Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

viêm khớp dạng thấp

Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nắng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, khí hậu luôn thay đổi nên số người mắc các bệnh về khớp rất nhiều. Triệu chứng chung là sưng nóng đỏ đau các khớp, mưa lạnh, ẩm thấp thì đau tăng hoặc tái phát, trở thành bệnh mạn tính.



Nguyên nhân bên ngoài theo Đông y là do phong hàn thử thấp xâm nhập cơ thể làm kinh lạc trở trệ, khí huyết mất thông sướng, cân cơ co cứng… Nguyên nhân bên trong là do can thận và khí huyết hư suy, khả năng phòng vệ của cơ thể yếu, từ đó gây ra bệnh.

Theo Đông y, viêm khớp dạng thấp có 2 thể cấp tính và mạn tính. Sau đây là một số bài thuốc Nam điều trị theo từng thể bệnh.

Viêm khớp cấp tính:

Các khớp sưng đau, người sốt, toàn thân mệt mỏi, nhiều khi kèm theo viêm họng, đau họng. Khớp sưng đau tăng lên khi bị lạnh và ẩm ướt. Phép trị: khu phong tán hàn, chống viêm, chỉ thống. Dùng một trong các bài:

Bài 1: rễ bưởi bung 16g, thổ phục linh 20g, cà gai leo 12g, nam tục đoạn 20g, hà thủ ô 16g, xương bồ 16g, quế 8g, thiên niên kiện 10g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Bài 2: xuyên khung 10g, cỏ xước 10g, tất bát 12g, kê huyết đằng 20g, ngải diệp 16g, tang ký sinh 16g, quế 8g, thiên niên kiện 10g, ngũ gia bì 16g, cẩu tích 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Bài 3: nam tục đoạn, ngũ gia bì, ngải diệp, trinh nữ, cối xay, đơn hoa, kê huyết đằng, xa tiền thảo mỗi vị 24g. Ngày dùng 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Viêm khớp mạn tính:

Đau nhức các khớp, ổ khớp không sưng, người không sốt, hạn chế vận động, đau tăng lên khi thời tiết thay đổi, có biểu hiện cứng khớp, thường gặp ở người cao tuổi. Phép trị: trừ phong, lợi thấp kết hợp với bổ can thận và dưỡng huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1: đương quy 12g, bạch thược 12g, kê huyết đằng 20g, trinh nữ 20g, bưởi bung 20g, hy thiêm 20g, đinh lăng 20g, nam tục đoạn 20g, quế 8g, thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. 15 - 17 ngày là một liệu trình.

Bài 2: thổ phục linh 20g, trinh nữ 20g, xương bồ 16g, ngải diệp 16g, kinh giới 16g, hà thủ ô chế 16g, kê huyết đằng 20g, tất bát 12g, đương quy 12g, chích thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

- Nếu đau nhiều không ngủ được, gia: hắc táo nhân 16g, viễn chí 12g, lạc tiên 20g.

- Thường bị lạnh bụng, rối loạn tiêu hóa, gia: bạch truật 16g, sơn thù 10g, lương khương 12g.

- Ăn uống kém, cơ thể suy nhược, gia: đại táo 5 quả, hoàng kỳ 16g, sinh khương 6g, nhân sâm 10g.

- Ho hen, khó thở, mắc đờm, gia: tía tô 12g, cát cánh 12g, bán hạ 10g, hậu phác 10g.

Kết hợp uống thuốc sắc với các thuốc xoa bóp ngoài như: quế 20g, thiên niên kiện 20g, hoa hồi 20g, bạch chỉ 24g, xuyên khung 20g, xương bồ 30g, cao lương khương 20g, gừng khô 20g, trần bì 20g, tô mộc 20g. Các vị thái nhỏ, bỏ vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm. Sau 10 ngày là dùng được. Dùng  bông tẩm thuốc xoa vào những nơi bị sưng đau.
Theo SKDS

Điều trị các chứng đâu ở đầu mặt bằng thuốc đông y

Đầu ở vị trí cao nhất trong thân người. Khí thanh dương của tạng phủ dâng lên đầu, ba kinh dương ở tay và ba kinh dương ở chân đều gặp nhau trên đầu, mạch Đốc – tổng quản phần dương thân thể cũng đi đến đỉnh đầu. Vì vậy mà Đông y cho rằng đầu là nơi hội tụ của các phần dương.

Đầu ở vị trí cao nhất trong thân người. Khí thanh dương của tạng phủ dâng lên đầu, ba kinh dương ở tay và ba kinh dương ở chân đều gặp nhau trên đầu, mạch Đốc – tổng quản phần dương thân thể cũng đi đến đỉnh đầu. Vì vậy mà Đông y cho rằng đầu là nơi hội tụ của các phần dương.

Do đầu ở vị trí cao và thuộc dương , trong các nguyên nhân gây bệnh trong–ngoài (nội nhân, ngoại nhân) có phong tà và hoả khí  rất dễ gây ra các bệnh ở bộ phận đầu, bởi vì tính của hoả bốc lên và trên đỉnh đầu chỉ có phong tà  mới có thể đến được. Lại do nội tạng suy yếu, thanh khí không thăng, hoặc gió lạnh xâm nhập, dương khí uất trệ đều làm xuất hiện chứng đau đầu do hư hàn.  Ngoài ra, não là bể tuỷ (não vi tuỷ hải), nếu không đầy đủ thì ảnh hưởng đến tinh lực toàn thân. Sắc diện bộ mặt cũng phản ánh được tình hình biến hoá của bệnh tật trong cơ thể.  Vì vậy, Chương này bao quát các chứng đau đầu do các nguyên nhân phong hàn, phong nhiệt, phong thấp, can dương, thận hư, huyết hư, đàm trọc, huyết ứ dẫn đến, ngoài ra còn có các chứng đau sưng đầu mặt, đau nửa đầu, đau gờ chân mày, sưng quai bị, đau đỉnh đầu (cả thẩy 13 chứng).  Trên lâm sàng cần nắm rõ các chủ chứng , phân biệt rõ nguyên nhân trong–ngoài mới tiến hành trị liệu.
Theo Tây y, chứng đau đầu có thể xuất hiện trong các bệnh chủ như cao huyết áp, viêm xoang mũi, thần kinh chức năng, di chứng chấn động não…đều có thể tham khảo điều trị.

1.ĐAU ĐẦU DO PHONG HÀN.
Phong hàn thâm nhập thể biểu (bề ngoài) khiến dương khí bảo vệ mặt ngoài bị ngăn cách, kinh mạch trở ngại, khí thanh dương không thăng lên, khí huyết ngưng trệ mà phát sinh đau đầu. Điều trị dùng phép sơ phong tán hàn.
Chủ chứng: Đau đầu phát tác liên tục, đau lan ra cổ gáy, sợ gió, sợ lạnh. Gặp gió đau tăng, thích trùm kín đầu, miệng không khát, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù hoặc Phù– Khẩn.
Trị liệu: Xuyên khung trà điều tán gia giảm: Xuyên khung 10g, Khương hoạt 5g, Kinh giới 6 g, Phòng phong 6g, Bạch chỉ 6g, Tế tân 3g, Mạn kinh tử 10g, Cam thảo 6g.  Sắc lấy nước uống.

