Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Bài trị chứng thận khí hư trong đông y

 Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau...

Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau, xem mạch bộ xích tay phải và tay trái, có mạch phù và sác, đó là bên dưới thực. Đại, tiểu tiện khó, ăn uống lúc khá, lúc kém, lưng và chân nặng nề, đi lại khó khăn, đó là chứng thận khí hư”.

Chứng thận khí hư :

là do nguyên khí trong thận hư suy, xuất hiện các chứng trạng về công năng của thận bị giảm sút. Bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, do mắc chứng hư lao làm tổn thương quá mức hoặc do ốm đau lâu  ngày, do tuổi cao thận khí suy yếu hoặc do tình dục quá độ làm tinh khí hư suy liên lụy đến thận mà sinh ra bệnh. Chứng thận khí hư thường gặp trong các bệnh như: tai điếc, tai ù, hư lao, đau lưng, hai chân lạnh, liệt dương, di tinh, có trường hợp rối loạn cương dương, nam giới dẫn đến vô sinh...

Biểu hiện Chứng thận khí hư

thính lực giảm, tai ù, choáng váng, lưng gối yếu mỏi, ban đêm tiểu tiện nhiều lần, hoạt tinh, tảo tiết, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.

Theo Đông y, thận chứa tinh, tinh hợp với chí, thận khí hư thì hay chuột rút. Chứng thận khí hư thì khí trong thận khí không bền, khi giao hợp xuất tinh sớm, do dương không khống chế được âm nên đêm đi tiểu nhiều lần. Do thận khí hư, thận không đủ tủy để nuôi dưỡng não cho nên bệnh nhân hay choáng váng, ù tai, tai điếc.

Có thể thấy rõ chứng thận khí hư với các chứng trạng ở hạ tiêu khá đột xuất và khá nặng như: Hạ tiêu hư hàn không đủ sức ấm để khống chế thủy dịch cho nên tiểu tiện không tự chủ được. Chứng thận khí hư bệnh chủ yếu ở hạ tiêu. Cơ chế của chứng thận khí hư giới hạn ở nguyên khí của tạng thận hư yếu gây nên.

Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống (đau lưng). 

Lưng là phủ của thận, nếu xoay chuyển khó khăn là thận sắp suy bại. Bệnh phần nhiều do những nhân tố như: ốm lâu ngày, tuổi cao, phòng dục quá độ làm cho thận bị hư tổn mà sinh bệnh.

Triệu chứng Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống

Lưng đau mỏi dai dẳng không dứt, khi mệt nhọc thì bệnh tăng lên, khi nằm thì đỡ đau.

Điều trị Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống: 

Bổ thận, khi thận mạnh thì hết đau lưng.

Chứng thận khí hư xuất hiện các chứng:

tai điếc, tai ù, chóng mặt, choáng váng. Thận chủ về tai, thận khai khiếu ra tai. Thận hư thì tinh không dâng lên cho nên thính lực giảm. Thận hư thì thủy suy mà mộc chao đảo.

Triệu chứng Chứng thận khí hư : 

Bệnh nhân tai ù, tai điếc, hoa mắt, chóng mặt, tinh thần ủy mị, lưng yếu mỏi.

Điều trị Chứng thận khí hư : 

bổ thận, tráng dương sinh tinh khí.

Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Do buông thả tình dục, phòng lao quá độ tổn hại thận khí mà sinh bệnh.

Triệu chứng Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Liệt dương, di tinh, tảo tiết, sinh lý giảm sút, tinh thần mệt mỏi, choáng váng, tay chân lạnh mà yếu.

Điều trị Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh

Bổ thận tráng dương, cố tinh.

Do thận khí hư xuất hiện chứng hư lao.

Do phòng lao quá độ, lao động mệt nhọc,  ốm lâu ngày, do già yếu mà sinh bệnh.

Triệu chứng thận khí hư xuất hiện chứng hư lao: 

Đầu choáng váng, tai ù, thính lực giảm sút, lưng gối mỏi, hay tiểu tiện về ban đêm…

Điều trị thận khí hư xuất hiện chứng hư lao:

 Đại bổ nguyên khí.

Bài ổn định huyết áp theo y học cổ truyền

 Tìm hiểu các tài liệu của Y học cổ truyền (YHCT) nói về bệnh tăng huyết áp của y học hiện đại là điều không đơn giản. Tăng huyết áp của y học hiện đại không có từ đồng nghĩa trong bệnh học YHCT. Các triệu chứng cơ năng thường gặp trong bệnh lý tăng huyết áp gồm: hoa mắt, chóng mặt; YHCT xếp vào chứng huyễn vựng; đau đầu gọi là chứng đầu thống. Đánh trống ngực, hồi hộp gọi là chứng tâm quý, chính xung. Đau ngực gọi là tâm thống, khó thở gọi là tâm trướng.  Hôn mê, liệt nửa người gọi là chứng trúng phong.

