Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020

Bài vàng da theo y học cổ truyền

 Hoàng đản là một biểu hiện của tình trạng tăng nhiều bilirubin trong máu và là triệu chứng bệnh lý ở hệ thống gan mật biểu hiện chủ yếu là củng mạc (lòng trắng mắt)...

Hoàng đản là một biểu hiện của tình trạng tăng nhiều bilirubin trong máu và là triệu chứng bệnh lý ở hệ thống gan mật biểu hiện chủ yếu là củng mạc (lòng trắng mắt), niêm mạc và da vàng. Ngoài ra còn có triệu chứng nước tiểu sẫm màu, vàng như nghệ. Nguyên nhân do tế bào gan bị tổn thương (viêm gan xơ hóa, ung thư gan), do tắc ống mật (sỏi mật, giun chui ống mật) khi mật bị tắc, không xuống được ống tiêu hóa nên ứ lại trong gan và thấm vào máu làm tăng bilirubin máu, hoặc do tan huyết, khi hồng cầu bị vỡ nhiều đã giải phóng rất nhiều huyết cầu tố, tiền thân của sắc tố mật và gây ra hiện tượng hoàng đản.

Theo y học cổ truyền, hoàng đản là một chứng bệnh do thấp ở tỳ, nhiệt ở vị làm ảnh hưởng tới chức năng sơ tiết của can đởm. Hoàng đản chủ yếu phân làm 2 loại: dương hoàng và âm hoàng.

Vàng da do Dương hoàng 

thường thời gian mắc bệnh ngắn, cơ thể khỏe, sắc da vàng tươi, mắt vàng, sốt nhẹ, miệng khát, chán ăn, tiểu tiện vàng sẻn, sẫm màu, đầy bụng, rêu lưỡi dày, dính, nhớt, mạch huyền hoặc sác.

Nếu dương hoàng thiên về thấp nhiệt thịnh 

(đại tiện táo kết, đau bụng vùng hạ sườn phải từng cơn nổi u cục).

Nếu dương hoàng thiên về cảm nhiễm thời khí ôn dịch 

(đại tiện lỏng, phân trắng, mệt mỏi).

Vàng da do Âm hoàng

 thường thời gian mắc bệnh dài, người yếu, sắc da vàng tối (vàng sạm), mắt vàng, vàng toàn thân, sợ lạnh, sôi bụng, ăn uống kém, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, người gầy yếu, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi nhợt, mạch trầm tế vô lực.

Vàng da do Cấp hoàng 

giai đoạn cuối của bệnh do chính khí quá suy hoặc do hiệp tà xâm nhập khiến cơ thể mệt mỏi, kiệt sức. Da vàng, toàn thân vàng, mắt vàng, bệnh phát nhanh, cấp tính hoặc tái diễn nhiều lần, sốt, nước tiểu vàng, ăn uống kém, mệt mỏi. Nếu bệnh nặng sốt cao, hôn mê, vật vã, nói nhảm; quá nặng chảy máu mũi, miệng, đại tiện ra máu.

Bài nhức đầu theo đông y

  Theo y học cổ truyền, nếu đau đầu đột ngột và kéo dài vài ngày là do ngoại cảm; nếu khi đau khi không và đau âm ỉ là nội thương.

Tuy vậy phải kết hợp với triệu chứng toàn thân thì chẩn đoán mới chính xác.

Nhức đầu vùng thái dương: 

nếu cấp tính là cảm cúm, sốt nhiễm khuẩn; nếu mạn tính gặp trong bệnh tăng huyết áp.

Nhức đầu vùng đỉnh: 

thường thuộc quyết âm can, gặp trong các bệnh: viêm gan, đau vùng gan, thiếu máu, đau mắt, rối loạn tiền đình...

Nhức đầu vùng trán :

 thường thuộc dương minh vị như loét dạ dày, hành tá tràng hoặc ăn uống tiêu hóa kém.