2. ĐAU ĐẦU DO PHONG NHIỆT.
Phong nhiệt bên ngoài xâm nhập vào, da thịt không được thư thái thoải mái, tính của hoả ưa bốc lên, khuấy động các khiếu ở trên, khí huyết nghịch loạn mà dẫn đến đau đầu.  Điều trị dùng phép sơ phong thanh nhiệt.
Chủ chứng: Đầu đau trướng căng, thậm chí như búa bổ, phát sốt, sợ gió, mặt hồng, mắt đỏ, miệng khát muốn uống nước, táo bón, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Phù -Sác.
Trị liệu: Khung chỉ thạch cao thang gia giảm: Sinh thạch cao 30g, Cúc hoa 9g, Xuyên khung 9g, Bạc hà 6g, Mạnh kinh tử 10g.  Sắc uống.
Nếu đại tiện bí kết, miệng mũi sinh lở loét do khí các tạng phủ không thông, cần thông phủ tiết nhiệt bằng các thuốc đắng lạnh giáng hoả, nên gia thêm Đại hoàng 10g, Hoàng liên 10g và bài thuốc trên.

3. ĐAU ĐẦU DO PHONG THẤP.
Phong thấp từ ngoài xâm nhập vào làm dương khí bị ngăn trở, che phủ các khiếu ở trên, khí thanh dương không thăng lên được gây nên chứng đau đầu. Điều trị dùng phép khu phong thắng thấp.
Chủ chứng: Đau đầu như bưng, tay chân mình mẩy nặng nề khó chịu, ngây ngây bức rức trong ngực, tiểu tiện không thông, đại tiện nhão nhoẹt, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu.
Trị liệu: Khương hoạt thắng thấp thang gia giảm: Khương hoạt 10g, Độc hoạt 6g, Xuyên khung 10g, Mạn kinh tử 10g, Phòng phong 10g, Cảo bản 6g, Bạch chỉ 6g, Tế tân 3g, Sắc uống.

4. ĐAU ĐẦU DO CAN DƯƠNG.
Do tình chí bất hoà, can mất khả năng điều đạt, can khí uất kết, khí uất hoá hoả, lâu ngày hao tổn tân dịch, can âm bất túc, can mất tính nhu nhuận ẩm thấm; hoặc do phòng lao thương tinh, thận thuỷ bất túc,thuỷ không hàm dưỡng được mộc, khiến cho can thận âm khuy tổn, cả hai trường hợp trên đều dẫn tới can dương thượng cang (mạnh vượt lên).  Đông y cho rằng can tạng thuộc phong mộc, tính hoả bốc lên, phong hoả gặp nhau thì bùng cháy, quấy nhiễu các cơ quan bên trên gây nên đau đầu thể can dương.  Điều trị nên bình can tiềm dương.
Chủ chứng: Đau đầu hoa mắt, đau xiết kéo dài, đau thiên về hai bên hoặc đau xiên lên đỉnh đầu, hay buồn bực dễ cáu giận, ngủ không an giấc, mặt hồng, mắt đỏ, miệng đắng, có khi đau cả hông sườn, lưỡi hồng, rêu vàng mỏng, mạch Huyền hoặc Huyền Sác.
Trị liệu: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm: Thiên ma 10g, Câu đằng 12g, Sinh thạch quyết minh 15g, Sinh long cốt 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Sơn chi 10g, Long đởm thảo 12g, Cúc hoa 10g, Đỗ trọng 12g, Hoài ngưu tất 12g, Phục thần 10g, Sắc uống.

5. ĐAU ĐẦU DO THẬN HƯ.
Do bẩm sinh bất túc, phòng lao quá độ khiến thận tinh khuyết tổn,.  Thận chủ cốt sinh tuỷ, tuỷ thông lên não, não là bể của tuỷ. Thận tinh giảm thiểu lâu ngày thì bể tuỷ rỗng không sinh đau đầu. Nếu thận âm khuy tổn lâu kéo theo thận dương suy thì khí thanh dương không khai triển lên trên mà phát chứng đau đầu. Điều trị nên bổ thận điền tinh.
Chủ chứng: Đầu khi đau khi không, khi đau kiêm hoa mắt chóng mặt, lưng gối đau ê bủn rủn, đàn ông di tinh, đàn bà đới hạ, ù tai, ít ngủ, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm-tế vô lực.
Trị liệu: Đại bổ nguyên tiễn gia giảm: Thục địa 16g, Sơn thù nhục 10g, Sơn dược 10g, Câu kỷ tử 10g, Đỗ trọng 10g, Đương quy 10g, Nữ trinh tử 12g, Thỏ ty tử 6g, Cúc hoa 6g, Mạn kinh tử 6g.  Sắc uống.

6. ĐAU ĐẦU DO HUYẾT HƯ:
Do ăn uống không điều độ, làm lụng quá sức, hoặc sau khi bệnh khỏi, sau khi sinh tỳ vị hư nhược, sinh hoá không đầy đủ, khí huyết suy tổn, hoặc do các chứng mất máu quá nhiều; khí hư thì khí thanh dương không đi lên, huyết hư thì não bộ không được nuôi dưỡng tốt, từ đó phát sinh đau đầu. Điều trị nên dùng thuốc bổ huyết.
Chủ chứng: Đau đầu hoa mắt, sắc mặt xanh sao kém  tươi tỉnh, hồi hộp trống ngực, mỏi mệt yếu sức, chất lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế-nhược.
Trị liệu: Tứ vật thang gia giảm: Sinh địa 10g, Đương quy 10g, Xuyên khung 10g, Mạn kinh tử 10g, Cúc hoa 6g, Tang thầm tử 12g, Hà thủ ô 10g, A giao 10g, Sắc uống.

7. ĐAU ĐẦU DO ĐÀM TRỌC.

Tỳ mất kiện vận, đàm trọc trở trệ, khí thanh dương không thăng lên, các khiếu ở trên bị chướng ngại gây đau đầu do đàm trọc. Điều trị dùng thuốc hoá đàm giáng nghịch, kiện tỳ hoà vị.
Chủ chứng: Đau đầu tối tăm mặt mũi, vùng ngực-chấn thuỷ đầy tức khó chịu, nôn oẹ đàm dãi, rêu lưỡi nhớt, mạch Hoạt hoặc Huyền-Hoạt.
Trị liệu: Bán hạ Bạch truât  thiên ma thang gia giảm: Bán hạ 10g, Bạch truật 15g, Thiên ma 10g, Phục linh 12g, Trần bì 6g, Mạn kinh tử 12g, Bạch tật lê 10g. Sắc uống.

