Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2020

Bài chữa chứng đau bầu vú theo Đông y

 Đau bầu vú là chỉ chứng bệnh đau ở hai bên vú, tất cả mọi u, nhọt đều có thể gây đau bầu vú. Đau bầu vú ở phụ nữ thường thấy trên lâm sàng có 6 nguyên nhân và tùy theo nguyên nhân mà mỗi loại đau bầu vú sẽ có cách chữa khác nhau. 

Bài chữa chứng đau bầu vú theo Đông y

Đau bầu vú do can khí uất trệ

Nguyên nhân đau bầu vú do can khí uất trệ: 

Do tình chí phiền muộn, lo buồn, can khí không thư thái, nhũ lạc bất hòa làm đau bầu vú. Theo Đông y bầu vú thuộc vị kinh dương minh, đầu vú thuộc can kinh quyết dương. Nếu bực tức khó chịu thì tổn thương đến can... làm cho khí không hành, khiếu không thông, sữa không ra, kết lại sinh sưng đau.

Triệu chứng đau bầu vú do can khí uất trệ

Bầu vú trướng tức, đau và căng lên trước hành kinh, hết kinh thì đau giảm hoặc hết, trong vú có thể có u cục, ấn vào có thể di động, ranh giới rõ, mặt ngoài nhẵn bóng, thường kèm ngực sườn trướng tức đau đớn, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc mỏng vàng, mạch huyền. 

Đau bầu vú do đàm khí trở tắc

Nguyên nhân đau bầu vú do đàm khí trở tắc:

 Do ăn uống không điều độ, tỳ vị bị tổn thất, vận hóa mạnh, tụ thấp sinh đàm, đàm ngưng khí trệ, can lạc mất thông thoát nên bầu vú đau, người bị nặng thì sưng to trướng tức, kết thành cục sinh đau.

Triệu chứng đau bầu vú do đàm khí trở tắc:

 Phần nhiều thấy ở những phụ nữ béo phì đang trong thời kỳ cho con bú, sữa khó xuống, bầu vú trướng tức sa sệ xuống gây đau đớn thường kèm theo trướng tức vùng dạ dày, hay ợ hơi ợ chua, rêu lưỡi nhẫy bẩn, mạch nhu hoạt.


Đau bầu vú do khí trệ huyết ứ

Nguyên nhân đau bầu vú do khí trệ huyết ứ: 

Can uất khí trệ lâu ngày, khí trệ thì huyết ứ, khí huyết ứ trở gây kết hạch cứng ở vú, đau đớn.

Triệu chứng đau bầu vú do khí trệ huyết ứ:

 Kết nhiều hạch ở vú, to nhỏ không đều, đau nhói, không di động, hơi cứng, có thể tăng hoặc giảm theo chu kỳ kinh nguyệt, lưỡi thâm đen, rêu lưỡi trắng, mạch huyền tế hoặc tế sáp.

Đau bầu vú do sữa tích đọng ứ kết

Nguyên nhân đau bầu vú do sữa tích đọng ứ kết: 

Sự tiết sữa dựa vào hòa giáng của dạ dày và sự sơ tiết của gan. Sau khi sinh nếu người mẹ không cho con bú, hoặc trẻ không chịu bú, đầu vú dị dạng, tình chí không thoải mái... thì gan mất sơ tiết, dạ dày mất hòa giáng, sữa úng tắc không thông thoát, nhũ lạc uất bế không tiết sữa ra được, sữa tích đọng lâu tất gây nên đau bầu vú.

Triệu chứng đau bầu vú do sữa tích đọng ứ kết:

 Lúc đầu thấy ung nhọt ở vú, sữa úng trệ không lưu hành, bầu vú cứng tức đau đớn kèm theo sốt nóng, rét run, đau đầu tức ngực, miệng khát, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc nhẫy bẩn, mạch huyền sác.

