Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Châm cứu trong y học cổ truyền phương Đông (Kỳ I)

 Châm cứu là một trong những liệu pháp điều trị bệnh trong y học cổ truyền phương Đông. Tôn chỉ chữa bệnh của Đông y là tìm cách cân bằng năng lượng trong cơ thể con người.

Châm có nghĩa là dùng vật nhọn (như kim, que nhọn…) đâm vào hoặc kích thích vào huyệt. Còn cứu có nghĩa là dùng nhiệt (hơi nóng) tác động lên huyệt.

Châm và cứu là hai phương pháp chữa bệnh có rất sớm ở phương Đông. Người ta dùng kim thuộc chế thành các loại kim khác nhau, châm ở những bộ phận đặc biệt trên cơ thể con người (huyệt vị); sau khi châm vào da thịt, căn cứ vào bệnh tình và thể chất người bệnh khác nhau mà dùng thủ pháp phù hợp nhằm đạt đến mục đích thông kinh hoạt lạc, khử tà phù chính (khử bệnh tật, nâng cao sức đề kháng của cơ thể) mà chữa bệnh, phương pháp này gọi chung là châm.

Còn cứu dùng lá ngải khô để chế thành ngải nhung, rồi lại dùng ngải nhung chế thành viên to nhỏ như mồi ngải, hoặc cuốn thành điếu ngải, đốt lửa xong trực tiếp hoặc gián tiếp hơ hoặc đặt lên huyệt vị nhất định của cơ thể người bệnh, thông qua sự kích thích ấm nóng này làm cho thông kinh lạc đạt mục đích chữa bệnh và phòng trừ bệnh tật.

Hai phương pháp trên tuy khác nhau nhưng sử dụng huyệt vị giống nhau, có khi cùng châm và cứu, thông thường gọi là phép châm cứu.

Công dụng của châm cứu

Theo lý luận y học cổ truyền, trong cơ thể âm và dương phải cân bằng nhau thì cơ thể mới khỏe mạnh, khi âm dương mất cân bằng thì sinh ra bệnh tật. Bệnh tật phát sinh do nguyên nhân bên ngoài (tà khí), hoặc do nguyên nhân bên trong cơ thể bị suy yếu (chính khí hư). Nếu do nguyên nhân bên ngoài xâm nhập sẽ gây bế tắc sự vận hành của kinh khí, châm cứu vào các huyệt trên đường kinh để loại trừ tác nhân gây bệnh ra ngoài (gọi là khu tà). Nếu do nguyên nhân bên trong, chính khí hư, kinh khí không đủ thì châm cứu có tác dụng làm tăng kinh khí để đạt mục đích điều trị (gọi là bổ chính).

Hiểu đúng về châm cứu

Điều trị bằng châm cứu là nhằm điều hòa lại cân bằng âm dương. Cụ thể: nếu chính khí hư thì phải bổ, tà khí thực thì phải tả, bệnh nhiệt thì châm, bệnh hàn thì cứu. Điều hòa hoạt động bình thường của hệ kinh lạc.

Theo học thuyết thần kinh, đường đi của kinh mạch phần lớn trùng với đường đi của các dây thần kinh. Theo các nghiên cứu về thần kinh, có thể chia huyệt thành 3 loại:

- Loại thứ nhất tương ứng với các điểm vận động của cơ.

- Loại thứ hai, nằm trên vùng tập trung các sợi thần kinh bề mặt bắt chéo nhau trên một mặt phẳng nằm ngang.

- Loại thứ ba, nằm trên các đám rối thần kinh bề mặt.

Cả 3 loại huyệt nhìn chung đều là nơi tập trung rất nhiều các đầu mút thần kinh (thụ cảm thể), châm cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế hay phá vỡ cung phản xạ bệnh lý.

Cơ chế tác dụng của châm cứu

Phản ứng tại chỗ: châm cứu vào huyệt là một kích thích gây một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế cung phản xạ bệnh lý như: làm giảm đau, giảm co thắt cơ: trong cùng một thời gian ở một nơi nào đó của hệ thần kinh trung ương có hai luồng xung động của hai kích thích đưa tới, kích thích nào có luồng xung động mạnh hơn và liên tục hơn sẽ kéo các xung động của kích thích kia về nó và tiến tới dập tắt kích thích kia.