Nhức đầu vùng gáy:

 thường thuộc kinh thái dương (bàng quang), như trong bệnh viêm não, lao màng não, thương hàn, xơ vữa động mạch não...

Nhức nửa đầu bên trái hoặc bên phải :

thường thuộc kinh thiếu dương đởm, hay gặp ở loại suy nhược thần kinh (thể hưng phấn): rối loạn thần kinh thực vật, thần kinh chức năng, đau túi mật, thần kinh tim, rối loạn tiền đình.

Trị thừa cân - béo phì theo đông y

 Theo y học cổ truyền, nguyên nhân thừa cân béo phì do ăn nhiều, ngồi nhiều, ít vận động... bệnh còn do nội thương, ngoại cảm thấp tà ảnh hưởng đến công năng của các tạng: tỳ, thận, can, đởm.

Đặc biệt là công năng thăng thanh giáng trọc của tỳ bị ảnh hưởng biến thành đàm thấp tích tụ lại ở cơ nhục bì phu mà gây béo phì.

Có nhiều nguyên nhân gây béo phì: 

Thận khí không đủ, không thể hóa khí hành thủy, trợ tỳ kiện vận, thông điều thủy đạo mà thấp trọc nội kết tràn ra bì phu gây béo phì.

Tỳ thận dương hư, can đởm thất điều, không bài xuất được đàm trọc, thủy thấp đình trệ cũng làm cho khí cơ không được lưu thông, mạch đạo không lợi, do đó bệnh thường kết hợp với khí trệ hoặc huyết ứ... Vì vậy, béo phì đa phần là do bản hư tiêu thực; bản hư lấy khí hư làm chủ, tiêu thực lấy đàm trọc làm chủ, thường kiêm có thủy thấp, cũng có thể có khí trệ, huyết ứ.

Các thể bệnh béo phì 

béo phì do tiêu đạo pháp: 

Gặp ở những người ăn ít mà vẫn béo phì, mệt mỏi ngại vận động, sau ăn bụng trướng đầy khó tiêu, rêu lưỡi trắng.

béo phì do hóa thấp pháp:

 Do tỳ hư vận hóa không tốt làm cho thấp tụ lại mà gây béo phì. Biểu hiện người mệt mỏi, ăn uống không ngon, tâm ngực đầy tức, rêu lưỡi bẩn, mạch trầm tế.

béo phì do khứ đàm pháp: 

Do đàm trọc gây béo phì. Biểu hiện các chứng khí hư, ngực đầy tức, đầu nặng, thích ngủ, ngại vận động, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch hoạt.

béo phì do lợi thủy pháp:

 Hay gặp ở những người béo bệu. Biểu hiện: mặt phù, chân phù, tiểu tiện ít, bụng trướng, đại tiện nát, mạch trầm tế.

béo phì do thông phủ pháp: 

Thường gặp ở những người béo phì do ăn nhiều đồ béo ngọt, uống rượu nhiều, đại tiện bí kết, đàm trọc tích tụ, phủ khí không thông mà kèm theo có bụng trướng, tức ngực khó chịu, rêu lưỡi vàng dày, mạch thực.

béo phì do sơ lợi pháp:

 Người béo phì kiêm có can uất khí trệ hoặc huyết ứ; lâm sàng biểu hiện đau mạng sườn, cấp táo, huyễn vựng, mệt mỏi, bụng trướng, miệng đắng, phiền muộn, phụ nữ kinh nguyệt không đều, kinh bế hoặc trước kỳ kinh nhũ phòng trướng đau, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.

béo phì do kiện tỳ pháp: 

Thường có biểu hiện của tỳ hư khí nhược, người mệt mỏi không có lực, đoản khí ngại nói, ăn uống kém, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược vô lực.

béo phì do ôn dương:

 Bệnh lâu ngày, tuổi cao. Biểu hiện: sợ lạnh, lưng gối đau mỏi, tứ chi phù nặng, thường hay gặp ở người do thận dương hư.