Đau bầu vú do nhiệt độc nội uẩn

Nguyên nhân đau bầu vú do nhiệt độc nội uẩn: 

Vú bị sây sát hoặc trong thời kỳ cho con bú nhiễm phải nhiệt độc thời tà (tà khí gây bệnh hoặc bệnh dịch lưu hành do thời tiết nóng nực, nhiệt kết lại), nhiệt độc nội uẩn mà sinh ra nhũ mạch úng trệ, tích kết lại không thông thoát được sinh ra đau ở bầu vú.

Triệu chứng đau bầu vú do nhiệt độc nội uẩn:

 Ở vú phát ra các ung nhọt độc, khi sắp thành mủ, bầu vú tấy đỏ hoặc có u cục, sưng tấy đau đớn liên tục kèm theo sốt cao, nước tiểu đỏ, lưỡi vàng, rêu lưỡi mỏng, vàng và khô, mạch hoạt sác.

Đau bầu vú do khí huyết hư nhược

Nguyên nhân đau bầu vú do khí huyết hư nhược:

 Cơ thể vốn hư nhược, hoặc tỳ vị khí hư suy, chuyển hóa các chất dinh dưỡng không đầy đủ, hoặc bị bệnh ở vú lâu ngày, khí huyết hư suy thiếu hụt, không tư dưỡng được nhũ lạc để làm cho nó hưng thịnh, nên sinh ra đau ở vú.

Triệu chứng đau bầu vú do khí huyết hư nhược: 

Sau khi bầu vú vỡ mủ, bầu vú cảm thấy trướng tức, đau không nhiều, kèm theo sắc mặt xanh tái, váng đầu, tim đập hồi hộp thất thường, hụt hơi, người mệt mỏi rã rời, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế nhược.


Bài trị đau thắt lưng theo đông y

 Đau thắt lưng là đau một bên hay hai bên cột sống là một chứng bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra có thể chia làm hai loại: đau lưng cấp và đau lưng mạn.

Đau lưng cấp thường do bị lạnh gây co cứng các cơ ở sống lưng, dây chằng, cột sống bị viêm, bị phù nề chèn ép vào dây thần kinh khi vác nặng, sai tư thế, sang chấn vùng sống lưng. Đau lưng mạn thường do viêm cột sống, thoái hóa cột sống, lao ung thư, đau các nội tạng ở ngực, đau lan tỏa ra sau lưng, đau lưng cơ năng do động kinh, suy nhược thần kinh. Theo y học cổ truyền, thắt lưng là phủ của thận, nên đau thắt lưng có quan hệ mật thiết với thận.

Đau thắt lưng cấp do phong hàn thấp

Triệu chứng đau thắt lưng cấp do phong hàn thấp:

 Đau thắt lưng xảy ra đột ngột, sau khi bị lạnh, mưa, ẩm thấp không cúi được, ho và trở mình cũng đau, thường đau một bên. Thắt lưng đau tăng khi gặp lạnh, vặn lưng, cúi ngửa khó khăn và gây đau, nằm yên vẫn đau, gặp thời tiết âm u ẩm thấp, mưa thì đau tăng.

Phương pháp chữa đau thắt lưng cấp do phong hàn thấp:

 Khu phong, tán hàn, trừ thấp, ôn kinh hoạt lạc (hành khí, hoạt huyết).

Đau lưng cấp khi thay đổi tư thế hay vác nặng lệch tư thế do khí trệ, huyết ứ

Triệu chứng: 

Sau khi vác nặng lệch người, hoặc sau một động tác thay đổi tư thế đột nhiên bị đau một bên sống lưng, đau dữ dội ở một chỗ, vận động hạn chế nhiều khi không cúi, đi lại được, cơ co cứng, sợ ấn vào chỗ đau (cự án).

Phương pháp chữa đau lưng cấp khi thay đổi tư thế hay vác nặng lệch tư thế do khí trệ, huyết ứ: 

Hoạt huyết hóa ứ, lý khí chỉ đau.

