Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2020

Bài trị tăng huyết áp theo đông y

 Tăng huyết áp

 là một tình trạng phổ biến, trong đó áp lực của máu đối với thành động mạch cao và có thể gây ra vấn đề sức khỏe như bệnh tim. Bệnh khó nhận biết, chỉ phát hiện qua đo huyết áp (chỉ số huyết áp trên 140/90mmHg). Có khi huyết áp dao động nhiều, người bệnh thấy chóng mặt, hoa mắt, ù tai, hồi hộp, mất ngủ, hay quên... Nếu không được điều trị, sau một thời gian bệnh diễn biến phức tạp và nguy hiểm

Biểu hiện của tăng huyết áp 

rất âm thầm, chủ yếu được phát hiện qua đo huyết áp.

Tăng huyết áp thuộc phạm vi chứng “huyễn vựng” của y học cổ truyền.

 Nguyên nhân gây bệnh theo y học cổ truyền

 là do tinh thần căng thẳng lâu ngày, lo nghĩ tức giận khiến can khí uất, hóa hỏa làm hao tổn can âm, can dương nhiễu loạn lên đầu; do ăn uống không điều độ, nhiều đồ béo ngọt, uống nhiều rượu sinh đờm trọc làm trở ngại kinh lạc; do nội thương hư tổn, lao động nhiều hoặc tuổi cao thận yếu, can không được nuôi dưỡng khô nóng, nội phong dễ động.

Tăng huyết áp do can hỏa cang thịnh:

 Người bệnh đau đầu chóng mặt, mặt và mắt đỏ, lưỡi đỏ miệng đắng, buồn bực hay kinh sợ, đại tiện bí, tiểu vàng tiểu dắt, mạch huyền. 

Tăng huyết áp do âm hư dương cang: 

Người bệnh chóng mặt, đau đầu, nặng đầu, ù tai, buồn bực hay quên, lòng bàn tay và vùng tim nóng, lưỡi trắng, mạch huyền tế sác. 

Phép chữa tăng huyết áp do âm hư dương cang:

 bổ âm tiềm dương. 

Tăng huyết áp do âm dương đều hư:

Tăng huyết áp do âm hư:

 Người bệnh chóng mặt, đau nặng đầu, ù tai, buồn bực, hay quên, lòng bàn tay và vùng tim nóng, miệng khô họng ráo, lưỡi trắng, mạch huyền tế sác.

Tăng huyết áp do dương hư: 

Người bệnh đau đầu chóng mặt, ù tai, đau lưng mỏi gối, chân và lưng lạnh, ngủ ít hay mơ, đêm đi tiểu nhiều, hay run, lưỡi đỏ nhợt, mạch huyền tế. 

Tăng huyết áp do đàm thấp ủng thịnh: 

Người bệnh đau đầu chóng mặt, nặng đầu hồi hộp, đầy bụng, ăn ít, thường nôn ra đờm dãi, lưỡi trắng nhợt, mạch hoạt.

 Phép chữa Tăng huyết áp do đàm thấp ủng thịnh: 

 khử thấp hóa đờm.

Bài bệnh trĩ theo đông y

 Bệnh trĩ 

phát sinh do tình trạng phồng giãn và sung huyết đám rối tĩnh mạch hậu môn trực tràng, hình thành một hay nhiều búi trĩ; tùy theo vị trí giải phẫu và mức độ sung huyết của đám rối tĩnh mạch trĩ trong hoặc trĩ ngoài mà phân thành trĩ nội, trĩ ngoại. Bệnh hay gặp ở cả nam và nữ, lứa tuổi chủ yếu là trung niên và người cao tuổi. Ở Việt Nam bệnh trĩ có tỷ lệ mắc bệnh khá cao từ 30-35% dân số, đứng hàng thứ 3 trong cơ cấu bệnh hậu môn trực tràng.


Có nhiều nguyên nhân và những yếu tố thuận lợi sinh ra bệnh, được tập trung vào 4 nhóm chính:

- Nhóm bệnh lý đường tiêu hóa: Hội chứng lỵ, viêm đại tràng mạn tính, rối loạn tiêu hóa kéo dài, táo bón... khiến cho người bệnh đi ngoài phải rặn nhiều, thời gian đại tiện lâu tạo điều kiện phát sinh bệnh trĩ.