Bệnh lý là một kích thích (như cảm giác đau) được truyền về hệ thần kinh trung ương rồi được truyền trở ra cơ quan có bệnh hình thành một cung phản xạ bệnh lý. Châm cứu là một kích thích gây ra cung phản xạ mới, với cường độ kích thích đầy đủ sẽ ức chế ổ hưng phấn do tổn thương bệnh lý, tiến tới làm mất hoặc phá vỡ cung phản xạ này.

Theo y học cổ truyền, khi châm cứu đúng huyệt sẽ thấy cảm giác đắc khí: tê tức nặng, da vùng châm đỏ hoặc tái, có cảm giác kim bị hút chặt xuống. Theo các nhà thần kinh, hiện tượng đó chỉ xảy ra ở vùng nhiều cơ, do kim kích thích làm co cơ, thay đổi vận mạch và tác động lên thần kinh cảm giác sâu.

Phản ứng tiết đoạn:

Khi nội tạng có tổn thương bệnh lý thì sẽ biểu hiện bằng những thay đổi cảm giác vùng da ở cùng tiết đoạn của nó. Ngược lại dùng châm cứu kích thích vào các huyệt ở vùng da đó sẽ có tác dụng điều chỉnh các rối loạn bệnh lý của tạng phủ tương ứng trong cùng tiết đoạn.

Phản ứng toàn thân:

Khi điều trị một số bệnh, người ta dùng một số huyệt không ở cùng với vị trí đau và cũng không ở cùng tiết đoạn với cơ quan bị bệnh, vậy tác dụng điều trị của nó thông qua phản ứng toàn thân. Cơ chế tác dụng toàn thân được giải thích bằng nguyên lý hiện tượng chiếm ức chế của vỏ não. Ngoài ra khi châm cứu gây những biến đổi về thể dịch và nội tiết, thay đổi các chất trung gian hóa học, như tăng số lượng bạch cầu, tăng tiết opiat nội sinh gây giảm đau, tăng tiết kích thích tố, tăng số lượng kháng thể. Thuyết về phản ứng toàn thân cho phép giải thích tác dụng châm cứu của các huyệt ở xa vị trí bệnh lý và một số huyệt có tác dụng toàn thân, như Hợp cốc, Nhân trung...

Châm cứu điều trị những bệnh lý gì?

Châm cứu có rất nhiều công hiệu giúp giảm đau lưng, đau cổ, đau sau phẫu thuật và nhiều cơn đau khác. Tuy nhiên tác dụng của châm cứu không chỉ dừng ở đó. Điều trị bằng châm cứu  áp dụng cho 3 nhóm bệnh lý: đau, liệt, rối loạn chức năng cơ thể. Cụ thể như sau:

Đau: đau do thần kinh (đau thần kinh tọa), đau sau zona, đau cơ xương khớp: giãn dây chằng, thoái hóa khớp gối, đau do thoái hóa cột sống cổ, lưng.

Liệt: liệt nửa người sau tai biến mạch máu não, liệt dây thần kinh III, IV, V, VI, VII, liệt dây thanh...

Rối loạn chức năng cơ thể: cảm cúm, mất ngủ, viêm xoang, các bệnh về dạ dày, ruột; các bệnh rối loạn kinh nguyệt, đau bụng kinh, di mộng tinh; tiểu dầm, tiểu bí.

Châm cứu ngày nay rất đa dạng về hình thức: điện châm, thủy châm, cấy chỉ (nhu châm)...


Bài trị chứng thống kinh theo đông y

 Đông y cho rằng: “Người phụ nữ khi kỳ kinh đến trước, sau, hoặc đang hành kinh mà đau bụng dưới, khi đau âm ỉ, khi đau nhiều, có khi đau dữ dội không chịu nổi, hai bầu vú căng cứng, gọi là đau bụng khi hành kinh, hay chứng “thống kinh”.

Thống kinh do can uất khí trệ, huyết ra không thông

Trước khi hành kinh hoặc khi đang hành kinh bụng dưới nặng trệ, đau, lượng kinh có thể nhiều, có thể ít, màu kinh tía tối, có hòn cục, hai mạng sườn đau, hai bầu vú căng trướng, mạch huyền.

Điều trị thống kinh do can uất khí trệ, huyết ra không thông: 

lý khí hoạt huyết, giải uất chỉ thống.