Đau thắt lưng do thận hư

Triệu chứng đau thắt lưng do thận hư: 

Thắt lưng đau ê ẩm, chân yếu, lúc mệt đau tăng, nằm thì giảm.

Nếu thận dương hư là chính, có thêm chân tay lạnh, mặt sắc trắng, bụng dưới câu cấp, lưỡi nhạt, mạch trầm tế.

Nếu thận âm hư là chính, có thêm tâm phiền mất ngủ, miệng họng khô, má hồng, lòng bàn chân tay nóng, lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Phương pháp chữa đau thắt lưng do thận hư:

- Với thể thận dương hư là chính: Bổ thận trợ dương.



Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

Bài trị suy tim theo đông y

 Suy tim (hay còn gọi là suy tim ứ huyết)

 là thuật ngữ dùng để mô tả tình trạng mà trong đó tim không còn khả năng bơm đủ máu theo nhu cầu của cơ thể.

Nguyên nhân của suy tim 

Nguyên nhân thường gặp nhất của suy tim là các tình trạng làm tổn thương cơ tim.

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến suy tim là do tim làm việc quá tải.

- Quá tải về thể tích xảy ra khi tim bắt buộc phải bơm một lượng máu quá nhiều. Việc quá tải này là do các van tim bị hở làm dòng máu “cuồn cuộn” chảy ngược chiều vào tim. Tình trạng này có thể làm tim kiệt sức, đưa đến suy tim.

- Quá tải về thể tích xảy ra khi tim bị yếu cần phải bơm mạch để thắng được trở lực quá lớn. Tình trạng này xảy ra khi các van tim dẫn về tim bị hẹp, khi túi bao quanh tim (màng ngoài tim) bị sẹo gây co thắt (viêm màng ngoài cơ tim co thắt) hay chứa đầy dịch gây chèn ép tim, hay trong một số trường hợp cơ tim bị phá hủy đến nỗi nó trở lên “cứng lại” và không thể giãn ra đủ để nhận máu trở về.

Suy tim gây thiếu máu nuôi đến các cơ quan nội tạng (kể cả chính trái tim) và các cơ bắp 

Triệu chứng điển hình của suy tim

 là khó thở, mệt mỏi và ho, phù.

Khó thở do suy tim :

Đây là triệu chứng thường gặp sớm của suy tim. Thường, khó thở diễn biến từ từ nên bệnh nhân có thể hạn chế dần dần các hoạt động để tránh cảm giác khó chịu này.

Khó thở phải ngồi

Bệnh nhân suy tim, đặc biệt khi suy tim tiến triển, thường thấy dễ thở hơn khi phần trên cơ thể được nâng cao (gối đầu cao hoặc ngồi dậy).

Khó thở kịch phát về đêm

Hiện tượng gần giống với khó thở phải ngồi nhưng mô tả các đợt khó thở nặng thoáng qua xảy ra về đêm khi bệnh nhân đang nằm và có thể không hết sau khi ngồi dậy.

Mệt mỏi do suy tim

Ngoài các triệu chứng hô hấp ở trên, mệt mỏi cũng là triệu chứng điển hình của suy tim, bởi do thiếu máu nuôi đến các cơ bắp, gây khó khăn cho việc hoạt động gắng sức hoặc ngay cả các hoạt động thường ngày của cuộc sống.

Phù và ho do suy tim

Khi tim không đủ khả năng bơm máu đi, dịch sẽ tích tụ ở chân, mắt cá và đôi khi ở bụng, đó là tình trạng phù, dịch còn có thể tích tụ ở phổi, gây suy tim ứ huyết. Sự ứ huyết ở phổi có thể làm ho kéo dài hay thở khò khè.