Nguyên nhân bệnh tăng huyết áp theo YHCT có thể:

- Do thất tình như giận, lo sợ gây tổn thương 2 tạng can, thận âm.

- Do bệnh lâu ngày, thể chất suy yếu, thận âm, thận dương suy (thận âm suy hư hỏa bốc lên, thận dương suy chân dương nhiễu loạn lên trên).

- Do đàm thấp ủng trệ gây tắc các khiếu. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại tỳ vị hoặc do thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.

Bệnh tăng huyết áp theo YHCT cócác thể lâm sàng:

Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung (thể âm hư dương xung): 

trong bệnh cảnh này ngoài chỉ số huyết áp cao thường hay dao động, người bệnh thường đau đầu với tính chất căng hoặc như mạch đập, ở đỉnh đầu hoặc một bên đầu, thường kèm cơn nóng phừng mắt, hồi hộp đánh trống ngực, người bứt rứt. Mạch đi nhanh và căng (huyền).

Phép trị Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung

bình can, giáng nghịch, bình can tức phong (nếu là cơn tăng huyết áp).

 Bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư: 

ngoài chỉ số huyết áp cao, tình trạng uể oải, mệt mỏi thường xuyên, đau nhức mỏi lưng âm ỉ, hoa mắt chóng mặt, ù tai đầu nặng hoặc đau âm ỉ, cảm giác nóng trong người, bứt rứt, thỉnh thoảng có cơn nóng phừng mặt, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ kém có thể táo bón. Mạch trầm, huyền, sác, vô lực.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư:

tư âm ghìm dương hoặc tư âm, bổ thận.

Bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

triệu chứng nổi bật trong bệnh lý này: người béo, thừa cân, lưỡi dày to, tê nặng chi dưới. Thường hay kèm tăng cholesterol máu, mạch hoạt.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

hóa đàm trừ thấp.


Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

Bài trị viêm xoang theo y học cổ truyền

 Bệnh viêm xoang là một trong những căn bệnh mạn tính phổ biến và rất dễ phát sinh bệnh, đặc biệt là vào mùa thu đông, thời tiết lạnh và khô hanh, môi trường ô nhiễm…

Bệnh viêm xoang là một trong những căn bệnh mạn tính phổ biến và rất dễ phát sinh bệnh, đặc biệt là vào mùa thu đông, thời tiết lạnh và khô hanh, môi trường ô nhiễm… Theo y học cổ truyền, nguyên nhân là do cơ địa dị ứng nhiễm khuẩn (huyết nhiệt), dị ứng do lạnh (phế khí hư, vệ khí hư) gặp phải các tác nhân phong hàn, phong nhiệt, nhiệt độc mà gây bệnh

Viêm xoang được chia làm hai loại: 

viêm xoang dị ứng và viêm xoang nhiễm khuẩn. 

Viêm xoang dị ứng: 

Nguyên nhân thường do phong hàn kết hợp với phế khí hư và vệ khí hư. 

Phép chữa Viêm xoang dị ứng:

bổ khí cố biểu, khu phong tán hàn. 

Viêm xoang do nhiễm khuẩn: 

Nguyên nhân thường do nhiệt độc. Có hai thể cấp và mạn tính:

Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể cấp tính:

 Bệnh mới phát, người bệnh ngạt mũi, chảy nước mũi vàng có mủ, xoang hàm và xoang trán đau, viêm mũi, người sợ lạnh, sốt, nhức đầu. 

Phép chữa Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể cấp tính:

thanh phế nhiệt giải độc.

Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể mạn tính: 

Bệnh kéo dài, xoang hàm và trán ấn đau, thường chảy nước mũi có mủ, mùi hôi, mất khứu giác, thường xuyên nhức đầu. 

Phép chữa Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể mạn tính: 

dưỡng âm nhuận táo, thanh nhiệt giải độc. 

Huyết hư trong đông y

  Huyết trong Đông y và Máu trong Tây y là một dạng vật chất hữu hình - một loại dịch lỏng, màu đỏ, lưu thông khắp cơ thể, là nền tảng cấu trúc và chức năng của cơ thể. Chứng Huyết hư và Thiếu máu có những nét tương đồng cho chúng ta một sự hình dung về sự giao thoa của hai nền y học.