- Sự suy yếu tổ chức nâng đỡ tại chỗ: Do lớp cơ ở dưới niêm mạc hậu môn trực tràng, hệ thống co thắt, dây chằng, cơ nâng bị suy yếu, hệ thống đám rối tĩnh mạch suy yếu sa giãn hình thành búi trĩ.

- Yếu tố cơ học: Thai sản ở phụ nữ, các khối u vùng tiểu khung (u xơ tử cung, u nang buồng trứng, u phì đại tuyến tiền liệt...), bệnh lý tăng áp lực tĩnh mạch cửa, chủ, gây ứ máu ở đám rối tĩnh mạch trĩ.

- Các nguyên nhân khác gây bệnh trĩ:

Chế độ ăn: Ăn nhiều thức ăn cay nóng, kích thích như ớt, hạt tiêu, rượu...

Nghề nghiệp: Ngồi lâu, đứng lâu, lao động nặng nhọc, ngồi xổm, thói quen nhịn đại tiện.

Ngoài ra bệnh trĩ còn mang yếu tố gia đình.

Người mắc bệnh trĩ có các biểu hiện lâm sàng:

Chảy máu:

Đặc điểm: Chảy máu tươi khi đại tiện, tự cầm khi kết thúc cuộc đi ngoài.

Chảy máu là biểu hiện sớm nhất, hay gặp nhất, hình thức chảy máu và số lượng máu chảy rất khác nhau. Lúc đầu chảy máu kín đáo, máu dính theo phân, về sau chảy máu nhỏ giọt hoặc phun thành tia sau mỗi khi rặn đi ngoài. Bệnh diễn biến mạn tính lâu ngày có thể dẫn đến tình trạng suy nhược thiếu máu.

Trĩ sa: Trĩ độ II trở lên, búi trĩ sa ra ngoài hậu môn tạm thời hoặc thường xuyên, đôi khi còn chảy dịch ẩm ướt khó chịu.

Đau: Trĩ nội bình thường không đau mà có cảm giác tức nặng ở hậu môn, chỉ đau khi có biến chứng: trĩ tắc mạch, trĩ nghẹt, trĩ viêm hoặc trĩ kết hợp với một bệnh khác như nứt kẽ, áp xe, rò hậu môn, viêm ống hậu môn...

Trĩ có nhiều thể khác nhau, được chia thành trĩ nội, trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ biến chứng:

Kết quả điều trị phụ thuộc vào chỉ định cho từng loại trĩ và mức độ nặng, nhẹ của bệnh.

Theo y học cổ truyền, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ 

không chỉ do bệnh lý tại chỗ mà còn do yếu tố toàn thân như âm dương thiếu cân bằng, tạng phủ, khí huyết hư tổn, cùng với thấp, nhiệt, phong, táo, ăn uống, nghề nghiệp... gây ra.

Trĩ có nhiều thể tùy thể bệnh với các chứng trạng mà dùng bài thuốc chữa khác nhau:

Bệnh trĩ do thể thấp nhiệt ở đại tràng

Triệu chứng bệnh trĩ do thể thấp nhiệt ở đại tràng:

 Đại tiện ra máu, sắc đỏ tươi, số lượng nhiều hoặc ít, trĩ sa theo độ, đau nóng rát hậu môn, đại tiện táo hoặc đau quặn bụng, mót rặn, đại tiện bí khó đi, tiểu tiện vàng, sẻn. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Mạch huyền, tế, sác.

Bệnh trĩ do thể tỳ hư không nhiếp huyết

Triệu chứng bệnh trĩ do thể tỳ hư không nhiếp huyết

Đại tiện ra máu tươi, sắc nhạt màu, lượng có thể nhiều ít khác nhau, kèm theo sắc mặt kém tươi nhuận, hồi hộp mệt mỏi, ăn ngủ kém, phân táo lỏng thất thường, trĩ sa. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế vô lực.

