ em từ 1-3 tuổi cần 12 - 13 giờ ngủ, từ 4 - 13 tuổi cần 10 -11 giờ ngủ, từ 14 - 20 tuổi cần 8-9 giờ ngủ, 20 tuổi trở lên cần ngủ 7 - 8 giờ. Mất ngủ khiến người mệt mỏi, uể oải và tăng nguy cơ mắc bệnh như tăng huyết áp, sa sút trí tuệ... Ngủ còn giúp cho sự tái tạo tế bào, thanh lọc bộ não, loại trừ những stress tâm lý và cân bằng hệ miễn dịch, cân bằng hormon trong cơ thể...

Người bị chứng mất ngủ thường có biểu hiện: khó vào giấc, mãi không ngủ được, ngủ không sâu dễ thức giấc, khó ngủ lại, có khi thức trắng đêm... Kèm theo người mệt mỏi, hay quên, bực dọc hay cáu gắt, hoa mắt chóng mặt, hồi hộp, ăn kém...

Chứng mất ngủ Đông y quy về chứng “bất miên”, “bất mị”, “thất miên”... Chứng mất ngủ theo y học cổ truyền có hư có thực.

Mất ngủ do hư chứng chủ yếu do chính khí bất túc do khí huyết hư, âm huyết hư, trong đó âm huyết hư hay gặp nhất. Điều trị chủ yếu phù chính kiêm an thần. Mất ngủ do thực chứng phần nhiều do tà nhiệt nhiễu tâm, can đởm uất nhiệt biểu hiện đột ngột khó vào giấc ngủ, nằm ngồi không yên, ngực khó chịu nhiều đờm, buồn nôn, nôn mửa... Điều trị chủ yếu thanh nhiệt tả hỏa và thanh nhiệt hóa đàm.

Đông y thường quy nạp chứng mất ngủ dựa theo công năng tạng phủ, từ đó có những bài thuốc điều trị phù hợp.

Mất ngủ do tâm âm suy và tâm thận âm suy

Người bệnh khó vào giấc ngủ, hồi hộp, ngủ hay mê, chóng quên, mồ hôi trộm, lòng bàn chân bàn tay nóng. Nếu thận âm hư thêm các chứng đầu choáng mắt hoa, triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, hay quên, lưng đùi mềm yếu, nam giới di tinh... Hay gặp chứng tâm thận bát giao: do thận âm suy tổn tân dịch hư hao (thận chủ thủy) không giúp được tâm (tâm chủ hỏa) ở trên nên tâm hỏa một mình mạnh ở trên không giao với thận ở dưới; thủy hỏa không giúp đỡ nhau. Phép điều trị chủ yếu tư tâm âm, tư thận thuỷ và giao thông tâm thận.

Mất ngủ do tâm tỳ đều hư

Người bệnh không ngủ được, người mệt nhọc, chân tay rã rời, hồi hộp, đoản hơi, hay quên, ăn kém, đầu choáng mắt hoa, sắc mặt ủ rũ, đại tiện nhão... Phép điều trị là kiện tỳ ích khí, dưỡng huyết an thần. 

Mất ngủ do can đởm uất nhiệt và đàm nhiệt nhiễu tâm

Người bệnh ngủ không yên giấc, dễ thức giấc, phiền táo, dễ cáu giận, ngực sườn đầy tức, miệng đắng, có khi đờm nhiều, hay buồn nôn, tiểu tiện sẻn đỏ... Phép điều trị là thanh nhiệt tả hỏa an thần hay thanh tâm an thần.

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Chứng phế âm hư và phép trị

 Phế âm hư thuộc chứng âm hư trong hư lao.

 Đây là hội chứng hay gặp ở những người sức khỏe suy yếu do bẩm sinh (tiên thiên bất túc), do dinh dưỡng kém, do mắc các bệnh mạn tính hoặc ở thời kỳ phục hồi sau khi mắc bệnh cấp tính nặng.

Từ đó cơ thể suy nhược, giảm sút về tinh khí huyết và tân dịch, làm mất điều hòa của công năng tạng phủ.

Phế âm hư gặp ở người suy nhược do lao phổi, hen phế quản, viêm phế quản mạn, thời kỳ hồi phục của bệnh viêm phổi, viêm màng phổi do lao, viêm thanh quản mạn...

Phế âm hư làm tân dịch bị suy giảm gây ho không có đờm, đờm ít vàng và dính, ngứa họng, tiếng nói khàn, mạch tế sác, chất lưỡi đỏ, ít rêu. Nếu âm hư nhiều, hư hỏa bốc lên gây sốt về chiều, hai gò má đỏ, khát nước, trong đờm có máu, chất lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác. Phương pháp chữa là tư dưỡng phế âm, tư âm giáng hỏa.