Trường hợp bụng đau nhiều, huyết ra có nhiều hòn cục

Điều trị: sơ can lý khí, hành huyết chỉ thống.

Thống kinh do khí trệ huyết ứ lâu ngày 

Triệu chứng thống kinh do khí trệ huyết ứ lâu ngày: 

Khi hành kinh huyết ra nhiều có huyết cục màu đen, bụng đau dữ dội.

 Điều trị thống kinh do khí trệ huyết ứ lâu ngày:

hành khí phá huyết thông kinh chỉ thống.

Thống kinh có kiêm chứng âm hư huyết nhiệt

Điều trị:điều lý can (gan) khí, hoạt huyết hóa ứ, dục âm lương huyết.

Do hàn ngưng tụ sinh chứng đau bụng khi hành kinh

Triệu chứng: bụng dưới lạnh đau dữ dội kinh ra hòn cục màu đen. 
Điều trị: hoạt huyết hóa ứ hành khí giảm đau.

Thống kinh do dương hư âm thịnh khí huyết ngưng tụ 

Triệu chứng thống kinh do dương hư âm thịnh khí huyết ngưng tụ 

Kỳ kinh đến muộn, lượng kinh ra ít, bụng đau dữ dội, tay chân lạnh, sắc mặt không tươi, có trường hợp nôn mửa, tự ra mồ hôi, mạch trầm khẩn.

Điều trị thống kinh do dương hư âm thịnh khí huyết ngưng tụ 

Ôn dương khu hàn hoạt huyết hóa ứ điều kinh chỉ thống.

Thống kinh do trung tiêu hư hàn, làm khí ngưng huyết trệ 

Triệu chứng thống kinh do trung tiêu hư hàn, làm khí ngưng huyết trệ : 

Khi hành kinh bụng đau, trướng đầy, mỏi lưng, ăn kém, nôn mửa, lượng kinh ra ít, mạch huyền tế.

Điều trị thống kinh do trung tiêu hư hàn, làm khí ngưng huyết trệ : 

Ôn trung điều lý hoạt huyết thông khí, giảm đau thông kinh.

Bài trị nhiệt miệng theo đông y

 Nhiệt miệng là những vết loét ở đầu lưỡi hoặc niêm mạc trong khoang miệng, hoặc ngay trên nướu, không xảy ra trên bề mặt môi và không lây lan.

Theo Đông y, nguyên nhân chính là do tâm hỏa cang thịnh và tỳ vị bị tích nhiệt.

Người bệnh có những vết viêm loét ở đầu lưỡi hoặc ở niêm mạc trong khoang miệng kèm theo viêm lợi, ngứa lợi, lợi có màu đỏ, hơi sưng nề, dễ chảy máu, người nóng, mất ngủ, tâm phiền, có những cơn bốc hỏa toát mồ hôi, ăn uống kém,  táo bón kéo dài, căng thẳng thần kinh. 

Nhiệt miệng do tâm hỏa cang thịnh: 

Người bệnh có những nốt loét ở đầu hoặc thân lưỡi, gây đau rát, xót, không ăn uống được vì đau, uống nước nguội thấy dễ chịu. Kèm theo đau đầu, người nóng, hay toát mồ hôi, đại tiện thường táo, tiểu tiện đỏ lượng ít, mất ngủ, nếu là nam giới dễ bị di hoạt tinh, cơ thể suy nhược. 

Phép trị nhiệt miệng do tâm hỏa cang thịnh:

 tả tâm hỏa, bổ thận thủy kèm chống viêm thanh nhiệt.

Nhiệt miệng do tỳ vị bị tích nhiệt: 

Người bệnh có biểu hiện lợi sưng đau, dễ chảy máu, lưỡi đỏ, có những nốt loét trong khoang miệng, đau đớn không ăn uống được kèm theo đại tiện táo kết, bụng đầy trướng, hơi thở nóng, tâm rạo rực, thích uống đồ mát... 

Phép trị nhiệt miệng do tỳ vị bị tích nhiệt: 

thanh nhiệt lương huyết, chống viêm kết hợp dưỡng tâm tỳ.