Bệnh trĩ do thể khí hư hạ hãm

Triệu chứng bệnh trĩ do thể khí hư hạ hãm

 Thường thấy ở bệnh nhân có tuổi, mắc bệnh lâu ngày, trĩ sa không tự co, kèm theo sa niêm mạc trực tràng. Chảy máu tươi khi đại tiện ít hơn, sắc nhạt màu, kèm theo tinh thần mệt mỏi suy nhược, hụt hơi, ngại nói, sắc mặt kém tươi nhuận, hồi hộp, váng đầu, ăn ngủ kém, đại tiện phân nát, tiểu tiện trong dài. Chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng. Mạch trầm tế nhược

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Bài trị xơ gan cổ trướng theo đông y

 Xơ gan là một bệnh thường có ở Việt Nam, là một bệnh nặng, nhất là đã có cổ trướng hoặc đã vàng da. Bệnh được ổn định lâu hay mau phụ thuộc chủ yếu vào chế độ làm việc, chế độ dinh dưỡng và việc phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc... Nhưng nói chung xơ gan tiên lượng rất xấu. Tuy đã điều trị ở bệnh viện, nhưng tỷ lệ tử vong khá cao. Vì vậy việc phòng bệnh để tránh mắc bệnh viêm gan, dẫn đến xơ gan là rất quan trọng, cần hiểu biết để phòng tránh.

Xơ gan 

thường tiếp theo sau một viêm gan mạn tính. Rất khó xác định được lúc nào viêm gan mạn đã chuyển sang xơ gan nếu không quản lý bệnh nhân, theo dõi định kỳ và nhất là soi ổ bụng hoặc sinh thiết.

Cổ trướng 

thường được coi là một biểu hiện mất bù của xơ gan, tiến triển dần dần. Khi to nhiều, bệnh nhân mới để ý đến. Nước cổ trướng màu vàng chanh, còn nước màu hồng hay đỏ là có ý nghĩa xấu: xơ gan đã ung thư hóa, hoặc có áp lực tĩnh mạch cửa tăng nhiều, lách to, cứng chắc, có khi đến tận rốn.

Theo y học cổ truyền, xơ gan cổ trướng là do viêm gan, sốt rét, uống rượu, kém dinh dưỡng.

Căn cứ vào triệu chứng và phương pháp chữa, các thầy thuốc Đông y chia làm 3 thể bệnh với phép điều trị như sau:

Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa

Triệu chứng Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa

Sắc mặt xạm tối, đầu choáng, mệt mỏi, ăn kém, đau vùng gan, tức vùng thượng vị, ợ hơi, bụng trướng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyết tê.

 Phép chữa Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa

 xơ can kiện ty:

Xơ gan do khí trệ huyết ứ: 

Triệu chứng Xơ gan do khí trệ huyết ứ:

đau nhiều vùng mạng sườn, bụng trướng, người gầy, lách to, môi lưỡi tím, mạch tế. 

Phép chữa Xơ gan do khí trệ huyết ứ:

hành khí hóa ứ:

Thể xơ gan cổ trướng: 

Thể này có 3 loại:

Thể xơ gan cổ trướng do Âm hư thấp nhiệt: 

Thể này thường kèm theo chảy máu.

 Triệu chứng Thể xơ gan cổ trướng do Âm hư thấp nhiệt:  

sắc mặt vàng tối, chảy máu cam, chảy máu chân răng, chân phù, sốt hâm hấp, hoặc sốt cao, phiền táo, miệng khát, họng khô, lợm giọng, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch huyền tế sác. 

Phép chữa Thể xơ gan cổ trướng do Âm hư thấp nhiệt: 

 thanh nhiệt, hóa thấp, dưỡng âm, lợi thủy:

Thể xơ gan cổ trướng do thận dương hư: 

Triệu chứng Thể xơ gan cổ trướng do thận dương hư:

mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, chân phù, tiểu tiện ít, đại tiện lỏng, sợ lạnh, sắc mặt vàng hoặc xanh nhợt, chất lưỡi nhạt hoặc bệu, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế. 

Phép chữa Thể xơ gan cổ trướng do thận dương hư:

 ôn thận tỳ dương, hành thủy.