8. ĐAU ĐẦU DO Ứ HUYẾT.

Đau đầu do ứ huyết phần lớn phát sinh sau chấn thương bên ngoài sọ não hoặc phụ nữ kinh hành không thông, bệnh lâu ngày nhập vào kinh lạc dẫn đến khí trệ huyết ứ, huyết ứ trở ngại mạch lạc lên não, không thông nên đau.(bất thông tắc thống). Điều trị dùng thuốc hoạt huyết hoá ứ.
Chủ chứng: Đau đầu lâu ngày không hết, có diểm đau cố định, đau như dùi đâm hoặc tiền sử có chấn thương bên ngoài đầu, lưỡi có chấm điểm ứ huyết, mạch Tế hoặc Tế -Sáp.
Trị liệu: Thông khiếu hoạt huyết thang gia giảm: Đào nhân 9g, Hồng hoa 9g, Xích thược 6g, Xuyên khung 6g, Hành 3 củ, Đương quy vĩ 10g, Sâm tam thất 6g.  Sắc uống.

9. ĐAU SƯNG ĐẦU MẶT (LÔI ĐẦU PHONG)

Đầu mặt sưng đau, bệnh phát rất nhanh, phần lớn do phong nhiệt bên ngoài công kích, đàm hoả bên trong uất lại mà phát bệnh.  Bệnh này còn có tên gọi là “Lôi đầu phong”.  điều trị nên dùng thuốc thanh nhiệt giải độc, trừ thấp hoá đàm.
Chủ chứng: Đầu mặt đau sưng nổi cục, sốt cao, sợ lạnh, phát bệnh rất nhanh, đầu đau nghe như sấm rền.
Trị liệu: Thanh chấn thang. Thiên ma 15g, Thương truật 15g, Lá sen 1 lá nguyên.  Sắc uống.

10. ĐAU NỬA ĐẦU (THIÊN DẦU THỐNG, THIÊN ĐẦU PHONG).

Chứng này đau dữ đội, bệnh thế kịch liệt, hoặc đau bên trái hoặc đau bên phải, hoặc đau liên hố mắt, hàm răng, đau dứt trở lại như người bình thường.  Chứng này đa phần do đàm hoả gây nên.  Điều trị cần phân biệt đau nửa đầu bên trái hay bên phải.
Trị liệu:
- Phương thuốc trị đau nửa đầu bên phải: Bán hạ 9g, Trần bì 9g, Phục linh 10g, Cam thảo 6g, Sa sâm 10g, Hoàng cầm 10g, Hoàng liên 9g, Xuyên khung 9g, Phòng phong 10g, Đởm tinh 6g. Sắc uống.
- Phương thuốc trị đau nửa đầu bên trái: Bán hạ 9g, Trần bì 9g, Phục linh 10g, Cam thảo 6g, Đương quy 9g, Bạch thược 12g, Xuyên khung 10g, Sài hồ 15g, Bạch chỉ 15g. Sắc uống.

11.ĐAU CẠNH CHÂN MÀY (MI LĂNG CỐT THỐNG).
Chứng này thường đi kèm  trong các chứng đau đầu kinh dương minh hoặc kinh thiếu dương, nếu đơn độc xuất hiện phần lớn là do phong nhiệt bó thúc ở ngoài, khi đau không thể mở mắt ra được.
Trị liệu: Tuyến kỳ phương: Phòng phong 12g, Khương hoạt 10g, Hoàng cầm 12g, Cam thảo 10g. Sắc uống.

12. ĐAU ĐỈNH ĐẦU.
Đau tại đỉnh đầu, ngay huỵệt Bách hội, do tướng hoả vượng, theo Đốc mạch vượt lên.  Điều trị không nên phạt hoả, chỉ nên tư âm tiềm dương.  Đồng thời châm các huyệt Bách hội, Thông thiên, Côn lôn, Chí âm, Thái xung
Trị liệu: Tam tài lang gia vị: Thiên môn 9g, Thục địa 12g, Nhân sâm 9g, Mẫu lệ 15g, Quy bản 15g.  Sắc uống.

Biên dịch từ Phương đáo thống trừ  
NXB Cổ tịch Trung y, Bắc kinh 1997.

Phương pháp chữa nấc hiệu quả

Nấc là chỉ hội chứng do cơ hô hấp không thể tự khống chế mà ra. Âm thanh phát ra từ thanh đới ở giữa hầu tạo ra tiếng “nấc” do khí nghịch dâng lên. Đông y gọi là “nghịch ách” (có nghĩa là nấc). Ngẫu nhiên bị nấc thì không chữa cũng tự khỏi. Nếu bị nấc liên tục, lâu mà không khỏi thì phải chữa trị.

Nấc là chỉ hội chứng do cơ hô hấp không thể tự khống chế mà ra. Âm thanh phát ra từ thanh đới ở giữa hầu tạo ra tiếng “nấc” do khí nghịch dâng lên. Đông y gọi là “nghịch ách” (có nghĩa là nấc). Ngẫu nhiên bị nấc thì không chữa cũng tự khỏi. Nếu bị nấc liên tục, lâu mà không khỏi thì phải chữa trị.
Để có thể tự chữa, xin giới thiệu cùng độc giả vài bài thuốc sau đây:
* Bài 1: Trường hợp nấc do bị lạnh, dạ dày lạnh.
Trần bì 10g, Thị đế (tai quả hồng) 10g, Cao lương khương (giềng ấm) 9g, Hậu phác 9g, Chỉ thực (quả Trấp non) 6g, Đinh hương 4g, Chích cam thảo 4g,nước sạch 400ml, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày.
* Bài 2: Thang này dùng cho trường hợp tiếng nấc nhỏ, liên tục, mặt trắng nhợt, ăn ít, khó nuốt, đó là do tỳ hư.
Sơn dược (sao) 30g, Đảng sâm 10g, Bạch truật 10g, Bán hạ 10g, Đinh hương 6g, Phụ tử 3g, Bào khương 3g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 3 quả, nước sạch 400ml, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày. Ngày 1 thang.
* Bài 3: Hô hấp sâu chữa nấc: Hít sâu vào, thở ra, cứ thế cho tới khi hết nấc.
* Bài 4: Dùng chữa nấc do loại hình hư hàn:
Gừng tươi 60g, rửa sạch giã nát, vắt lấy nước, bỏ bã, hoà vào với 30ml mật ong, uống một lần hết.