Điều trị suy tim theo đông y

Theo y học cổ truyền, suy tim thuộc phạm trù tâm quý, chính xung, khái suyễn, hư hao, thủy thũng... Nguyên nhân suy tim căn bản là tâm và huyết mạch bất túc, nguyên nhân ngoại tà, ăn uống, phòng dục không điều độ là yếu tố dẫn phát bệnh. Suy tim có các thể sau:

Suy tim Thể khí huyết đều hư

Tim hồi hộp, khó thở, mệt mỏi, đầu váng, mắt hoa, hụt hơi, ngại nói, môi nhợt, sắc mặt tối, chất lưỡi nhợt bệu, rêu mỏng, mạch tế vô lực.

Pháp điều trị: Bổ khí huyết, dưỡng tâm an thần.

Suy tim Thể tâm thận hư

Khó thở, hồi hộp, khó ngủ, miệng khát họng khô, hai gò má đỏ, tai ù, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Pháp điều trị: Bổ tâm thận âm, dưỡng tâm an thần.

Suy tim Thể tâm huyết ứ

- Người mệt mỏi, vô lực, hồi hộp, nhịp loạn, suyễn thở, khó thở khi nằm, mặt tối, môi tím, đầu ngón tay xanh tím. Lưỡi ánh tím có ban huyết ứ. Mạch tế hoặc kết đại.

Pháp điều trị: Hoạt huyết hóa ứ.

- Tim đập nhanh phù thũng toàn thân, người gầy, ăn kém, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế vô lực.

Pháp điều trị: Ôn tỳ bổ thận, thông dương lợi thủy.


Bài trị bệnh thương hàn theo đông y

 Bệnh thương hàn (gồm thương hàn và phó thương hàn) 

là một bệnh truyền nhiễm, lây lan, tán phát hay gây thành dịch; do trực khuẩn thương hàn Salmonella typhi và trực khuẩn phó thương hàn Salmonella paratyphi A, B, C gây nên. Trực khuẩn thương hàn lây từ người này qua người khác, do tay bị bẩn, nước hồ, ao, sông có phân của người bệnh; quần áo, chăn, giường nhiễm khuẩn; ăn sò huyết chưa chín. Trực khuẩn khi vào cơ thể theo đường tiêu hóa vào hạch bạch huyết từ đó xâm nhập vào máu đi toàn thân. Bệnh thường xuất hiện vào mùa thu, đông. Đặc biệt vùng lụt lội là yếu tố thuận lợi để bệnh bùng phát.

Thời kỳ ủ bệnh thương hàn : 

Từ khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể đến khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng đầu tiên (từ 10-15 ngày) là thời kỳ ủ bệnh.

Thời kỳ khởi phát bệnh thương hàn: 

Độ 7 ngày. Sốt tăng dần, mạch chậm so với nhiệt độ nên mạch và nhiệt độ phân ly, mạch thường chậm hơn. Người mệt nhọc, nhức đầu, mất ngủ, có khi đổ máu cam. Bệnh nhân không muốn ăn, đi ngoài táo, lưỡi khô trắng, mặt lưỡi rạn nứt. Bệnh đang ở biểu.

Phép điều trị: Giải biểu, tiêu thực.

Thời kỳ toàn phát bệnh thương hàn:

 Khoảng 2 tuần. Bệnh nhân mệt lả và mê sảng, hai tay sờ soạng như bắt chuồn chuồn, đại tiện không tự chủ. Bụng trướng, tháo dạ, đau ở hố chậu phải, sờ bụng vùng hố chậu và ấn vào có tiếng ọc ạch, lách sưng, tim đập mờ và yếu. Phát ban vài nốt ở vùng ngang bụng. Lưỡi khô và đỏ như da lợn quay, môi khô nứt nẻ. Trường hợp bệnh nặng: lưỡi, môi, lợi và răng đều đau. Thời kỳ này là bệnh ở kinh dương minh chuyển vào 3 kinh âm.

Phép trị: Thanh nhiệt, giải độc, khai khiếu, tư âm.

Thời kỳ lui bệnh bệnh thương hàn:

 Sốt bớt dần hoặc dao động rồi trở về nhiệt độ bình thường. Các triệu chứng lui dần, bệnh nhân tỉnh táo hơn, đi tiêu nhiều, lưỡi sạch.