Bài trị vảy nến theo y học cổ truyền

  Vẩy nến là chứng bệnh rất hay gặp, với biểu hiện vùng da nổi đỏ sần sùi có nhiều vảy trắng hay ngứa gãi, có khi sưng đau phát nóng sốt rất khó chịu.

Theo Y học cổ truyền, vảy nến phần nhiều do huyết nhiệt ứ kết bì phu, bệnh liên quan đến tạng can tạng phế “phế chủ bì phu” và “gan chủ về huyết dịch”.

Người bệnh da khô sần do phế nhiệt táo; ngoài da mụn nhọt, lở ngứa sưng đỏ đau thường do huyết nhiệt. Phép trị nên thanh huyết, mát gan, nhuận phế, trừ phong, thông kinh mạch tăng cường khí huyết nuôi dưỡng tới bì phu.

Vẩy nến hể do phong nhiệt:

 thường vùng da vảy nến sắc hồng đỏ có vảy khô, mùa hè bệnh tăng… 

 Phép trị vẩy nến thể do phong nhiệt:

 lương huyết, thanh nhiệt. 

Vẩy nến thể do huyết hư táo: 

vùng da vảy nến khô hồng nhợt, vết ngứa lõm, bệnh kéo dài, bệnh tăng mùa khô hanh. 

 Phép trị vẩy nến thể do huyết hư táo: 

dưỡng huyết, trừ phong, nhuận táo. 

Vẩy nến thể do nhiệt độc thịnh: 

vùng da vảy nến đỏ thâm, có khi sưng phù, cảm giác nóng rát đau phát sốt.

 Phép trị vẩy nến thể do nhiệt độc thịnh:

lương huyết, thanh nhiệt, tiêu độc. 

Vẩy nến thể do huyết ứ thấp nhiệt: 

vảy nến da dày cộm, có khi mụn mủ ngứa gãi chảy nước… 

 Phép trị vẩy nến thể do huyết ứ thấp nhiệt: 

 hoạt huyết hóa ứ, thanh thấp nhiệt.


Bệnh niệu huyết theo đông y

 Bệnh niệu huyết (tiểu ra máu) do nhiều nguyên nhân ở đường tiết niệu gây ra như viêm đường tiết niệu, sỏi đường tiết niệu, u bàng quang, u thận, lao thân...

Tiểu ra máu do thể tâm hỏa vọng động:

viêm nhiễm cấp tính đường tiết niệu, viêm cầu thận cấp, viêm bàng quang cấp 

Người bệnh tiểu ra máu, miệng khát, sốt, mặt đỏ, ngủ ít hay mơ; mạch hồng sác.

Phép chữa tiểu ra máu do thể tâm hỏa vọng động:

 thanh tâm hỏa, thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết. 

Tiểu ra máu do thể âm hư hỏa động :

viêm nhiễm mạn tính đường tiết niệu, viêm bàng quang mạn, lao thận 

Người bệnh đi tiểu ít, nước tiểu đỏ, khát nước, họng khô; chất lưỡi đỏ, ít rêu; mạch tế sác.

 Phép chữa Tiểu ra máu do thể âm hư hỏa động 

tư âm thanh nhiệt chỉ huyết.

Tiểu ra máu do thể huyết ứ:

 sỏi đường tiết niệu, sang chấn 

Người bệnh tiểu ra máu và có triệu chứng cơn đau quặn thận do sỏi.

 Phép chữa tiểu ra máu do thể huyết ứ:

 hoạt huyết chỉ huyết.

Tiểu ra máu kéo dài do tỳ hư không thống huyết

Người bệnh đi tiểu nhiều lần có lẫn máu, ăn không ngon, mệt mỏi, sắc mặt vàng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi bẩn; mạch hư nhược. 

Phép trị tiểu ra máu kéo dài do tỳ hư không thống huyết:

 kiện tỳ chỉ huyết. 

Bài trị chứng thấp ôn trong Ðông y

 Thấp ôn là một loại bệnh thấp nhiệt hay gặp vào mùa hạ đầu thu, mùa mưa nhiều, ẩm thấp. Đặc điểm của bệnh phát ra chậm chạp, thể bệnh dây dưa, kéo dài.

