Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Bài điều trị viêm phế quản theo Đông y

 Trong thời tiết mùa đông, nhiệt độ trong ngày chênh lệch lớn, nóng lạnh thay đổi đột ngột khiến mọi người, đặc biệt là trẻ em và người già yếu dễ mắc viêm phế quản. Câu hỏi mà nhiều độc giả quan tâm là điều trị bằng YHCT có mang lại hiệu quả với bệnh viêm phế quản hay không khi mà việc lạm dụng kháng sinh tại nước ta đang gia tăng và nhiều cảnh báo nguy cơ kháng thuốc? Bài viết này sẽ cung cấp một số thông tin giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp của YHCT trong điều trị viêm phế quản.

Bệnh viêm phế quản là tình trạng viêm nhiễm cấp hoặc mạn tính niêm mạc đường thở từ thanh quản trở xuống tới nhu mô phổi. Căn nguyên gây viêm phế quản thường là do virut, vi khuẩn. Đây là bệnh lý nhiễm khuẩn đường hô hấp thường gặp khi thời tiết chuyển mùa.

Viêm phế quản thuộc phạm vi chứng “khái thấu” và “đàm ẩm”. 

Theo YHCT, nguyên nhân gây bệnh bên ngoài chủ yếu do cảm thụ phải tà khí của lục dâm như ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt. Những yếu tố này làm cho phế khí bị ngưng trệ, mất tuyên thông chức năng thăng giáng khí của phế bị rối loạn dẫn đến người bệnh ho, có đờm nhiều. Ngoài ra, vào mùa thu, táo tà thường từ bên ngoài xâm phạm vào phế, làm tổn thương tân dịch của phế, dẫn đến ngứa họng, ho khan. Theo YHCT, các yếu tố gây bệnh bên trong thường do chức năng của 3 tạng phế, tỳ, thận bị suy giảm, hàn thấp làm tổn thương tỳ, thành đàm dẫn đến ho và khạc đờm nhiều hoặc do vị trường tích nhiệt, nhiệt sẽ làm tổn thương phế dẫn đến phế, thận âm hư làm cho khí và tân dịch đều bị tổn thương đưa đến ho và khạc đờm.Viêm phế quản

Viêm phế quản là chứng bệnh hay gặp trong mùa đông.

Viêm phế quản cấp tính: Thường do phong hàn, phong nhiệt và khí táo gây ra.

Viêm phế quản cấp tính do phong hàn:

Triệu chứng Viêm phế quản cấp tính do phong hàn: 

Thường gặp ở giai đoạn đầu của viêm phế quản cấp. Người bệnh ho, đờm trong lỏng, sắc trắng dễ khạc, kèm theo tắc mũi, chảy nước mũi trong. Toàn thân sốt, sợ lạnh, đau đầu, cảm giác đau mỏi người, không ra mồ hôi, khản tiếng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch nhu.

Điều trị Viêm phế quản cấp tính do phong hàn: 

Sơ tán phong hàn, tuyên phế, hóa đàm.

Viêm phế quản cấp tính do phong nhiệt:

Triệu chứng Viêm phế quản cấp tính do phong nhiệt: 

Thường gặp trong viêm phế quản cấp hay đợt cấp của viêm phế quản mạn tính. Người bệnh ho, tiếng ho nặng, khạc đờm đặc hay vàng, miệng khát, họng đau, nước mũi vàng đục. Toàn thân: sốt cao, ra mồ hôi, sợ gió, nhức đầu, toàn thân đau mỏi; rêu lưỡi vàng mỏng, hoặc trắng mỏng, mạch phù sác.

Điều trị Viêm phế quản cấp tính do phong nhiệt: 

Sơ phong thanh nhiệt, tuyên thông phế khí.

Viêm phế quản cấp tính Thể khí táo:

Triệu chứng Viêm phế quản cấp tính Thể khí táo: 

Người bệnh ho khan, ít đờm, họng khô, mũi khô, lưỡi khô. Toàn thân: phát sốt, sợ gió, đau họng, đôi khi ho có lẫn ít đờm, trong có tia máu. Rêu lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ, mạch phù.