Tiểu đêm nhiều theo đông y

 Theo Đông y, việc bài niệu là kết quả khí hóa của bàng quang. Bất kể nguyên nhân nào, khi ảnh hưởng đến bàng quang khí hóa thì sẽ xảy ra bài niệu bất thường.

Bàng quang khí hóa là do thận dương điều chỉnh, thận dương suy sẽ ảnh hưởng đến bàng quang khí hóa bình thường. Nói vậy, tại sao ban ngày không tiểu nhiều, mà ban đêm lại tiểu nhiều?

Đặc điểm của người già tiểu đêm nhiều là số lần đi tiểu ban ngày không nhiều, lượng cũng không nhiều, nhưng sau khi ngủ phải dậy nhiều lần để tiểu tiện, hằng đêm ít là 2 - 3 lần, nhiều 4 - 5 lần, 7 - 8 lần… Việc này tuy không đau đớn, nhưng ảnh hưởng giấc ngủ nghiêm trọng.

Y học hiện đại cho rằng có rất nhiều nguyên nhân gây tiểu đêm nhiều, do sinh lý: có thói quen uống nhiều nước, trà đậm, cà phê hoặc thuốc lợi tiểu trước khi ngủ…; do thần kinh: người rối loạn thần kinh hoặc căng thẳng (stress), khi bàng quang hơi căng phồng (ít hơn 300ml) lại có ý muốn tiểu, dẫn đến số lần bài niệu trong đêm gia tăng, thậm chí tạo thành thói quen tiểu đêm; do bệnh lý: rối loạn chức năng tim, thận, viêm thận. Đặc biệt là tăng huyết áp, bệnh đái tháo đường, vì xơ hóa tiểu động mạch thận, chức năng đào thải thận suy thoái, rất dễ xảy ra tiểu đêm nhiều.

Thực tế, nếu do sinh lý chỉ cần thay đổi thói quen uống nước, do thần kinh chỉ cần loại bỏ trạng thái căng thẳng thì giải quyết được vấn đề. Do bệnh lý thì Tây y cho rằng do tiểu động mạch thận xơ hóa, chức năng đào thải suy giảm mà dẫn đến tiểu đêm nhiều, nhưng tại sao ban ngày lại không tiểu nhiều? Xem ra vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính gây tiểu đêm nhiều.

Đông y cho rằng, ban ngày thuộc dương, dương khí thịnh, thận dương tuy suy yếu nhưng có dương khí của tự nhiên “chống đỡ”, chứng hư suy không đến nỗi biểu hiện rõ. Thế nhưng, ban đêm thuộc âm, âm khí thịnh, không những không đạt tác dụng “chống đỡ”, trái lại âm hàn ban đêm quá thịnh mà gây tiêu hao dương khí cơ thể. Thận âm vốn bất túc, lại chịu ảnh hưởng của âm hàn ban đêm rồi gây ra hư suy, dẫn đến thận dương không đạt tác dụng “ôn ấm”, làm cho bàng quang khí hóa không bình thường tạo ra tiểu đêm nhiều.

Điều quan trọng hơn, căn cứ theo lý luận Đông y, việc chữa bằng thuốc, hoặc ăn uống, đều có hiệu quả tốt. Kiến nghị người có triệu chứng nặng hơn trước tiên dùng thuốc, hoặc thuốc và món ăn dùng chung. 

Cách trị chứng tâm vị hỏa thịnh theo đông y

 Chứng tâm vị hỏa thịnh biểu hiện vị quản đau rát, tâm phiền cồn cào, nôn ra huyết, thổ ra huyết, miệng lưỡi, mụn nhọt, hoặc bị lở loét, chảy máu chân răng, có khi chân răng sưng đau, mặt thường đỏ, miệng hôi, khát nước, thích uống nước mát, đại tiện táo bón, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Nguyên nhân thường là do ăn uống nhiều thức ăn cay nóng, hoặc do tà khí uất lâu ngày mà hoá hoả, hoặc do tình chí mà hoả phát ra từ bên trong phối hợp với hoả ở vị mà sinh ra bệnh, chứng tâm vị hoả thịnh thường gặp trong chứng thổ huyết, khẩu sương.