Thể xơ gan cổ trướng do Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: 

Triệu chứng  xơ gan cổ trướng do thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: 

cổ trướng tăng nhanh, không nằm được, tiểu tiện ít, đại tiện không thông, mạch huyền sác. 

Phép chữa  xơ gan cổ trướng do Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: 

công hạ, trục thủy. Chú ý theo dõi mạch, huyết áp tránh trụy mạch do mất nước và điện giải quá nhiều.

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2020

Bài trị tử giản ở thai phụ theo đông y

  Bệnh tử giản

 nặng thì cơn phát dài hơn, phát nhiều lần, có thể chết cả mẹ lẫn con. Đó là một bệnh rất nguy hiểm trong thời kỳ thai nghén.

Có thai 6-7 tháng hoặc lúc đẻ, lúc thời gian ở cữ, bỗng nhiên tay chân co giật, hàm răng nghiến chặt, hai mắt trực thị, mê man không biết gì. Nặng thì toàn thân co cứng, giống như điên giản, 1-2 phút sau thì tỉnh, phần nhiều hay lên cơn, trở đi trở lại, gọi là tử giản.

 Trước khi phát bệnh, thường thấy có các triệu chứng như nhức đầu, chóng mặt, người mệt mỏi, sốt cơn; chân, mặt, mắt, hơi thũng (phù), tim hồi hộp, thở ngắn, lợm giọng, nôn ọe, vùng bụng trên thũng đầy, tiểu tiện nhiều lần. Thấy những hiện tượng trên cần đề phòng bệnh tử giản. 

Tử giản: 

Trước khi phát thấy nhức đầu, xây xẩm, mắt mờ, trông mọi vật không rõ, không thật, nhìn cái nọ hóa cái kia, người mỏi mệt, 2 chân hoặc mặt, mắt phù, có sốt cơn đi tiểu luôn rồi bỗng ngã vật mê man không biết gì, hàm răng cắn chặt, mắt trực thị, tay chân co quắp, sùi bọt mép, chốc lát tự tỉnh, tỉnh một chốc lại lên cơn khác. Hay lên cơn vào lúc gần đẻ hoặc sau đẻ. Không có di chứng.

Đông y chia tử giản theo các nguyên nhân

Tử giản do chứng ngoại cảm phong hàn:

 Có thai vài tháng, tay chân mình mẩy đau nhức, ghê rét, sợ gió, đầu nhức, ngực bứt rứt, bỗng nhiên nôn mửa, toàn thân phát nóng, da thịt nổi gai, hôn mê bất tỉnh, tay chân co giật, bệnh nặng thì uốn ván, lưỡi nhạt rêu trắng mà ướt. Mạch phù khẩn, hoạt.

Nếu kèm có đờm thì trong họng khò khè, miệng sùi bọt, dãi, rêu trắng nhớt. Mạch huyền hoạt.

Nguyên nhân Tử giản do chứng ngoại cảm phong hàn:

 Chủ yếu là âm huyết hư kém (do nuôi thai), khi bị ngoại cảm hoặc can kinh uất nhiệt đều có thể làm cân mạch mất sự bồi dưỡng sinh ra co quắp mà thành bệnh tử giản.

Khi cảm phong hàn, tà khí làm thương tổn kinh thái dương, tân dịch không đủ làm nhu nhuận được kinh mạch mà sinh co rút. Phép chữa tử giản là phải dưỡng huyết, khu phong, trừ đờm làm chính. Nếu phát bệnh sau khi đẻ nên đại bổ khí huyết.

Phép chữa Tử giản do chứng ngoại cảm phong hàn:

chứng ngoại cảm phong hàn thì phải trừ phong, tán hàn.

Tử giản do chứng can nhiệt sinh phong: 

Có thai vài tháng, có lúc thấy đầu choáng, mắt hoa, mặt đỏ phát sốt, tính tình nóng nảy, hay tức giận; phát bệnh thì tự nhiên hôn mê, ngã quay ra, tinh thần không tỉnh táo, tay chân co giật, mặt đỏ, môi hồng, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng sẫm. Mạch huyền sác hữu lực.