Điều trị Viêm phế quản cấp tính Thể khí táo: 

Nhuận táo dưỡng phế. Nếu ôn táo: sơ phong thanh nhiệt. Nếu lương táo: sơ tán phong hàn.

Viêm phế quản mạn tính: 

Đợt cấp của viêm phế quản mạn tính thường được chữa như viêm phế quản cấp. Nếu không trong đợt cấp thì viêm phế quản mạn tính thường phân chia thành 2 thể lâm sàng: thể đàm thấp và thể thủy ẩm.

Viêm phế quản mạn tính Thể đàm thấp:

Triệu chứng Viêm phế quản mạn tính Thể đàm thấp: 

Người bệnh  ho và khạc đờm nhiều, đờm trắng dính, lỏng hoặc thành cục. Ngực bụng có cảm giác đầy tức, ăn kém, tinh thần mỏi mệt. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu hoạt.

Điều trị Viêm phế quản mạn tính Thể đàm thấp: 

Kiện vận tỳ vị, táo thấp hóa đàm.

Viêm phế quản mạn tính Thể thủy ẩm (hàn ẩm): 

Thường hay gặp ở người bệnh viêm phế quản mạn tính kèm theo giãn phế nang ở người cao tuổi, suy giảm chức năng hô hấp, bệnh tâm phế mạn.

Triệu chứng Viêm phế quản mạn tính Thể thủy ẩm (hàn ẩm): 

Thường ho kéo dài hoặc hay tái phát, khó thở khi trời lạnh thì ho tăng lên khạc ra nhiều đờm lỏng trắng. Khi vận động các triệu chứng trên tăng nặng. Khó thở nhiều thì nằm phải gối đầu cao. Toàn thân: sợ lạnh, rêu lưỡi trắng trơn, mạch tế nhược.

Điều trị Viêm phế quản mạn tính Thể thủy ẩm (hàn ẩm) :

 Ôn phế, hóa đàm.

Bài trị nhức đầu do thận khí suy tổn theo y học cổ truyền

 Đau nhức đầu là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh, do tác nhân bên ngoài (ngoại cảm) hay bên trong cơ thể (nội thương).

Đau nhức đầu là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh, do tác nhân bên ngoài (ngoại cảm) hay bên trong cơ  thể (nội thương). Theo YHCT, nếu khi đau khi không và đau âm ỉ là do nội thương; nếu kèm theo triệu chứng: xây xẩm, lưng gối đau mỏi hoặc có di tinh, lưỡi đỏ, mạch tế sác là do thận khí suy tổn.

Đau đầu do thận âm hư:

 Người bệnh có biểu hiện đầu đau trống rỗng, ù tai, hoa mắt chóng mặt, lưng gối yếu mỏi, mất ngủ hay quên, di tinh đới hạ, ngũ tâm phiền nhiệt, ngấy sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, người gầy, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác hoặc huyền tế vô lực.

 Phép chữa Đau đầu do thận âm hư:

 tư bổ thận. 

Đau đầu do thận dương hư: 

Người bệnh có biểu hiện đau đầu sợ lạnh, sắc mặt trắng nhợt, lưng gối vô lực, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, đái ít, phù thũng, chất lưỡi nhạt bệu, ít rêu, mạch trầm tế nhược, nhất là mạch xích bất túc. 

Phép chữa Đau đầu do thận dương hư:

ôn bổ thận dương. 

Bài trị mẩn ngứa theo đông y

 Mẩn ngứa là hiện tượng rất thường gặp và do nhiều nguyên nhân như viêm da, dị ứng, huyết nhiệt, chức năng gan bị rối loạn… Tuy không nguy hiểm nhưng gây nhiều khó chịu cho người bệnh. Đông y có những bài thuốc trị ngứa rất hiệu quả, an toàn lại dễ thực hiện. Xin giới thiệu để bạn đọc có thể tham khảo và áp dụng khi cần.