Do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết:

Nguyên nhân bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết:

 Tâm chủ huyết, vị chủ giáng, do tâm vị hỏa nhiệt quá thịnh, lạc mạch bị tổn thương, do hỏa bức bách huyết, làm cho huyết đi càn, vị nghịch lên do hỏa thịnh mà nôn mửa ra huyết.

Biểu hiện bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết

Sách Chư bệnh nguyên hậu luận viết: “Thượng tiêu có tà làm tổn hại đến các tạng, khi tạng bị tổn hại thì huyết chảy vào vị, vị gặp huyết thì đầy tức khí nghịch, vì khí nghịch cho nên thổ ra huyết, huyết thổ ra có màu tươi đỏ hoặc tía xám, kèm theo thức ăn.

Điều trị bệnh do tâm vị hỏa thịnh sinh ra chứng thổ huyết

Thanh tả hỏa ở tâm vị.

Do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương:

Nguyên nhân bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương

Do tình chí bị tổn thương làm cho khí uất mà sinh hỏa. Hoặc do ăn uống nhiều thức ăn cay nóng hoặc do hư tà của bệnh nhiệt nung nấu ở tâm vị mà gây ra bệnh.

Biểu hiện bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương : 

Miệng lưỡi mọc đầy mụn, có màu đỏ, hoặc loét từng đám, chân răng sưng đau làm trở ngại ăn uống.

Điều trị bệnh do tâm vị hỏa thịnh xuất hiện chứng khâu sương : 

Thanh tả hỏa ở tâm vị, lương huyết.

Trị chứng "đèn đỏ phập phù" theo đông y

 Các bài thuốc dân gian sau chữa các chứng khí hư, huyết hư,... do kinh nguyệt thất thường trong ngày "đèn đỏ" của chị em.

Chứng hư hàn gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do hư hàn : 

Kinh nguyệt  đến sau kỳ, lượng kinh ít, màu nhợt, chất loãng, sắc mặt trắng, tinh thần uể oải, tim hồi hộp, hay hụt hơi, ngại nói, eo lưng và chân đau mỏi, bụng dưới sa xuống, chất lưỡng nhợt, rêu lưỡi mỏng ướt, mạch hư nhược vô lực.

Phép trị  kinh nguyệt thất thường do hư hàn: 

Ôn kinh tán hàn. Dùng bài Ngải tiễn hoàn

Chứng khí hư gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí hư :

 Kinh ra trước kỳ, lượng kinh nhiều, màu nhợt, chất loãng, sắc mặt trắng bóng, tinh thần uể oải, tim hồi hộp, đoản hơi, ngại nói, eo lưng và hai chân mỏi, bụng dưới sa xuống, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi mỏng ướt, mạch hư nhược vô lực.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí hư: 

Bổ khí cố kinh.

Chứng huyết hư gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do huyết hư :

 Kinh ra sau kỳ, lượng ít, huyết nhợt, chất loãng, thân thể gầy yếu, sắc mặt úa vàng. Môi, lưỡi, móng tay, móng chân xanh nhợt, da dẻ khô sáp, đầu choáng, mắt hoa, tim hồi hộp, ít ngủ, chất lưỡi nhợt không có rêu. Mạch tế sác hoặc hư tế. Nếu kèm chứng khí hư là khí huyết đều hư.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do huyết hư: 

Bổ huyết điều kinh.