Nguyên nhân Tử giản do chứng can nhiệt sinh phong: 

Người sẵn có nhiệt uất, có thai mà huyết hư thì uất nhiệt lại nặng thêm, nhiệt đến cực độ thì hại âm, âm bị hư thì mất sự nhu nhuận mà sinh can phong động ở trong.

Phép chữa Tử giản do chứng can nhiệt sinh phong:  

phải thanh can, tả nhiệt hoạt huyết bài phong. Dùng bài Linh dương giác tán.

Tử giản do chứng hư phong nhiễu động bên trong: 

Có thai vài tháng, ngày thường sắc mặt úa vàng, đầu choáng, mắt mờ nổ đom đóm, tim hồi hộp, thở ngắn, 2 chân và mặt, mắt hơi phù, khi bệnh phát thì đầu choáng váng, mê không biết gì, tay chân co giật, lưỡi nhợt không rêu. Mạch hư, tế mà hoạt.

Nguyên nhân Tử giản do chứng hư phong nhiễu động bên trong: 

Lúc thường vốn đã huyết hư, khi có thai, huyết phải nuôi dưỡng thai nên âm huyết không đủ; âm hư ở dưới, dương nhiễu loạn ở trên nên nội phong phát ra mạnh.

Phép chữa Tử giản do chứng hư phong nhiễu động bên trong: 

 phải dưỡng huyết, trừ phong.


Bài chứng rối loạn tiền mãn kinh theo đông y

 Tuổi mãn kinh trung bình ở người phụ nữ là khoảng 50 tuổi, một số ít mãn kinh xảy ra sớm ở tuổi 42 và mãn kinh muộn ở tuổi 55. Trước khi mãn kinh thực sự, có khoảng 5 năm là giai đoạn chuyển tiếp, còn gọi giai đoạn tiền mãn kinh. Đây cũng là thời kỳ người phụ nữ dễ mắc nhiều loại bệnh khác ngoài các rối loạn kinh nguyệt, kinh kỳ đến sớm muộn không đều, lượng nhiều hoặc ít hơn trước đó hoặc đột ngột tắt kinh... 

Theo Đông y, hội chứng tiền mãn kinh

 là một bệnh nội thương chủ yếu do chức năng của tạng thận suy giảm, âm dương mất cân bằng sinh ra sự rối loạn chức năng các tạng phủ trong cơ thể.

Chứng tiền mãn kinh thể thận âm hư:

 Gồm 3 chứng âm hư nội nhiệt, âm hư can vượng và tâm thận bất giao.

Tiền mãn kinh do chứng âm hư nội nhiệt:

Biểu hiện Tiền mãn kinh do chứng âm hư nội nhiệt:

 Kinh nguyệt đến sớm, lượng ít hoặc trễ, ra nhiều hoặc tắt kinh đột ngột, đau đầu chóng mặt, hoa mắt, nóng bừng ra mồ hôi, miệng khô táo bón, lưng gối nhức mỏi, lưỡi đỏ rêu ít, mạch tế sác.

Tiền mãn kinh do chứng âm hư can vượng:

Biểu hiện Tiền mãn kinh do chứng âm hư can vượng:

Kinh nguyệt rối loạn, tính tình bứt rứt, nóng nảy, dễ cáu gắt, mắt khô, chóng mặt, đau đầu, ngực sườn đau tức, chân tay run, tê rần hoặc cảm giác kiến bò, lưỡi ria đỏ, mạch huyền sác.

Tiền mãn kinh do chứng tâm thận bất giao:

Biểu hiện Tiền mãn kinh do chứng tâm thận bất giao:

Rối loạn kinh nguyệt người nóng ra mồ hôi, hồi hộp, hay quên, mất ngủ, ngủ hay mộng, tư tưởng không tập trung, hay buồn vô cớ, lưỡi thon đỏ ít rêu.

Tiền mãn kinh thể thận dương hư

Biểu hiện Tiền mãn kinh thể thận dương hư: 

Kinh nguyệt ra nhiều hoặc đến sớm, người mập, chân tay lạnh, mệt mỏi hoặc phù, tiểu trong, lưỡi trắng nhợt, rêu trắng mạch trầm nhược.