Ngứa do viêm da:

 Mặt da nổi tịt hoặc sần sùi, chất da xơ cứng, có thể bị phù nhẹ, ngứa nhiều gãi nhiều, tổn thương rải rác ở vùng kín hoặc từng đám trên cẳng tay, trên đùi, mông hoặc ở những nơi có nếp gấp... 

Phép điều trị Ngứa do viêm da:

 chống viêm, chống ngứa, thanh nhiệt.

Ngứa do huyết nhiệt: 

Bên trong thì huyết nhiệt, bên ngoài thì nắng nóng, hai yếu tố hợp lại phát sinh ra ngứa. Huyết nhiệt cho nên việc tiêu độc bị ngưng trệ, thời tiết nóng quá, các mao mạch ngoại vị giãn nở, độc tà thoát ra ngoài gây ngứa.

 Phép điều trị Ngứa do huyết nhiệt

lương huyết giải độc, trừ tà thanh nhiệt. 

Bài trị khản tiếng, mất tiếng mạn tính theo đông y

  Khản tiếng (mất tiếng)

 thuộc phạm vi chứng thất âm, có liên quan đến công năng hoạt động thất thường của 2 tạng...

Khản tiếng (mất tiếng) thuộc phạm vi chứng thất âm, có liên quan đến công năng hoạt động thất thường của 2 tạng: phế và thận. Mất tiếng do phế âm hư và thận âm hư, tân dịch không đầy đủ không khí hóa được gây ra bệnh, gọi là thể hư chứng (mạn tính). 

Mất tiếng thể phế âm hư

Biểu hiện Mất tiếng thể phế âm hư: 

người bệnh gày, họng khô, ho khan nhiều, khản tiếng mất tiếng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch tế sác. 

Phương pháp chữa Mất tiếng thể phế âm hư: 

Tư âm dưỡng phế.

Mất tiếng thể thận âm hư

Biểu hiện Mất tiếng thể thận âm hư:

 họng khô, khản tiếng mất tiếng, bứt rứt, đau lưng mỏi gối, ù tai hoa mắt, chóng mặt, mạch tế sác. 

Phương pháp chữa Mất tiếng thể thận âm hư: 

Bổ thận âm, nạp phế khí, tuyên phế. 

Bài trị viêm đường tiết niệu theo đông y

 Viêm đường tiết niệu 

là hiện tượng nhiễm trùng ở hệ thống bài tiết nước tiểu. Viêm đường niệu thuộc phạm vi chứng lâm trong Đông y.

Các triệu chứng của bệnh thường gặp bao gồm đi tiểu gấp, đi tiểu bị đau, đi tiểu ra máu, đau buốt ở vùng sinh dục... Bệnh không chỉ ảnh hưởng xấu đến tâm lý, đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn gây nhiều biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe, chức năng sinh sản, thậm chí tính mạng của người bệnh.

Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của Viêm đường tiết niệu ,

 chủ yếu do thận hư và bàng quang thấp nhiệt, gặp phải các tác nhân làm suy giảm chính khí quá mức như phòng lao quá độ, tình dục không điều hòa, giận dữ, ăn uống thái quá, thiếu khoa học... làm cho bàng quang không khí hóa được, bên trong vừa hư, vừa bị tích tụ sinh ra nội thấp kiêm nhiệt. 

 Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt: 

Đái nhiều lần, cảm giác đái nóng, đau buốt, nhỏ giọt, nước tiểu vàng, đỏ, đục, bụng dưới đau cứng hoặc đau chướng, sốt hoặc ớn lạnh, miệng đắng, đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch sác.

Pháp điều trị  Viêm đường tiết niệu do Bàng quang thấp nhiệt

Thanh nhiệt tả hỏa, lợi thấp thông lâm.

Viêm đường tiết niệu Can đởm uất nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Can đởm uất nhiệt:

 Đái nhiều lần, cảm giác đau buốt, nước tiểu vàng, đỏ, bụng dưới chướng đau, hàn nhiệt vãng lai, miệng đắng, đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch huyền sác.