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

Giữ “Xuân”

Mùa xuân khí trời ấm áp được coi là mùa vạn vật sinh sôi nảy nở.  Theo học thuyết ngũ hành, mùa xuân thuộc mộc ở phương Ðông, ứng với tạng can (gan) màu xanh. Y học cổ truyền cho rằng mùa xuân là mùa của mộc khí, đây là mùa can khí vượng, đồng thời tạng can dễ bị tổn thương. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số nguyên tắc chăm sóc sức khỏe ngày xuân.
Giữ “Xuân”
Huyệt đại đôn.
Y học cổ truyền cho rằng, công năng của can chủ sơ tiết. Can có tác dụng thăng phát, điều tiết, làm cho sự vận hành các phủ tạng khác được thông suốt. Nó chủ quản về thư giãn và điều đạt khí cơ phân bố toàn thân. Nếu can khí sơ tiết, điều đạt thất thường, khí cơ không thư thái, có thể gây nên bệnh tật. Can khí uất kết thường dễ cáu, sườn ngực đầy tức, đau đầu, kinh nguyệt rối loạn. Nếu can khí thăng phát thái quá là can dương thượng cang sẽ thấy đầu váng, đau đầu, đỏ mắt, ù tai, điếc tai. Nếu can dương cang cực mà hóa hỏa sinh phong, tức có thể sinh hàng loạt chứng của trúng gió. Can khí thăng phát không đủ, cũng gây ra các chứng váng đầu, mất ngủ, tinh thần hoảng hốt. Do đó, ngày xuân chúng ta cần giữ cho tinh thần luôn được thoải mái, lạc quan, không quá phấn khích, đồng thời tránh trạng thái u uất, phiền não.
Ngày xuân nên năng đến những nơi có nhiều màu xanh. Can trong ngũ sắc là màu xanh. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy rằng màu xanh lá cây có tác dụng ổn định tinh thần, điều hòa huyết áp và duy trì huyết áp bình thường của cơ thể. Những nơi rộng rãi thoáng đãng, môi trường trong lành có tác dụng tốt cho việc dưỡng can. Việc tham gia các phong trào “Tết trồng cây” với mục đích làm cho đất nước thêm xanh, cải thiện môi sinh, bảo vệ môi trường, cũng là một hoạt động rất tốt để cải thiện hoạt động tạng can.
Giữ “Xuân”
Huyệt thái xung.
Can chủ tàng huyết: Can có công năng chứa giữ huyết dịch và điều tiết lưu lượng huyết. Can chủ cân, tinh hoa của can phô ra ở móng tay, móng chân. Can chủ quản hoạt động của gân, chi phối hoạt động của bắp thịt và khớp xương trong toàn thân. Gân nhờ vào can huyết nuôi dưỡng, nếu can huyết bất túc không nuôi dưỡng được gân sẽ sinh ra đau gân, tê dại, khó co duỗi, co quắp. Kiên trì luyện tập có tác dụng thư cân hoạt lạc, có lợi cho can. Mỗi người nên dựa vào tình trạng thể chất của mình, chọn chương trình tập thể dục thích hợp. Buổi sáng, buổi tối và ngày nghỉ, bạn có thể đi dạo qua những con đường mòn cỏ, công viên, hoặc đi đến vùng ngoại ô chạy bộ, bơi lội, câu cá, tập yoga, thái cực quyền, đắm mình trong thiên nhiên.
Day bấm huyệt kinh can cũng có tác dụng dưỡng can. Hằng ngày trước khi đi ngủ bấm một số huyệt sau (mỗi huyệt 2 - 3 phút) có tác dụng tốt với can:
Đại đôn: Tại đốt thứ nhất ngón chân cái, cách bờ ngoài gốc móng khoảng 0, 1 thốn (0,2cm).
Thái xung: Sau khe giữa ngón chân 1 và 2, đo lên 1,5 thốn, huyệt ở chỗ lõm tạo nên bởi 2 đầu xương ngón chân 1 và 2.
Tam âm giao: Ở sát bờ sau - trong xương chày, bờ trước cơ gấp dài các ngón chân và cơ cẳng chân sau, từ đỉnh cao của mắt cá chân trong đo lên 3 thốn.
Duy trì chế độ ăn uống một cách thích hợp: Y học cổ truyền cho rằng, tỳ vị là gốc của hậu thiên, là nguồn sinh hoá khí huyết của cơ thể. Tỳ vị vượng thịnh thì cơ thể khỏe mạnh và sống lâu. Nhưng vào mùa xuân can khí làm chủ, can thuộc mộc, tỳ thuộc thổ. Theo học thuyết Ngũ hành, mộc khắc thổ cho nên mùa xuân can khí vượng thịnh dễ làm hại tỳ vị, ảnh hưởng không tốt đến chức năng tiêu hóa và hấp thu của cơ thể. Đồ ăn nên thanh đạm và đa dạng. Thức ăn béo ngậy thường khó tiêu, khó hấp thu và dễ gây cảm giác ngấy chán khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, đầy bụng, chậm tiêu. Nên ăn nhiều rau quả tươi vốn chứa nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng là hết sức cần thiết để duy trì chức năng bình thường của các tạng phủ trong hoạt động trao đổi chất.
Giữ “Xuân”
Huyệt tam âm giao.
Đảm bảo giấc ngủ là rất quan trọng: Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng giấc ngủ giúp cho con người tự điều chỉnh hoạt động của toàn bộ hệ thống thần kinh. Trong giấc ngủ chất lượng cao xảy ra một loạt các thay đổi sinh lý và sinh hóa có lợi cho cơ thể, giúp tiêu trừ bệnh tật kéo dài tuổi thọ. Y học cổ truyền cho rằng can tàng huyết, khi ngủ huyết quay về can. Các nghiên cứu y học hiện đại đã chứng minh rằng dòng máu của gan trong khi ngủ tăng gấp nhiều lần, có lợi cho việc tăng cường các chức năng của các tế bào gan, tăng cường khả năng giải độc và đẩy nhanh sự trao đổi chất của protein, axit amin, đường, chất béo, vitamin và chất dinh dưỡng khác, để duy trì môi trường bên trong ổn định, tăng khả năng chống lại bệnh tật.

TS.BSCKII. Dương Trọng Nghĩa

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Ý nghĩa khí và khí hoá của y học phương Đông trong dưỡng sinh phòng bệnh

Ý nghĩa khí và khí hoá của y học phương Đông trong dưỡng sinh phòng bệnh



Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều nhà khoa học phương Tây đã bắt đầu nghiên cứu về bản chất của khí và khí hoá mà y học phương Đông đã từng đề cập.  Hiểu rõ được bản chất và đặc điểm của khí có thể giúp chúng ta điều chỉnh hành vi và sinh hoạt để giữ gìn sức khoẻ và gia tăng chất lượng cuộc sống.