Người bệnh sốt nhẹ, sợ lạnh, đau người, nặng đầu, bĩ tức vùng ngực và thượng vị... Nguyên nhân do cảm nhiễm thấp tà xâm nhập cơ thể. Mặt khác, do tỳ hư hiệp với ngoại tà mà gây nên bệnh. Cơ chế sinh bệnh khá phức tạp, mới đầu ở phần vệ, rồi chuyển vào phần khí. Nếu đuổi được tà khí ra khỏi phần khí thì bệnh sẽ sớm bình phục. Nếu không, thấp theo nhiệt chuyển thành nhiệt thì sẽ vào dinh huyết.

Thấp át phần vệ, phần khí

Biểu hiện: Nhức đầu, sợ lạnh, người nặng nề, đau nhức, sốt nhẹ, hơi tăng về buổi chiều, vùng ngực và thượng vị đầy tức, không đói, không khát, da mặt hơi vàng nhợt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch nhu hoãn.

Phương pháp điều trị thấp át phần vệ, phần khí :

Tuyên hóa thấp tà.

Thấp ôn do tà ở phần khí

1. Cơ năng thăng giáng của tam tiêu bị trở trệ

Biều hiện: Thượng vị đầy trướng, đại tiện lỏng hoặc thất thường, người nặng nề đau mỏi, rêu lưỡi trắng trơn hoặc rêu vàng. Mạch nhu hoãn.

Phương pháp điều trị: Tuyên hóa thấp trọc trung tiêu.

2. Uế trọc làm chướng ngại mô nguyên

Biểu hiện: sợ lạnh, sốt ít, đau mình, có mồ hôi, tay chân nặng nề, nôn mửa đầy trướng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch hoãn.

Phương pháp điều trị: Sơ lợi thấu đạt thấp trọc.

3. Thấp nhiệt uất phát:

Biểu hiện: Sốt, đau mình, ra mồ hôi, bĩ tức vùng thượng vị, ậm ọe muốn nôn, ngực bụng mọc bạch bồi, rêu lưỡi vàng tươi nhớt.

Phương pháp điều trị: Thanh tiết thấp nhiệt thấu tà đạt ngoại.

4. Thấp nhiệt sinh đàm che lấp tâm bào

Biểu hiện: Sốt nhẹ, có lúc mê man, nói nhảm, rêu lưỡi vàng, cáu, nhợt. Mạch nhu, hoạt, sác.

Phương pháp điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp trừ đàm khai khiếu.

Bài trị mụn nhọt mùa nóng theo y học cổ truyền

 Mụn nhọt rất hay gặp và mùa hè và gây nhiều phiền toái. Chúng có thể mọc ở khắp mọi nơi trên cơ thể, thậm chí cả những vùng nhạy cảm nhất.

Nếu không được chữa trị kịp thời, những  mụn nhọt này rất có thể dẫn tới những biến chứng nguy hiểm.

Mụn nhọt là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính ở các lỗ chân lông hay tuyến bã nhờn. Nguyên nhân theo y học cổ truyền là do hỏa độc gây ra, nếu kèm theo huyết nhiệt thì bệnh hay tái phát dai dẳng. Người bệnh có biểu hiện tại chỗ nhiễm khuẩn có sưng, nóng, đỏ, đau; kèm theo toàn thân có thể sốt, mạch nhanh, rêu lưỡi trắng dày. Mụn nhọt nếu không chữa kịp thời hoặc chữa không khỏi sẽ thành ổ mủ, dần dần vỡ mủ, rồi liền da thành sẹo. 

Giai đoạn đầu trị mụn nhọt:

 mụn mới phát, sưng đau, nóng đỏ, đại tiện táo, tiểu tiện vàng mạch sác có thể kèm theo biểu chứng như phát sốt, mạch phù sác... 

Phép trị giai đoạn đầu trị mụn nhọt

Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết tiêu viêm.

Giai đoạn hóa mủ: 

mụn từ màu đỏ, rắn sưng nóng đỏ đau dần dần đầu mụn mềm dần. Nếu mụn sắc nhạt, khó làm mủ thì nên dùng thuốc uống hỗ trợ rút ngắn quá trình nung mủ. 

Phép trị giai đoạn hóa mủ :

thác độc bài nùng.

Giai đoạn huyết nhiệt:

 Mụn nhọt thường tái phát (cơ địa dị ứng dễ nhiễm trùng). 

Phép trị là thanh nhiệt lương huyết giải độc, đề phòng tái phát.