Pháp điều trị Viêm đường tiết niệu do Can đởm uất nhiệt:

 Thanh tả can đởm thấp nhiệt.

 Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt

Triệu chứng Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt

Ớn lạnh, sốt, nhiệt độ tăng cao về chiều, thân thể nặng nề, tức ngực, không đói, khô miệng nhưng không muốn uống, bụng đau chướng, tức bụng buồn nôn, nước tiểu đục, lưỡi đỏ rêu vàng dày, mạch nhu sác hoặc huyền sác.

Pháp điều trị Viêm đường tiết niệu do Tam tiêu thấp nhiệt :

 Thanh lợi tam tiêu, thanh nhiệt hóa thấp.


Bài trị nhức đầu do đàm trọc, huyết ứ

 Chứng đau nhức đầu là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh, là cảm giác chủ quan chịu ảnh hưởng do tác nhân bên ngoài (ngoại cảm) hay bên trong cơ thể (nội thương). Theo y học cổ truyền, đau đầu gồm nhiều thể: can khí nghịch lên, đàm trọc, huyết ứ, thận khí suy tổn và khí huyết hư... Sau đây là một số bài thuốc trị đau nhức đầu do đàm trọc, huyết ứ.

Đau đầu do đàm trọc uất kết: 

Do tỳ yếu kém ảnh hưởng đến công năng vận hóa của tỳ, làm đàm thấp ứ đọng và không sinh được khí huyết.  Đàm thấp gây trở ngại thăng giáng làm thanh không thăng và trọc không giáng dẫn tới đau đầu.

Biểu hiện Đau đầu do đàm trọc uất kết

 nhức đầu, mặt mày xây xẩm, ngực bụng đầy tức, nôn ra đờm dãi, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch huyền hoạt.

 Phép chữa Đau đầu do đàm trọc uất kết: 

Táo thấp hóa đờm (làm ráo thấp và hết đờm). 

Đau đầu do huyết ứ:

 Tỳ có công năng nhiếp huyết dịch nên tỳ yếu kém gây các bệnh xuất huyết, ứ huyết sinh đau.

Triệu chứng Đau đầu do huyết ứ:

 Đau đầu lâu ngày chữa nhiều không khỏi, đau như dùi châm, chỗ đau cố định, đau tăng khi trời râm hoặc chập tối, có tiền sử ngoại thương phần đầu, sắc mặt ám trệ, chất lưỡi tía tối hoặc có ban ứ, mạch tế hoặc tế sáp.

 Phép chữa Đau đầu do huyết ứ

hoạt huyết hóa ứ. 

Ngũ vị trong đông y

 Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người.

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu.

Tác dụng của các vị trong đông y

Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó.

Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được:

Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa).

Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim).
Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc).
Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm hỏng tỳ vị (hành thổ).
Vị ngọt đi vào dạ dày, tuyến tụy (tỳ, vị - hành thổ), nhưng ngọt quá sẽ hại thận và bàng quang (hành thủy).

Ngũ vị

Theo y học cổ truyền, mỗi loại thức ăn đều có những tính chất riêng, được người xưa chia ra “tứ khí” và “ngũ vị”. Tứ khí: nóng, lạnh, ấm, mát. Nóng và ấm là dương. Lạnh và mát là âm. Trong số các thức ăn hằng ngày, như các loại thịt: thịt dê có tính nóng (nhiệt), thịt chó có tính ấm (ôn), còn thịt vịt tính mát (lương).

Điều lý thú là đối với các thứ rau quả có thể thông qua màu sắc mà biết được đặc tính nóng lạnh của chúng. Các thứ rau quả có màu sắc nhạt phần nhiều là lạnh và mát, các thứ thẫm màu thường là ấm, nóng. Củ cải, lê, chuối tiêu có tính mát, còn táo, đậu đen, đậu đỏ có tính ấm. Đối với thủy sản thì đại đa số những thứ có vỏ cứng như cua, ốc, rùa... thường có tính lạnh hoặc mát; các thứ như: lươn, tôm, cá trắm... có tính ấm hoặc nóng.