Khí là gì?
Những nhà khí công cổ đại quan niệm rằng trong không gian bao la của vũ trụ luôn tồn tại một dạng năng lượng vi tế, là nguồn gốc của sự sống.  Tuỳ theo mỗi nền văn hoá mà loại năng lượng này được gọi những tên gọi khác nhau như khí, thiên khí hoặc địa khí (Trung Hoa), Prana (ấn độ) hoặc Ki hay Hado (Nhật).  Những nghiên cứu của khoa học phương Tây cũng cho thấy thế giới chất rắn cụ thể mà chúng ta nhìn thấy được bao quanh và thấm đẫm bởi một loại năng lượng tựa như chất lỏng luôn bức xạ và chuyển động không ngừng. Hai tiến sĩ John White và Stanley Kripper mô tả trường năng lượng này thấm nhuần và liên kết mọi vật lại với nhau, chúng chuyển động tựa như một chất lỏng chảy từ vật nọ sang vật kia.  Loại năng lượng này chính là một yếu tố quan trọng tạo nên sự đồng nhất của mọi sự vật, thường được gọi là Thiên nhân hợp nhất hay Thiên địa vạn vật đồng nhất thể.  Khí công hay các công phu dưỡng sinh có thể xem như là những phương pháp tập luyện nhằm giúp con người vận dụng và phát huy tính hợp nhất này vào mục đích trị bệnh hoặc tăng cường sức khoẻ.  Trong cơ thể con người, phần khí thường được gọi là chân khí hoặc nội khí.  Nội khí là một dạng vật chất tinh vi lưu hành khắp phủ tạng, kinh lạc, để duy trì hoạt động sống của cơ thể con người.  Nội khí được tạo thành bởi ba thành phần cơ bản.  Khí tiên thiên được hấp thu từ tinh huyết của cha mẹ từ lúc sinh ra.  Khí hậu thiên do Tỳ Vị chuyển hoá từ thức ăn thức uống hàng ngày. Thành phần còn lại là thiên khí hoặc địa khí do cơ thể hấp thu từ vũ trụ bên ngoài.  Như vậy, trong khi chúng ta không thể thay đổi được khí tiên thiên thì ngược lại có thể cải thiện điều kiện sinh hoạt, ăn uống để bồi dưỡng khí hậu thiên, và thông qua tập luyện dưỡng sinh để tăng cường hấp thu thiên, địa khí cho yêu cầu dưỡng sinh ích thọ.
Tương quan giữa khí hoá và vật chất
Khí hoá là một hiện tượng xuyên suốt trong mọi hoạt động sống của con người.  Giống như nước có thể đông lại thành đá, cũng có thể bay lên thành hơi nước, y học phương Đông quan niệm năng lượng và vật chất, phần khí và phần hình vốn dĩ chỉ là hai dạng khác nhau của cùng một thể. Tụ lại thành hình, tán ra hoá khí.  Những nghiên cứu vật lý cũng cho thấy vật chất tồn tại có hai hình thức.  Một loại là thực thể do những hạt cơ bản cấu tạo nên. Loại kia ở trạng thái trường mà cơ quan cảm giác của con người thường không thể nhận biết được. Hình và trường không tách rời nhau và trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong cơ thể con người, do sự chuyển hoá giữa hai yếu tố nên những uất khí ngưng kết lâu ngày có thể tạo thành ung nhọt.  Ngược lại, tác động khí hoá của khí công hoặc ý niệm có thể làm tan chỗ kết tụ, tán sỏi hoặc tiêu u xơ. Đối với cơ chế sinh bệnh, những rối loạn về cảm xúc hoặc những khắc nghiệt của môi trường có thể tác động đến phần khí làm rối loạn hoạt động chức năng của các cơ quan. Qua thời gian, nếu sức đề kháng kém hoặc điều kiện sinh hoạt không được cải thiện thì rối loạn khí hoá ban đầu sẽ dẫn đến những tổn thương thực thể và gây ra những bệnh tật nghiêm trọng hơn. Ngược lại, ở một người có sức khoẻ tốt, có khả năng điều hoà cảm xúc hoặc thường luyện tập dưỡng sinh để nâng cao ngưỡng chịu đựng của cơ thể thì người này sẽ dễ dàng hoá giải những bất lợi của môi trường để giữ gìn sức khoẻ.
Sự tương tác giữa những trường năng lượng con người
Từ thế kỷ XII, hai nhà thông thái Boirac và Liebeault đã cho rằng trong cơ thể con người tiềm tàng một loại năng lượng có thể gây tương tác từ xa. Có người chỉ cần sự có mặt của họ cũng có thể gây ảnh hưởng khoẻ mạnh hoặc không đối với người khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Von Reichenbach đã trải qua gần 30 năm để nghiên cứu về loại năng lượng liên quan đến con người. Các thí nghiệm của ông cho thấy năng lượng con người vừa có tính hạt giống như chất lỏng, vừa có tính sóng giống như ánh sáng. Nó có tần số ở khoảng giữa vùng màu đỏ và máu tím xanh của dãy quang phổ. Ông cũng mô tả được tính phân cực của loại năng lượng trong cơ thể người giống như nguyên lý âm dương được đề cập trong y học phương Đông. Năm 1911, tiến sĩ William Kilner đã mô tả kỹ hơn về diện mạo của loại trường khí xuyên suốt và bao quanh cơ thể con người. Đó là một màng sương mờ gồm ba lớp. Lớp trong cùng màu sẫm hơn hai lớp kia, ở sát mặt da, dày khoảng 1/4 inch. Lớp giữa giống như khí hơi nước, dầy khoảng 1 inch. Lớp ngoài cùng có màu sáng  nhạt hơn, có đường bao quanh không rõ rệt, vượt ra khỏi lớp trong khoảng 6 inch. Tiến sĩ Victor Inyushin thuộc trường Đại học Kazakh ở Nga đã tiến hành nghiên cứu về trường năng lượng này từ những năm 1950. Ông cho biết trường này gồm những ion, proton và các electron tự do. Một phần của đám mây năng lượng này bức xạ ra bên ngoài, chuyển dịch trong không khí và có thể ảnh hưởng đến các sinh thể chung quanh. Trên thực tế, nền văn hoá cổ phương Đông đã nói đến những vòng hào quang bao quanh cơ thể con người từ hàng ngàn năm về trước. Ngành khí công cũng đã có truyền thống chữa bệnh không tiếp xúc thông qua tương tác khí hoá từ xa. Một trong những nguyên tắc chữa bệnh bằng khí công là sự hoà hợp giữa người chữa và người bệnh. Người chữa sẽ dùng năng lực của tư tưởng để tạo nên sự hợp nhất giữa trường khí năng lượng của mình và trường khí của người bệnh. Trong quá trình này, trường khí cân bằng và ổn định của người chữa sẽ tác động điều chỉnh trường khí rối loạn và mất cân bằng của người bệnh. Hiệu quả chữa bệnh và liệu trình dài hay ngắn sẽ tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và năng lực khí công của người thầy. Những thầy thuốc Đông y thực hành châm cứu, bấm huyệt cũng hiểu rằng chân khí sung mãn của thầy thuốc sẽ tác động rất hửu ích cho công tác điều trị bệnh nhân. Ngược lại, người thầy cũng dễ bị trược khí, tức khí bệnh từ người bệnh truyền sang. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta có cảm giác khó chịu, mệt mỏi, ê ẩm hoặc thậm chí đau tức ở đâu đó trong cơ thể sau khi đi viếng đám tang hoặc tiếp xúc lâu với một người, nhất là những người bệnh nặng. Điều này có thể là do tương tác sinh học giữa các trường khí gây ra. Đối với người có sức đề kháng tốt, sự khó chịu sẽ tự biến mất sau vài khắc hoặc vài giờ rời khỏi hiện trường. Một vài trường hợp nặng hơn, dân gian có cách hoá giải bằng  cách “xông hơi giải cảm” để đuổi trược khí ra khỏi cơ thể qua đường mồ hôi. Quy luật về tương tác sinh học cũng thể hiện trong nhiều mặt khác nhau của cuộc sống. Một người, nhất là những người có ý chí mạnh, có thể tạo ra những ảnh hưởng tâm lý trên những người chung quanh. Sự buồn bã, ủ rũ có thể kéo theo sự bi lụy của những người bên cạnh. Sự tức giận có thể kích động người khác tức giận theo. Hiệu ứng đám đông không chỉ là hiệu ứng tâm lý mà còn là do tính tương tác và sự cộng hưởng của những trường khí sinh học. Điều này có thể giải thích tại sao trường khí hiền hoà của một thiền sư có thể nhiếp phục một con hổ dữ hoặc tại sao một số người cảm thấy an tịnh hoặc ngồi thiền, vận khí dễ dàng khi ở bên cạnh người thầy hoặc khi cùng tập với một tập thể.