Chứng huyết hư trong Đông y

Theo Đông y, huyết hư là một chứng hậu, nguyên nhân bao gồm tất cả các yếu tố dẫn đến sự thiếu hụt huyết lưu hành trong tạng phủ, kinh mạch, biểu hiện ra bên ngoài là sự thiếu nuôi dưỡng. Huyết là “tinh” của đồ ăn, thức uống, được nạp vào Vị, được Tỳ hóa ra, rồi vận lên Tâm, Tâm dùng chân âm Hỏa mà hóa sắc đỏ cho “tinh” tạo ra huyết. Huyết lại nương vào Phế để lưu thông khắp cơ thể, rồi lại về tàng trữ ở Can. Thận thuộc Thủy, chủ về tất cả “Thủy”- mà huyết là một loại thuỷ, nên Thận Tinh cũng sinh huyết. Đây là con đường tạo ra và vận hành của huyết trong cơ thể.

Huyết là một phạm trù lớn, thuộc tính Âm trong Âm Dương - nên “thường bất túc” mà sinh Hư chứng. Lẽ ấy là do người xưa quan sát trời đất, thấy Mặt trăng có lúc vơi lúc đầy, so với sự rực rỡ của Mặt trời,thuộc Dương - thì thường sinh thực chứng. Huyết có quan hệ mật thiết với Khí - thuộc Dương - Tạo thành một “cặp đôi” không thể tách rời. Huyết chủ tĩnh, dựa vào khí mà hành, cũng là nơi để khí nương tựa mà thực hiện công năng. Huyết chảy trong kinh mạch tựa như sông ngòi chảy trên mặt đất, nước dồi dào đất được tươi tốt; nước cạn dòng chảy yếu sinh mà ứ trệ.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến Huyết hư, trong đó, Hư lao là một trong những nguyên nhân chính. Hư lao là tên gọi chung của “ngũ lao, thất thương, lục cực”. “Ngũ lao” chỉ sự hoạt động quá sức của cơ thể làm tổn thương ngũ tạng, gồm tâm lao, can lao, tỳ lao, phế lao, thận lao.

Nội Kinh viết: nhìn lâu hại huyết (Tâm) vì huyết dựa vào mạch chứa đựng, các mạch lại quy về mắt, nằm lâu hại khí (Phế) do khí thuộc Dương, Dương chủ động, tĩnh làm khí trở trệ, ngồi lâu hại cơ nhục (Tỳ) vì Tùy chủ cơ nhục, chủ vận động, đứng lâu hại cốt (Thận) vì Thận chủ cốt tủy, cốt vững đứng được, đi lâu hại cân (Can) vì Can chủ cân, cân mạnh đi được, đó là thương tổn về ngũ lao.

Trong Nội Kinh, “thất thương” chỉ sự tổn thương tạng phủ do bảy loại tình chí gây ra, Tôn Tư Mạo đời Đường khi bàn về “thất thương” còn thêm các nguyên nhân từ bên ngoài, ông cho rằng: ăn no quá tổn thương tỳ; giận quá khí bốc lên tổn thương can, gắng sức mang nặng quá, ngồi lâu ở chỗ cát ướt tổn thương thận; để thân thể bị lạnh và uống thứ lạnh tổn thương phế; buồn rầu lo nghĩ tổn thương tâm; mưa gió rét nắng tổn thương hình thể; khiếp sợ quá không tiết chế được tổn thương ý chí. “Lục cực” chỉ sự suy yếu đến mức cùng cực, gồm: Khí cực, Mạch cực, Cân cực, Cốt cực, Nhục cực, Tinh cực.

Giữa Nam và Nữ Nữ thường gặp Huyết hư, vì Nữ thuộc Âm - như Huyết, lấy huyết làm gốc. phụ nữ có kinh nguyệt, thai sản, đều phụ thuộc vào huyết mà điều hoà, nhờ huyết đến hai Mạch Xung - Nhâm vượng mà phụ nữ có thể thụ thai, nhờ Huyết đủ mà kinh nguyệt đều đặn.


Bài trị thấp tim theo y học cổ truyền

 Bệnh thấp tim là một bệnh viêm nhiễm toàn thân, biểu hiện ở nhiều cơ quan mà chủ yếu là ở khớp và tim. Bệnh gặp chủ yếu ở tuổi thiếu niên (7 - 15 tuổi), chiếm đến 50% các bệnh về tim mạch; đặc biệt bệnh về van tim là do biến chứng của thấp tim.

Theo y học cổ truyền, bệnh thấp tim thuộc phạm vi các chứng nhiệt tý, chính xung, thủy thũng... Tạng phủ người bệnh vốn nhiệt, lại gặp phải ngoại tà xâm phạm kinh lạc và lưu ở đó không bài tiết ra được. Âm gặp dương phát sinh chứng hầm hập khó chịu, ngoài cơ nhục nóng như đốt, gọi là nhiệt tý. Nếu để lâu không chữa, hỏa càng thịnh, phát sinh chứng thũng, đau nhức như có lửa đốt; nếu những nơi sưng đỏ lặn vào bụng gây nốt dưới da, ban vòng, lại làm cho tâm thần hôn mê (múa giật), thường có nôn ọe, đó là khí độc công tâm (viêm cơ tim). 