Thức ăn có thể nuôi sống người và có thể hại người, cho nên cần chủ động lợi dụng các đặc tính về hàn nhiệt của thức ăn để điều chỉnh lại sự cân bằng của âm dương trong cơ thể. Người ta tuy béo gầy, cao thấp khác nhau, song để bồi bổ, có thể chia ra 2 loại lớn, đó là: “âm hư” và “dương hư”.

Người âm hư: thường thấy lòng bàn chân, bàn tay nóng, trong người bứt rứt không yên, miệng khô, chất lưỡi đỏ, mạch đập nhanh, đại tiện táo... Người thuộc tạng này nên ăn các thứ như: mộc nhĩ, hạt sen, bí đao, dưa chuột, đậu phụ, chuối tiêu, dưa hấu, thịt vịt, thịt ngỗng, trứng gà, cá diếc, cá trắm đen, ếch... Những thứ như tỏi, ớt, thịt dê không nên dùng; thịt bò, thịt chó, quả nhãn, quả vải không nên dùng nhiều.

Người dương hư: nét mặt xanh nhợt, sợ lạnh, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão nát, mạch trầm tế (mạch chìm sâu và nhỏ yếu), chất lưỡi nhạt... Người thuộc tạng này nên ăn các thức ăn hỗ trợ dương khí như: thịt dê, thịt chim sẻ...; nên ăn hoa quả như: đào, hạnh, vải, nhãn, mít, dứa...; không nên dùng quá nhiều những thứ thịt, cá và rau quả có tính lạnh.

Ngũ vị: kết quả khí hóa của âm dương. “Ngũ vị” là 5 thứ vị: cay - ngọt - chua - đắng - mặn (tân - cam - toan - khổ - hàm). Nói chi tiết thì phải kể đến cả vị nhạt (đạm), song nó thường được xếp cùng vị ngọt, cho nên thường chỉ nói đến 5 vị. Ngũ vị liên quan đến thành phần, tác dụng dinh dưỡng và tác dụng điều trị của thức ăn. Thành phần khác nhau thì vị sẽ khác nhau, giá trị dinh dưỡng và tác dụng điều trị cũng sẽ khác. Điều hòa ngũ vị không những là điều hòa sự quân bình về âm dương trong nội bộ cơ thể, mà còn là sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. Một năm có 4 mùa, phải điều hòa ngũ vị sao cho cơ thể hòa hợp được với khí 4 mùa trong trời đất. Cụ thể: mùa Xuân cần hạn chế vị chua và tăng thêm vị ngọt, mùa Hạ nên ăn ít các thứ đắng, mặn và ăn nhiều các thứ cay ấm; mùa Thu cần “giảm cay tăng chua”; mùa Đông nên hạn chế vị mặn và tăng cường vị đắng. Sự điều tiết ngũ vị trong 4 mùa cũng không ngoài mục đích là làm cho âm dương và ngũ hành trong cơ thể vận hành đồng bộ phù hợp với tứ khí 4 mùa trong trời đất. Thuận theo trời đất mà điều hòa thân thể cũng là bí quyết lớn nhất của thuật dưỡng sinh phương Đông.

Sáng tạo: ngũ vị hương

Ngũ vị hương là loại gia vị mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông. Đó vừa là sự hòa quyện khéo léo giữa triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu trong văn hóa Việt, vừa là sự phản chiếu chính xác các cung bậc tình cảm của con người. Thành phần của ngũ vị hương không giống nhau. Mỗi vùng miền lại có một cách pha chế khác nhau, phụ thuộc vào khẩu vị và đặc sản địa phương. Nhưng thành phần truyền thống là công thức bao gồm: tiêu, quế, đinh hương, hồi hương và hạt cây thì là. Các đầu bếp xưa đã cố gắng tìm ra loại gia vị “hoàn hảo”, bao gồm đầy đủ 5 yếu tố: chua, cay, mặn, ngọt, đắng. Sau đó, một cách tình cờ, họ đã kết hợp được năm loại gia vị khác nhau thành một, và cảm nhận được sức mạnh của loại gia vị mới này trong việc làm các món ăn trở nên sinh động, đậm đà.