Phép trị: Bổ tỳ, tư âm.

Biến chứng bệnh thương hàn: 

Các biến chứng của bệnh thương hàn có thể xảy ra ở tất cả các mô cơ thể và tất cả các triệu chứng bình thường có thể tiến triển nặng lên, ngang hàng như biến chứng. Thường gặp các biến chứng sau:

Chảy máu ruột: Biến chứng này phần nhiều phát sinh vào tuần thứ 3 sau thời kỳ phát bệnh. Khi bị chảy máu ruột có các triệu chứng thiếu máu cấp tính, phân màu đen. Có thể dùng bài thuốc cầm máu sau:

Thủng ruột: thường phát sinh vào tuần thứ 3, thứ 4. Biến chứng này rất nguy hiểm, dễ tử vong do viêm phúc mạc, cần phải được phẫu thuật sớm.

Trụy tim mạch: Thường phát sinh vào tuần thứ 3, thứ 4, do nội độc tố của vi khuẩn tiết ra nhiều. Triệu chứng xuất hiện đột ngột. Huyết áp không đo được, nhiệt độ hạ xuống 36o hay thấp hơn nữa. Mạch không bắt được, tim đập nhanh tới 140-150 lần trong 1 phút. Bệnh nhân da tím, vã mồ hôi, lả đi. Các chi lạnh và mặt hóp lại. Đông y gọi là chứng vong dương.

Các biện pháp vệ sinh và phòng bệnh thương hàn: 

rong ăn uống cần cung cấp cho người bệnh đầy đủ calo, nước; tránh các thức ăn bột, gây ứ đọng và lên men ở đại tràng. Khi đang sốt: ăn lỏng (sữa, nước súp, nước quả); khi hết sốt: ăn nửa lỏng, nửa đặc (cháo thịt, mì, cơm nát) trong 7 ngày. Sau đó ăn chế độ bình thường.

Cách ly người bệnh. Đồ dùng, bát đĩa riêng, bô riêng. Khử khuẩn nơi người bệnh nằm, đặc biệt chú ý các chất thải của bệnh nhân như phân, nước tiểu...

Phòng bệnh: Gồm tiêm chủng phối hợp với các biện pháp vệ sinh cá nhân và phòng bệnh chung như kiểm tra vệ sinh thực phẩm, nước, rác, diệt muỗi. Giáo dục và đẩy mạnh tập quán vệ sinh thường xuyên, nhất là vệ sinh ăn uống.


Thứ Tư, 7 tháng 10, 2020

Bài trị chứng động thai theo y học cổ truyền

  Trong thời kỳ mang thai, người phụ nữ có cảm giác thai trệ xuống, đau bụng âm ỉ, ra huyết... gọi là chứng thai động không yên. Nếu không kịp thời điều trị dẫn đến sẩy thai, đọa thai hoặc tiểu sản. Trong y học cổ truyền tùy từng trường hợp mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Bài trị chứng động thai theo y học cổ truyền 

Do khí hư hạ hãm động thai

Triệu chứng động thai do khí hư hãm : 

Bào thai trệ xuống, âm đạo ra ít huyết.

Điều trị động thai do khí hư hãm

Ích khí chỉ huyết an thai.

Khí hư kiêm đờm thấp sinh chứng động thai

Triệu chứng động thai do khí hư kiêm đờm thấp: 

  Thai phụ ăn uống kém, cổ họng có nhiều đờm, rêu lưỡi trắng có nhiều nhớt, âm đạo ra huyết nhợt.

Điều trị động thai do khí hư kiêm đờm thấp: 

Ích khí kiện tỳ hóa đờm, chỉ huyết an thai.

Do khí hư huyết thiếu thận hư không bền sinh chứng động thai

Triệu chứng: Thai phụ đau trệ lưng, tim hồi hộp, đầu choáng váng, sắc mặt vàng bủng.