Stress có thể ví như một dây xích gồm một chuỗi những ý niệm tiêu cực, như những móc xích đan xen nhau liên tục, vây kín, phong toả  lấy tâm thức con người.  Chỉ cần chặt đứt một mắt xích là có thể vô hiệu hoá được cả dây xích để giải phóng cơ thể khỏi sự ràng buộc của những tâm lý tiêu cực.

Tương tác giữa ý niệm, cảm xúc và hoạt động khí hoá

Từ trên 4000 năm trước, y học phương Đông đã biết được những tác động xấu của những cảm xúc thái quá đối với sức khoẻ con người. Nội kinh ghi “trăm bệnh đều do nơi khí sinh ra”. Chẳng hạn, giận quá có thể làm khí thăng lên, buồn quá có thể làm khí tiêu đi, suy nghĩ quá có thể làm khí kết lại. Những cảm xúc thái quá sẽ làm rối loạn khí hoá những tạng phủ có liên quan và qua mối quan hệ sinh khắc có thể làm mất cân bằng của toàn hệ thống và gây bệnh. Những nghiên cứu về hệ quả  Stress của khoa học ngày nay cũng cho thấy những căng thẳng tâm lý hoặc những cảm xúc nội tâm bị dồn nén lâu ngày sẽ làm rối loạn hoạt động của hệ giao cảm, làm tăng tiết các nội tiết tố Stress, suy giảm hệ miễn dịch, nên có thể gây ra rất nhiều bệnh tật khác nhau. Tâm bình khí hoà và những ý niệm tích cực, lạc quan sẽ mang lại sức khoẻ. Ngược lại, những thán oán, sầu khổ hoặc những tư tưởng bi quan tiêu cực sẽ dẫn đến bệnh tật.
Tiến sĩ Daniel Mroczek và các cộng sự thuộc trường Đại học Indiana, Hoa kỳ đã thực hiện một công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của những rối loạn cảm xúc lên sức khoẻ và tuổi thọ của con người. Cuộc thí nghiệm được tiến hành trên 1.600 người tình nguyện. Với các thử nghiệm tiêu chuẩn, những người này đã được theo dõi, đánh giá tình trạng cảm xúc và diễn biến về sức khoẻ trong suốt 18 năm.  Kết quả cho thấy những người hay bị stress, dễ lo sợ, cáu gắt thường có nguy cơ tử vong sớm do bệnh ung thư hoặc tim mạch. Nói đến Stress, nhiều người  thường nghĩ đến những biến cố lớn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý con người như thi hỏng, thất nghiệp, bệnh tật hoặc người thân qua đời. Tuy nhiên không cứ gì những sự cố gây sốc hoặc những tình huống trái lòng nghịch ý, chỉ cần quá bươn chải theo cơn lốc của cuộc sống, nhịp sống quá nhanh hoặc lịch làm việc quá dầy đặc cũng có thể làm cho hệ thần kinh căng thẳng, quá tải và suy nhược. Để tránh hệ quả này, các chuyên gia tâm lý thường khuyên chúng ta nên sắp xếp công việc hợp lý, phải biết “tri túc thiểu dục” (ít muốn biết đủ), bằng lòng và hoà hợp với cuộc sống. Tuy nhiên những điều này dường như không dễ làm được trong một xã hội cạnh tranh, nhiều cám dổ và luôn bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ như hiện nay. Do đó, điều quan trọng hơn là  phải biết tự tạo cho mình những giây phút tỉnh thức ngay trong cuộc sống hiện tại, sao cho vẫn sống trong  dòng chảy bất tận của những ý niệm lăng xăng hàng ngày mà vẫn không bị nó đồng hoá hoặc làm ô nhiễm. Tỉnh thức và  thư giãn không nhất thiết phải cần đến những bài quyền, điệu vũ đẹp mắt, những động tác yoga điêu luyện, cầu kỳ hoặc hàng giờ đồng hồ nhập tĩnh của những vị thiền sư. Stress có thể ví như một dây xích gồm một chuỗi những ý niệm tiêu cực, như những móc xích đan xen nhau liên tục, vây kín, phong toả  lấy tâm thức con người. Chỉ cần chặt đứt một mắt xích là có thể vô hiệu hoá được cả dây xích để giải phóng cơ thể khỏi sự ràng buộc của những tâm lý tiêu cực. Do đó, những giấc ngủ trưa* ngắn khoảng 15 phút, một vài động tác căng giãn tối đa của yoga, một thời thiền ngắn khoảng 10 phút mỗi ngày… đều có thể giúp giải toả căng thẳng tâm lý hoặc ngăn chặn sự liên kết của những cảm xúc tiêu cực.