- Nếu khí huyết đều hư thì bổ khí dưỡng huyết

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí huyết đều hư 

Kỳ kinh đến sớm muộn không nhất định, lượng huyết nhiều ít không nhất định (gọi là rối loạn kinh nguyệt), sắc huyết nhợt mà trong, sắc mặt vàng bệch, tay chân phù, chân tay mệt mỏi mà thích nằm, mặt mày xây xẩm, tim hồi hộp, có lúc bụng trướng, miệng nhạt ăn không biết ngon, ăn ít, hay nôn mửa, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhợt rêu trắng, mạch hư trì.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí huyết đều hư: 

Bổ tỳ điều kinh. 

Chứng can thận hao tổn gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng  kinh nguyệt thất thường do can thận hao tổn:

 Kinh ra trước hoặc sau kỳ kinh, lúc nhiều lúc ít, màu nhợt, chất loãng. Sắc mặt xanh nhợt hoặc xẩm tối, đầu choáng, tai ù, eo lưng đau nhức, chân yếu, ăn kém, ngủ kém, bụng dưới sa xuống và đau, hay đi tiểu tiện về đêm, lưỡi nhạt, rêu mỏng có vết rạn nứt, mạch trầm nhược.

Phép trị chứng  kinh nguyệt thất thường do can thận hao tổn:

 Bình can bổ thận. 

Chứng huyết ứ gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do  huyết ứ:

 Kinh ra sau kỳ lượng huyết ít, màu tím đen, đóng cục, sắc mặt tím xám, bụng dưới trướng đau đè vào khó chịu, khi huyết cục đã ra thì bụng bớt đau, ngực, bụng trướng đầy không thư thái, đại tiện táo bón, tiểu tiện ngắn màu vàng, lưỡi đỏ xám, mạch trầm sác.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do  huyết ứ:

 Hành huyết trục ứ.

Chứng khí uất gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do khí uất:

 Kinh ra trước kỳ, sau kỳ không nhất định, lượng ít, sắc đỏ tía có cục, sắc mặt xanh xám, tinh thần uất ức. Trước kỳ kinh hai vú căng lên, lúc đó kinh bụng dưới trướng đầy đau, (có trường hợp bụng đau trước khi có kinh) đau lan lên hai mạn sườn. Ngực đầy tức, dạ dày căng, ợ hơi được thì thấy nhẹ đi, rêu lưỡi trắng, mạch huyền.

- Nếu kèm có nhiệt chứng thì kinh nguyệt thấy trước kỳ, người phiền nhiệt, môi khô miệng ráo, rêu lưỡi vàng, mạch sác.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do khí uất:

 Điều khí giải uất.

Chứng đờm thấp gây kinh nguyệt thất thường

Triệu chứng kinh nguyệt thất thường do đờm thấp : 

Thường thấy kinh sau kỳ, sắc huyết nhợt đặc dính, lượng kinh nhiều ít không chừng, mặt trắng bệch, ngực tức, bụng đầy trướng, hay buồn nôn, ăn uống kém, miệng nhạt có nhớt. Rêu lưỡi trắng có nhớt, mạch huyền hoạt, có khí hư hoặc huyết hư, có trường hợp kinh ra trước kỳ mà lượng quá nhiều.

Phép trị chứng kinh nguyệt thất thường do đờm thấp: 

Kiện tỳ tiêu đờm. 


Bài chữa chứng mất ngủ trong đông y

 Đông y cho rằng: “Ngủ là gốc của phần âm do thần làm chủ. Khi thần yên thì ngủ được, thần không yên thì ngủ kém hoặc ngủ lơ mơ.

Sở dĩ thần không yên là do tà khí bên ngoài xâm nhập tâm hoặc do ăn uống quá mức sinh ra đờm hỏa đọng lại trong tâm quấy nhiễu, hay do dinh khí không đủ để nuôi dưỡng âm huyết. Những nguyên nhân ấy sinh ra chứng mất ngủ”.

Có 5 nguyên nhân chính gây ra chứng mất ngủ:

Chứng mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu: 

Lao động mệt nhọc hoặc suy nghĩ quá nhiều làm tổn thương đến tâm và tỳ, huyết dịch của tâm hao tổn, tâm thần không ổn định nên sinh ra mất ngủ kinh niên.