Điều trị chứng động thai do khí hư huyết thiếu thận hư không bền:

 Ích khí dưỡng huyết, phù nguyên an thai.

Do tỳ thận hư suy thai nguyên không bền động thai

Triệu chứng: Khi mang thai thấy bụng dưới nặng trệ, hoặc trướng đau, kèm theo đau lưng, hai chân yếu, ù tai, ăn uống kém, tinh thần mệt mỏi, âm đạo ra huyết.

Điều trị:

 Kiện tỳ, bổ thận chỉ huyết.

Do thận âm hư suy huyết nhiệt động thai

Triệu chứng: Khi thai nhi chưa đủ 3 tháng tuổi, người mẹ thấy âm hộ ra máu tươi, miệng khô, mỏi lưng, là hiện tượng của sẩy thai.

Điều trị: Kiện tỳ bổ thận âm thanh huyết nhiệt an thai.

Do tỳ hư thận âm thận dương cùng hư

Triệu chứng: Ăn uống kém, người mệt mỏi, thể trạng gầy yếu, đầu choáng váng, tim hồi hộp, đau lưng, động thai.

Điều trị: kiện tỳ bổ thận dưỡng huyết bồi bổ nguyên khí an thai.

Bài trị chứng sa trực tràng theo đông y

  Chứng sa trực tràng 

là tình trạng một phần hay toàn bộ thành trực tràng lộn lại và chui ra ngoài qua lỗ hậu môn. Các lứa tuổi đều có thể mắc sa trực tràng nhưng hay gặp ở trẻ em 1 - 3 tuổi (sa niêm mạc) và người lớn trên 50 tuổi (thường gặp cả sa niêm mạc và sa toàn bộ). Nguyên nhân ở trẻ em do tiêu chảy, ho gà, hẹp bao quy đầu. Ở người lớn do chứng táo bón, viêm đại tràng mạn, bí tiểu, u tuyến tiền liệt, sỏi bàng quang... người làm nghề khuân vác nặng.

Hình ảnh trực tràng bị sa.

Hình ảnh trực tràng bị sa.

Đông y gọi sa trực tràng là “chứng thoát giang”. 

Nguyên nhân sa trực tràng theo đông y

chủ yếu là do tỳ dương hư, làm trung khí hạ hãm, nguyên khí bị suy tổn, sự thăng giáng của dương khí thất thường mà sinh bệnh. Đối với người cao tuổi, nguyên khí bị suy tổn, đại tiện táo bón, khi đi đại tiện bị rặn nhiều, làm đại tràng sa xuống không co lên được. Đối với phụ nữ do khi sinh nở rặn quá nhiều, hoặc sinh nhiều lần cũng là nguyên nhân thường thấy. Đối với trẻ em do khí tiên thiên bất túc, sau khi sinh nuôi dưỡng kém, ăn uống thất thường, làm tỳ vị tổn thương, chính khí bị suy kém, hoặc mắc chứng kiết lỵ, tiêu chảy, khi đi đại tiện rặn nhiều mà mắc chứng thoát giang.

Liệu pháp an thai trong y học cổ truyền

 Sản phụ khoa đã được y học cổ truyền (YHCT) quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, thể hiện trên các y thư lưu truyền lại. Ngành sản phụ khoa có một sự quan tâm đặc biệt của các y gia bằng các nghiên cứu, các khảo luận nối từ các thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên một bề dày lịch sử của riêng ngành sản phụ khoa YHCT.

Ở nước ta có các tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Trong đó có tập Phụ đạo xán nhiên tổng luận về kinh nguyệt đến thai mạch, Tọa thảo lương mô nêu điều thai huấn đến cách tính thai, và những phần liên quan phụ khoa rải rác trong tập Hành giản trân nhu.