Để chặt đứt những mắt xích tiêu cực, có thể không phải chờ đến buổi tối hoặc đến cuối tuần, cũng không chiếm dụng bất cứ thời gian hoặc không gian riêng biệt nào, mỗi người có thể tạo nên tập quán tỉnh thức bằng cách thỉnh thoảng chỉ cần hướng sự chú ý của tâm thức vào một vài hơi thở của bản thân. Hít vào đến bụng dưới, thở ra chậm trong khi từ từ buông lỏng toàn thân, chú trọng buông lỏng phần vai, hai cánh tay. Chỉ cần một hay vài hơi thở mỗi lần. Có thể thở ở bất cứ nơi đâu, hầu như ở bất kỳ tư thế nào, ngay cả lúc đang làm việc. Thở sâu đến bụng dưới có tác dụng sinh khí tại Đan điền và tăng cường nội khí. Thư giãn cơ bắp sẽ thư giãn được thần kinh. Chú tâm vào hơi thở sẽ làm gián đoạn những cảm xúc âm tính; thì thở ra dài có thể tăng cường ức chế giao cảm. Do đó, thỉnh thoảng chú tâm vào một vài hơi thở là một phương pháp đơn giản nhưng đã vận dụng đồng bộ được nhiều cơ chế để điều hoà thần kinh giao cảm, giúp kiểm soát cảm xúc, giải toả stress và phục hồi sinh lực. Đối với những trường hợp bệnh mạn tính, cách thở này có tác dụng tăng cường chính khí, và thông qua sự tự điểu chỉnh của hệ thần kinh trung ương, hoạt động khí hoá cũng như các hoạt động nội tiết, nội tạng sẽ dần dần được phục hồi để cơ thể vươn lên đẩy lùi bệnh tật.
Cải thiện khí hậu thiên thông qua chế độ ăn uống
Bên cạnh việc tập luyện dưỡng sinh, chế độ ăn uống có ảnh hưởng rất lớn đên sức khoẻ và điều kiện tinh thần của con người. Ăn uống là nguồn cung cấp khí hậu thiên cho cơ thể nhưng ăn uống không khéo lại cũng là một nguyên nhân gây bệnh. Giáo sư Oshawa (1893-1965) là một người Nhật đã có công đề xướng và truyền bá Macrobiotocs, một phương pháp chữa bệnh  dưỡng sinh bằng cách ăn uống ngủ cốc thô và các loại rau, quả, củ không có sự hỗ trợ của hoá chất. Ông cho rằng thức ăn thức uống không chỉ nuôi sống thể xác mà qua sự lựa chọn những loại thực phẩm có năng lượng Âm hoặc Dương thích hợp có thể phát triển tinh thần và cải thiện hành vi, tâm lý con người. Ngày nay, nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau cũng cho thấy giá trị trị liệu quan trọng của các loại thực dưỡng. Chẳng hạn ăn nhiều các loại cá, dầu cá có nhiều axít béo omega 3 có thể giúp chữa các chứng trầm cảm và ngăn ngừa các bệnh lý về tim mạch như đau ngực, đột quỵ; ăn nhiều các loại ngũ cốc thô và rau quả  có thể cung cấp nhiều sinh tố và vi chất là những chất chống oxy hoá có thể cải thiện tim mạch và tăng cường hệ miễn dịch để phòng chống nhiều loại bệnh tật khác nhau.
Nói chung, sức khoẻ và tuổi thọ là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Yếu tố nầy có thể làm nhẹ đi sự cần thiết của một yếu tố khác nhưng không hẳn  có thể thay thể lẫn nhau. Thuốc men, vận động thân thể, thư giãn, khí công đều rất hữu ích nhưng không thể xem thường yếu tố ăn uống, nhất là trong điều kiện hiện nay khi phần lớn thực phẩm là thực phẩm công nghiệp. Thực phẩm công nghiệp không chỉ tiềm tàng nhiều hoá chất độc hại mà còn thiếu chất xơ và nhiều vi chất cần thiết khác chỉ tìm thấy trong rau quả tự nhiên và trong lớp ngoài của ngũ cốc, đậu và các loại hạt có vỏ cứng. 
* Kết quả của một nghiên cứu do sự phối hợp giữa  trường Đại học Y khoa Hy lạp và Đại học Y Harvard kéo dài 6 năm tại  Hy Lạp trên 23.681 người từ 20 đến 86 tuổi cho thấy: những người ngủ trưa khoảng 30 phút mỗi ngày,  ít nhất 3 lần mỗi tuần, có tỉ lệ tử vong do bệnh tim thấp hơn 37% so với những đối tượng không ngủ trưa. Các nhà nghiên cứu Androniki Noska và  Dimitrios Trichopoulos còn cho biết thêm tại các nước có số ca tử vong thấp, thói quen ngủ trưa là khá phổ biến.  Những nhà khoa học này cho rằng ngủ trưa giúp thư giãn, giảm stress do đó  giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Mới đây theo tin từ báo Telegraph, ngành dịch vụ công ở Đức đang phát động chương trình khuyến khích công chức nên ngủ trưa. Các giới chức ở Đức tin rằng sau giấc ngủ trưa công chức có khả năng tập trung và làm việc hiệu quả hơn. Các nhà khoa học thuộc trường Đại học Kentucky còn đưa ra một giải pháp tích cực.  Mỗi người nên bỏ ra từ 10 đến 15 phút vào buổi trưa để ngồi tĩnh toạ, hoặc quan sát hơi thở hoặc nhẩm một từ nhất định ở thì thở ra. Điều này sẽ giúp thư giãn thần kinh và cơ, nảo bộ sẽ hoạt động hiệu quả hơn mà không gây buồn ngủ hoặc mệt mỏi như những trường hợp bình thường.