Bệnh thấp tim thể viêm khớp cấp:

Người bệnh sốt cao, nhiệt độ lên xuống thất thường, có khi sợ lạnh, các khớp sưng nóng đỏ đau, cử động rất đau, di chuyển từ khớp này đến khớp khác; miệng khát, môi khô, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi trắng dày hay vàng, chất lưỡi đỏ, mạch phù sác. 

Phương pháp chữa thấp tim thể viêm khớp cấp: 

Khu phong thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, lợi niệu trừ thấp. 

Thể viêm khớp cấp có kèm theo tổn thương ở tim

 (viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc) tương đương thể nhiệt tý và tâm tỳ hư.

Người bệnh sốt, các khớp sưng nóng đỏ đau, lưỡi đỏ, khát nước, hồi hộp trống ngực, thở gấp, rêu lưỡi vàng, mạch tế sác vô lực hoặc mạch kết đại (loạn nhịp).

Phương pháp chữa Thể viêm khớp cấp có kèm theo tổn thương ở tim:

 bổ ích tâm tỳ, khu phong thanh nhiệt, hoạt huyết, lợi niệu trừ thấp. 

Bài trị động kinh theo đông y

 Chứng động kinh Đông y gọi chứng bệnh Giản là chứng trạng bệnh lý của thần khí, bệnh xảy ra đột ngột...

Chứng động kinh Đông y gọi chứng bệnh Giản là chứng trạng bệnh lý của thần khí, bệnh xảy ra đột ngột, khi lên cơn choáng ngất, hôn mê bất tỉnh nhân sự mắt trực thị (trợn ngược) sùi bọt mép sau đó tự khỏi mọi hoạt động trở lại bình thường.

Nguyên nhân của chứng Giản có 2 nguyên  nhân chính. 

Do tiên thiên bất túc; do di truyền hoặc do bố mẹ cảm nhiễm bệnh tà trong khi thai nghén; do quá trình sinh đẻ không bình thường ảnh hưởng tới thai nhi...

Do hậu thiên: Các nguyên nhân làm thương tổn đến can, thận làm cho hỏa của can dấy lên, can phong nội động, thủy không chế được hỏa, hỏa phối hợp với đàm làm che lấp các khiếu và kinh lạc mà gây nên.

Triệu chứng Chứng động kinh:

Đột ngột lên cơn choáng ngã lăn bất tỉnh nhân sự, sùi bọt mép tay chân co quắp, thở đều; người trưởng thành có thể tìm chỗ trước khi ngất.

Sau khoảng 5 - 10 phút bệnh nhân lại hồi phục mọi sinh hoạt trở lại bình thường.

Phương pháp điều trị Chứng động kinh: 

Tư bổ can thận an thần, hóa đàm.

Bài tóc bạc sớm gtheo y học cổ truyền

 Tóc bạc sớm thường do rối loạn nội tiết tố, do yếu tố di truyền nào đó, do lão hóa, do ăn uống thiếu một vài vitamin...

Tóc bạc sớm thường do rối loạn nội tiết tố, do yếu tố di truyền nào đó, do lão hóa, do ăn uống thiếu một vài vitamin, khoáng tố nào đó lâu ngày. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân như: stress, rối loạn miễn dịch.

Theo y học cổ truyền, tóc bạc sớm trước tuổi là do tinh huyết không đầy đủ. Bên cạnh đó còn do suy nghĩ nhiều, lao tâm. Tóc chính là phần huyết dư, vì thế khi cơ thể có tạng thận sung mãn, tinh huyết đầy đủ thì tóc sẽ đen bóng lâu bạc. Ngược lại, nếu tinh huyết không đầy đủ thì tóc dễ gãy rụng mau bạc sớm. Căng thẳng tinh thần thuộc về tình trạng tâm trí không được điều hòa, dẫn đến u uất mà phát hỏa và xuất hiện “huyết nhiệt” (máu nóng). Còn suy nghĩ quá nhiều, dễ hại tâm tỳ (hại tâm huyết và tỳ khí) từ đó gây khí huyết thiếu hụt, tóc bị mất đi sự nuôi dưỡng nên bạc sớm. Ngoài ra, nếu sinh hoạt và ăn uống không đầy đủ, mất ngủ... làm tăng tốc độ tóc bạc.