Thường dùng phép an thai khi phụ nữ bị động thai. Phụ nữ có thai, thai động cảm  thấy như thai sa xuống, hoặc hơi mỏi lưng, đau bụng, trong âm hộ có chút ít huyết dịch chảy ra thì gọi là thai động không an. Nếu đau và huyết ra nhiều, mỏi lưng, đau bụng dữ dội, mà sẩy thai thì gọi là đọa thai hoặc tiểu sản. Thường khi có thai trong 3 tháng, thai nhi chưa hình thành, gọi là đọa thai; ngoài 3 tháng đã thành hình gọi là tiểu sản hoặc bản sản. Nếu sau khi sẩy thai hoặc đẻ non và lần sau có thai đúng kỳ lại sẩy, thì gọi là hoạt thai.

Phụ nữ có thai mà thai động không an, thường là dấu hiệu sẽ sẩy thai hoặc đẻ non. Trong lúc mang thai mà âm hộ ra huyết hoặc huyết nhỏ ra từng giọt dầm dề không dứt, hiện tượng đó gọi là thai lậu, người xưa gọi là bào lậu hoặc lậu thai. Nếu lậu huyết lâu ngày cũng có thể làm cho thai không vững, thậm chí đến đọa thai hoặc tiểu sản.

Nguyên nhân gây động thai trong y học cổ truyền

Khí huyết hư nhược: Phụ nữ có thai thể chất vốn yếu hoặc sau khi có thai bị bệnh làm cho khí huyết hư suy, mạch xung - nhâm yếu, không điều hòa giữ gìn được huyết để nuôi dưỡng thai. Triệu chứng: Có thái huyết ra từng giọt, lưng mỏi, bụng đau trướng, đau hoặc không đau, sắc mặt xanh nhợt, da dẻ khô khan, đầu nặng choáng, tinh thần mỏi mệt. Nói không ra tiếng, sợ lạnh, miệng nhạt không muốn ăn, nặng thời thai động không an. Huyết ra nhiều, thai muốn sa xuống, đi tiểu luôn, lưỡi đỏ nhợ, rêu trắng mỏng. Mạch phù hoạt vô lực hoặc trầm nhược.

Liệu pháp an thai

Tỳ hư: Tỳ khí hư nhược không thể vận hóa tinh vi của thủy cốc để sinh huyết, khiến mạch xung, nhâm hao tổn, không thể nuôi thai. Triệu chứng: Có thai mà thai động sau xuống, lưng mỏi, bụng trướng, hoặc đau bụng ra huyết, sắc mặt vàng nhợt, mặt hơi sưng nặng, tinh thần mỏi mệt yếu sức, tay chân mát lạnh, miệng nhạt nhớt. Ngực tức không muốn ăn, đại tiện lỏng, khí hư, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch hư hoạt.

Thận hư: Bẩm thụ vốn yếu, tiên thiên bất túc, thận khí hư kém hoặc do phòng dục không kiêng dè, tình dục bừa bãi làm hao tổn thận khí, không đủ sức để giữ thai. Người bệnh lưng vốn đã mỏi chân yếu, khi có thai bị động thai không an, hoặc âm hộ ra huyết, bụng trướng lưng mỏi càng tăng nhiều hơn. Đầu choáng tai ù, đái són, hoặc tiểu luôn luôn, mạch xích vi nhược, hoặc hư hoặc đại.

Can uất khí trệ: Thất tình uất kết, đường khí không lưu thông, thai khí bị ngăn trở không an. Triệu chứng: Bụng đau hoặc âm hộ ra huyết, tinh thần uất ức, sườn trướng đau, ợ hơi ăn kém, hoặc nôn đắng, mửa chua, mạch huyền.

Âm hư huyết nhiệt: Vốn đã âm hư hỏa thịnh, hoặc uống thuốc cay nóng, ráo huyết nhiều quá, nhiệt độc ẩn nấp ở mạch xung, nhâm, bức huyết khiến thai mất chỗ nuôi dưỡng. Triệu chứng: Có thai mình gầy sắc khô, phiền nhiệt, miệng ráo, hai gò má đỏ bừng, lòng bàn tay bàn chân nóng, bụng đau hoặc kiêm ra máu nhỏ giọt, lưỡi đỏ không rêu.