Tiền mãn kinh thể huyết ứ đàm trệ

Biểu hiện Tiền mãn kinh thể huyết ứ đàm trệ

Phụ nữ sắp hết kinh người mập, lên cân, tinh thần mệt mỏi, bứt rứt, chân tay nặng nề hoặc tê dại, đầu nặng, ngực đau, hồi hộp mất ngủ, lưỡi bệu rêu dày, mạch trầm hoạt.

Bài chứng hay quên theo đông y

 Chứng kiện vong trong Đông y biểu hiện là bệnh chóng quên. 

Vừa nói xong đã quên, việc vừa làm xong bỗng chốc lại quên. Kiện vong cũng là trí nhớ kém, dễ quên việc và khó nhớ ra. Nguyên nhân do lo nghĩ thái quá tổn thương đến tâm, tâm đã thương tổn thì huyết hao kiệt, tâm thần không vững lại hại đến tỳ, làm vị khí suy yếu không nuôi dưỡng được não tốt làm cho chóng quên.

Chóng quên do tâm tỳ hư

Biểu hiện Chóng quên do tâm tỳ hư

tim đập hồi hộp, mất ngủ, mộng mị, ăn uống kém, bụng trướng, người mệt, lưỡi nhợt, mạch tế hư.

Chóng quên do tâm thận bất giao

Biểu hiện Chóng quên do tâm thận bất giao:

chóng quên, hoảng hốt, thần trí không yên, ngủ ít, tâm phiền, tai ù, mạch tế.

Chóng quên do tâm khí suy yếu

Biểu hiện Chóng quên do tâm khí suy yếu

chóng quên, tim đập hồi hộp, đạo hãn.

Chóng quên do tỳ hư

Biểu hiện Chóng quên do tỳ hư

tân dịch ngưng đọng (đờm trọc) âm thịnh, dương hư, nước tràn lên (đờm ẩm).

Bài trị động kinh theo đông y

Động kinh  của y học cổ truyền.

 Động kinh

 thuộc phạm vi chứng điên giản của y học cổ truyền. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra: do di truyền, do thất tình, tình chí bị thương tổn hoặc uất ức quá độ, hoặc tham vọng quá mức không đạt được làm công năng của các tạng tâm, can, tỳ thận hư yếu dẫn tới sự mất thăng bằng âm dương, khí nghịch, đàm ủng trệ tắc các khiếu, hỏa viêm gây phong động sinh ra chứng hôn mê, co giật.

Cơn động kinh tái phát nhanh hay chậm tùy theo tình trạng nặng nhẹ của bệnh, có những cơn động kinh liên tục là trường hợp phải cấp cứu bằng thuốc và phương tiện của y học hiện đại. Trong y học cổ truyền, động kinh được chia ra 2 thể: Thực chứng (bệnh mới mắc do phong đàm ủng trệ) và hư chứng (bệnh mạn tính gây tổn thương nhiều đến tâm thận).

 Động kinh thể phong đàm ủng trệ:

Biểu hiện Động kinh thể phong đàm ủng trệ:

 Cơn động kinh xảy ra đột ngột, người bệnh bất tỉnh, chân tay co giật, sắc mặt xanh nhợt, 2 hàm răng cắn chặt, sùi bọt mép, thở khò khè, đại tiểu tiện không biết, hôn mê, tỉnh dần sau một thời gian ngắn. Sau đó bệnh nhân mệt mỏi.

Điều trị Động kinh thể phong đàm ủng trệ:

Hóa đàm tức phong, khai khiếu.

Động kinh thể tâm thận tỳ hư:

Biểu Động kinh thể tâm thận tỳ hư:

 động kinh đã lâu ngày, tái phát đã nhiều lần, khi lên cơn đầu tối, ngã bất tỉnh, chân tay run, sau khi tỉnh mệt mỏi, trí lực giảm sút, sắc mặt không tươi, lưng gối yếu mỏi, ăn uống kém, đờm nhiều, rêu lưỡi mỏng, mạch tế hoãn.

Điều trị Động kinh thể tâm thận tỳ hư:

Bổ tâm thận, kiện tỳ, hóa đàm.