Triệu chứng mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu

Sắc mặt không tươi, người mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn uống không ngon miệng, hay quên, tim hồi hộp, đêm ngủ lơ mơ hoặc thức trắng đêm không ngủ được, mạch tế hoặc sác.

Điều trị mất ngủ do Tâm và tỳ hư yếu

Bổ dưỡng tâm tỳ.

Chứng mất ngủ do âm suy hỏa vượng: 

bắt nguồn từ thận thủy yếu, chân âm suy không sinh ra được nhiều huyết đưa lên tâm (tim), tâm thiếu huyết hỏa của tâm cang thịnh, tâm phải làm việc nên mất ngủ hoặc trằn trọc không ngủ được. Mặt khác, bản thân tạng thận cũng có thủy hỏa (âm dương) khi âm suy thì dương của thận càng vượng, hỏa bốc lên cũng sinh ra chứng mất ngủ.

Triệu chứng  mất ngủ do âm suy hỏa vượng:

 Đầu nặng, hay choáng váng, tai ù, tâm phiền, tân dịch ít nên hay khô miệng, đối với tuổi trung niên thường hay mộng tinh, di tinh, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Điều trị chứng mất ngủ do âm suy hỏa vượng: 

Tư âm thanh hỏa.

Chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư : 

Một yếu tố làm cho người ta ngủ tốt là khí của tâm và đởm tốt, làm cho con người điềm tĩnh, ban ngày làm việc tốt, ban đêm ngủ đẫy giấc. Khi khí của tâm và đởm hư suy làm cho con người yếu đuối, hay sợ hãi, đêm ngủ không yên “khi tâm và đởm yếu nên gặp việc khó hay sợ hãi, đêm nằm chiêm bao thường thấy những điều sợ hãi, khi tỉnh dậy thấy khó chịu và không ngủ lại được, có khi mất ngủ cả đêm”, cũng có trường hợp gặp sự việc bất thường làm hoảng sợ dẫn đến đởm khiếp, tâm khí tổn hao mà sinh chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư: 

do đởm khiếp, tâm hoang mang nên gặp việc hay sợ hãi, nằm ngủ hay thấy chiêm bao sợ hãi, khi tỉnh dậy vẫn sợ hãi, mạch huyền tế. 

Điều trị chứng mất ngủ do khí của tâm và đởm (túi mật) hư: 

Bổ tâm khí để định chí.

 Chứng mất ngủ do tỳ vị không điều hòa:

 Vị (dạ dày) không điều hòa làm thức ăn và đờm hỏa tích lại trong bụng, gây ra chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do tỳ vị không điều hòa: 

đờm nhiều hay khạc ra đờm, miệng đắng, mắt mờ, buồn bực, trong vùng ngực khó chịu, đại tiện không thư sướng, vùng thượng vị đầy tức do thức ăn lưu lại, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.

Điều trị mất ngủ do tỳ vị không điều hòa:

 Điều hòa tỳ vị, tiêu thực, hóa đờm.

 Chứng mất ngủ do suy nhược cơ thể : 

sau khi ốm đã điều trị bệnh khỏi, hoặc phụ nữ sau khi sinh, hoặc người cao tuổi khí huyết hư yếu, tạng tâm và tỳ hư suy, tâm thần không yên sinh chứng mất ngủ.

Triệu chứng mất ngủ do suy nhược cơ thể: 

Cơ thể gầy còm, sắc mặt trắng bợt, ăn uống kém hay có cơn mệt bất thường, giấc ngủ không sâu, nửa đêm tỉnh dậy rồi không ngủ lại được, lưỡi  nhạt, mạch tế sác.

Điều trị mất ngủ do suy nhược cơ thể: 

bổ khí dưỡng huyết, bổ tâm an thần.