Vấp ngã sái trật tổn hại đến thai khí. Triệu chứng: Lưng mỏi, bụng đau, hoặc âm hộ ra máu, tinh thần mỏi mệt, mạch hoạt vô lực.

Phương pháp điều trị để an thai của y học cổ truyền

Người xưa có phép tính tháng để cho uống thuốc an thai. Thai khi không an, tất có nguyên nhân, hoặc hư hoặc thực, hoặc hàn hoặc nhiệt; đều có thể làm cho thai sinh bệnh, trừ hết bệnh là thai tự an. Phương pháp điều trị cụ thể theo đúng tình hình bệnh, xem hư, thực, hàn, nhiệt mà dùng các phương thuốc bổ, tả, ôn, thanh mà biện chứng để chữa. Chú ý bổ can- thận, làm cho thai được vững chắc.

Điều trị an thai do Khí hư : 

Phép trị an thai do Khí hư

bổ khí huyết.

Điều trị an thai do Tỳ hư: 

Phép trị an thai do Tỳ hư

bổ trung khí thêm thuốc an thai.

Điều trị an thai do Thận hư: 

Phép trị bổ thận an thai. 

Điều trị an thai doÂm hư huyết nhiệt:

 Phép trị tư tâm thanh nhiệt an thai. Bài thuốc: Bảo âm tiễn.

Điều trị an thai doCan khí uất trệ: 

Phép trị bình can, thư uất, lý khí an thai. Bài thuốc: Tử tô ẩm.

Điều trị an thai do Vấp ngã thương tổn: 

Phép trị an thai do Vấp ngã thương tổn

Điều nguyên, dưỡng huyết, an thai. Chưa ra huyết thì dùng bài Thánh dũ thang gia đỗ trọng, tang kí sinh, tục đoạn, sa nhân. Nếu đã ra huyết thì dùng bài Tiểu phẩm trữ căn thang gia đỗ trọng, tục đoạn, tang kí sinh.

Chẩn đoán động thai như thế nào?

Thầy thuốc YHCT phải vận dụng “tứ chẩn” (vọng - văn - vấn - thiết tức là nhìn - nghe, hỏi - bắt mạch) để thu thập tư liệu lâm sàng, trên tinh thần kết hợp Đông - Tây y. Phối hợp kiến thức y học hiện đại trong khám thực thể lâm sàng để xác định chính xác bệnh lý, qua đó không bỏ sót chẩn đoán, để ứng dụng điều trị tốt hơn.

Món ăn cần tránh hoặc không nên ăn nhiều khi có thai

Có những món ăn thông thường chúng ta nghĩ ăn vào là tốt cho thai, dễ đẻ, mát thai… nhưng thực ra ăn vào có nguy cơ gây hại cho thai, thâm chí sảy thai:

Đu đủ, rau ngót: Có chứa papaverin, có tác dụng giãn cơ trơn, giảm đau, hạ huyết áp. Nếu bà bầu ăn nhiều rau này, đặc biệt trong ba tháng đầu của thai kỳ sẽ có nguy cơ bị sẩy thai do cổ tử cung co thắt.

Khổ qua: Nhiều vitamin và chất xơ, có chứa quinine, monodicine,… kích thích co bóp tử cung. Nếu bà bầu ăn các món ăn chế biến từ trái khổ qua sẽ có nguy cơ bị sẩy thai rất cao.

Măng tươi: Chứa cyanide, một chất rất nguy hiểm đối với cơ thể. Nếu không loại bỏ chất độc này trước khi ăn, bà bầu có thể bị ngộ độc.

Tía tô: Có tính ấm, dùng thường xuyên sẽ không tốt cho sức khỏe, bà bầu có nguy cơ bị tăng huyết áp. Tía tô là một vị thuốc, khi không có bệnh chỉ nên dùng như một gia vị, không nên tự ý dùng bừa bãi.