Ngũ vị

Tiêu: đúng nguồn gốc thì phải là loại tiêu Szechwan. Gọi là “tiêu” nhưng Szechwan thuộc họ chanh, không cay, vị mạnh tựa mùi long não. Người ta chỉ dùng vỏ ngoài màu đỏ sẫm xay thành bột sau khi phơi khô. Vì không dễ kiếm trên thị trường, nên tiêu Szechwan thường được thay bằng tiêu hột. Tiêu có tác dụng kích thích tiêu hóa, ấm bụng, giảm đau, chống nôn.

Hồi hương: quả của cây hồi, có hình năm cánh xòe ra. Cây trồng được 6 năm thì bắt đầu thu hoạch và thời gian thu hoạch có thể kéo dài suốt cả tuổi thọ của cây, gần trăm năm. Quả được hái khi chưa chín và để phơi cho chín trên các phên mắt cáo, cho đến khi có màu nâu gỉ sắt. Ngoài ra, hạt cây hồi còn dùng cho bánh ngọt, bánh mì, các đồ ngọt và thức uống như trà. Hồi hương có thể chữa họng, ho.

Đinh hương: nụ hoa nguyên búp của cây đinh hương được phơi khô trong 3 ngày và có hương thơm, nhiều tinh dầu, hơi vàng nâu và rắn. Nụ đinh hương phải được bảo quản trong tối và mát. Người ta dùng đinh hương để ướp thịt cá, bánh ngọt và thức uống. Đinh hương có thể dùng trong nấu ăn hoặc là ở dạng nguyên vẹn hay ở dạng nghiền thành bột, nhưng do nó tạo mùi rất mạnh cho nên chỉ cần dùng rất ít. Trong Đông y, đinh hương được dùng để trị nấc cụt, thổ tả, đau bụng còn trong Tây y thì nó kích thích tiêu hóa, sát trùng mạnh.

Quế: gia vị lấy từ vỏ quế, hiện diện rất nhiều trong các món ngọt tráng miệng châu Âu, nhưng lại được dùng nhiều trong các món ăn mặn tại châu Á. Trong mọi trường hợp thì quế là loại tương đối đắt tiền từ trước đến nay. Quế giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch, trị các vấn đề về hô hấp, giảm đau cơ khớp, cải thiện hệ miễn dịch.

Thì là: loại cây có thể dùng cả lá, hột hoặc củ rễ để làm gia vị. Tuy có nguồn gốc từ các vùng Địa Trung Hải nhưng cây được người Trung Quốc và Ấn Độ biết đến từ rất sớm. Thì là là vị thuốc hỗ trợ tiêu hóa, giúp điều hòa thể trọng, bổ thận, trị đau bụng, đầy trướng bụng.

Ngoài năm loại gia vị truyền thống nêu trên, còn rất nhiều cách kết hợp khác để tạo nên ngũ vị hương. Một công thức thông dụng bao gồm nhục quế, hồ tiêu, đinh hương, tiểu hồi hương và đại hồi. Một số bột ngũ vị hương bán trên thị trường sẽ có thêm bột ớt hay gừng.

Triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu vào truyền thống văn hóa người Việt nói riêng và người phương Đông nói chung. Đó là triết lý của sự cân bằng, đủ đầy, hài hòa, tượng trưng cho tính cách nghề nông chất phác, thích yên bình, ổn định. Trong ẩm thực cũng thế, người Việt chuộng tính hài hòa giữa các vị, mỗi vị một tí, tạo nên sự đậm đà và dễ chịu hơn là quá nồng ở một vị riêng.