Võ Hà 

Dưỡng sinh và dưỡng đức

Dưỡng sinh và dưỡng đức 


Nói đến dưỡng sinh, người ta thường nghĩ ngay đến các phương pháp luyện tập thân thể, như thái cực quyền, tọa thiền, tĩnh tọa, xoa bóp, bấm huyệt... Thực chất Dưỡng sinh trong Đông y là khoa học tổng hợp,  bao gồm cả triết học, luân lý đạo đức,  kinh tế, chính trị, thậm chí cả nghệ thuật, chứ không đơn thuần là vấn đề sinh lý. Theo Đông y cổ truyền, dưỡng sinh còn bao gồm các vấn đề dưỡng tính và dưỡng đức.
Đông y học quan niệm rằng sức khỏe và tuổi thọ không chỉ liên quan đến tới các hoạt động sinh lý trong cơ thể con người. Sức khỏe và tuổi thọ có mối tương quan mật thiết với đời sống xã hội và hoàn cảnh tự nhiên. Do đó, ngay từ khi hình thành, Đông y đã được xây dựng theo mô hình “tự nhiên - sinh học - tâm lý - xã hội”. Đông y luôn luôn nhìn nhận con người như một thành phần trong tự nhiên. Cơ thể người được nhìn nhận như một “hệ thống mở”; hoạt động sinh mệnh gắn liền với những biến đổi của môi trường, sinh thái và hợp thành một thể thống nhất (thiên nhân hợp nhất).
Dưỡng sinh bất như dưỡng tính
Từ xưa Đông y vẫn coi dưỡng sinh là bộ phận trọng yếu trong phòng chống bệnh tật, tăng cường sức khỏe, kiềm chế lão suy và kéo dài tuổi thọ. Dưỡng sinh bao gồm nhiều nội dung, cùng rất nhiều hệ thống thực hành khác  nhau, nhưng phần lớn y gia từ xưa đều cho rằng: “Dưỡng sinh bất như dưỡng tính” (Dưỡng sinh không bằng dưỡng tính).  “Dưỡng tính” thuộc phạm trù “tình chí” trong Đông y học và tương ứng với phạm trù “vệ sinh tâm lý” trong y học hiện đại. Trên thực tế bao quát cả vấn đề tu dưỡng đạo đức, di dưỡng tinh thần,  cùng toàn bộ đời sống tình cảm của mỗi con người.
Trong “dưỡng tính”, người xưa chú trọng nhất tới 2 phương diện: “Điều nhiếp tình chí” và “Tu dưỡng đức hạnh”. Do sự biến động của tình chí và  đạo đức có liên quan hết sức mật thiết tới sức khỏe tâm thần của mỗi con người. “Tình chí” được Đông y quy nạp thành “thất tình” bao gồm: hỷ (vui), nộ (tức giận), ưu (lo lắng), tư (nghĩ ngợi), bi (buồn), khủng (sợ hãi), kinh (sửng sốt quá mức). “Thất tình” hình thành dưới tác động, những kích thích của các nhân tố từ bên ngoài; là phản ứng của cơ thể về phương diện tâm lý cũng như sinh lý. Trong những tình huống thông thường, chúng không gây nên bệnh. Nhưng khi những kích thích và phản ứng nói trên quá mạnh hoặc quá lâu dài, hoặc là cơ thể quá mẫn cảm, thì bệnh tật có thể phát sinh: quá vui thì hại “tâm”, tức giận thì hại “can”, nghĩ ngợi quá nhiều làm hại “tỳ”,  u buồn thì hại “phế”, sợ hãi thì hại “thận”...
Dưỡng tính, nghĩa là điều nhiếp tinh thần và tình cảm. Phép tắc quan trọng nhất trong điều nhiếp là giữ cho tình chí được trung hòa; tức là giữ cho tinh thần và tình cảm ở trạng thái cân bằng. Làm được như vậy thì “chân khí” không bị nhiễu loạn, lục phủ ngũ tạng hoạt động điều hòa, “tà khí” từ bên ngoài không thể xâm nhập vào cơ thể. Nhờ vậy mà bệnh tật không thể phát sinh, cơ thể được khỏe mạnh và tuổi thọ kéo dài.
Trong “dưỡng tính”, việc tu dưỡng đức hạnh còn quan trọng hơn. Người thông hiểu dưỡng sinh, lấy tu dưỡng đức hạnh làm đầu và phối hợp với điều dưỡng thân thể. Có đức hạnh thì tâm lý được bình an, ý chí không bị rối loạn. Nhờ vậy mà khí huyết điều hòa, bệnh tật không thể phát sinh. Như Tôn Tư Mạc (581-682) đã nhận định: “Dưỡng sinh là bồi dưỡng cho mình cái tính thiện. Bản tính đã thiện thì bệnh tật từ trong hay từ ngoài đều không sinh ra; biến loạn và tai họa cũng không có lý do phát sinh; đó chính là đạo lớn của phép dưỡng sinh... Còn như đức hạnh chưa hoàn thiện, thì có uống đủ các thứ “kim đan ngọc dịch”, cũng không thể kéo dài tuổi thọ”.  Bản thân Tôn Tư Mạc suốt cả cuộc đời đã kiên trì tu thân và di  dưỡng đức hạnh, nên đã có tuổi thọ trên 100 tuổi,  trăm tuổi vẫn khỏe mạnh sáng suốt, tiếp tục chữa bệnh cứu người, nghiên cứu y thuật và viết sách.
Người nhân đức có tuổi thọ cao
Trong dưỡng đức, chữ “nhân” được y gia đặt lên hàng đầu. Khổng Tử không chỉ là “chí thánh tiên sư” của Nho học, mà còn là một nhà dưỡng sinh kiệt xuất; là người đầu tiên đã phát hiện và đề xướng chân lý: “nhân giả thọ” (người có đức “nhân”, có đạo đức, có tuổi thọ cao). Để giải thích và chứng minh cho luận điểm này, trong các tác phẩm của mình, Khổng Tử  đã đưa ra hàng loạt  dẫn chứng và lý lẽ xác đáng. Tại sao người có đức nhân, có đạo đức, lại có tuổi thọ cao? Đổng Trọng Thư, một triết gia kiêm dưỡng sinh gia nổi tiếng, đã giải thích: Người nhân đức sở dĩ có tuổi thọ cao, là vì không tham lam mà trong lòng luôn luôn thanh tĩnh, tâm bình hòa cho nên âm dương không bị mất cân bằng, nhờ vậy mà hấp thu được những thứ tinh hoa và cái đẹp trong trời đất để nuôi dưỡng và hoàn thiện thân thể.
Quan điểm “nhân giả thọ” đã được y gia trong suốt các đời sau phát huy, phát triển và đã trở thành một trong các bí quyết quan trọng nhất của dưỡng sinh. Để thực  hành dưỡng đức, theo Hoa Đà (141? - 208): người giỏi dưỡng đức, đầu tiên phải biết trừ “lục hại”, như vậy mới có thể bảo vệ được tính mệnh và sống tới trăm tuổi. Muốn trừ lục hại, một là phải coi nhẹ danh lợi, hai là không say mê thanh sắc, ba là không tham lam vật dụng hàng hóa, bốn là bớt của ngon vật lạ, năm là không xu nịnh, sáu là không ghen ghét. Trong 6 thứ có hại đó, trừ “của ngon vật lạ” ra, 5 thứ hại khác đều liên quan đến vấn đề tu dưỡng đạo đức.
Trong phép dưỡng sinh của người xưa, vấn đề tu dưỡng đạo đức được đặt ở vị trí cao nhất. Vì người có nhân đức, thì trong lòng bình yên, tâm lý cân bằng ổn định và ý chí không rối loạn; nhờ đó âm dương luôn luôn cân bằng, khí huyết luôn điều hòa, nên chính khí đầy đủ và  bệnh tật không thể phát sinh.
Cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, yêu cầu của con người đối với sức khỏe  càng cao, đồng thời quan niệm về sức khỏe cũng đã có rất nhiều biến đổi. Từ năm 1984, quan niệm về sức khỏe đã được mở rộng, y học bắt đầu chú ý hơn đối với các nhân tố  tâm lý, xã hội và ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe và bệnh tật của con người. Do đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa: Sức khỏe không chỉ là không có  bệnh tật (disease) hay suy nhược (infirmity), mà là một trạng thái hoàn hảo về thân thể, tinh thần và khả năng thích ứng xã hội.
Tới năm 1990, trong định nghĩa về sức khỏe,  WHO còn đề xuất thêm khái niệm “sức khỏe đạo đức”, chỉ khả năng phân biệt thực giả, thiện ác, vinh nhục, đúng sai; biết kiềm chế và chi phối hành vi và suy nghĩ của mình, trong khuôn khổ các quy tắc đạo đức được xã hội chấp nhận; không gây tổn hại đối với người khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Dưỡng tính, dưỡng đức là vấn đề được Đông y coi trọng từ xưa và cũng là vấn đề có tính thời sự hiện nay. Trong tương lai, chắc rằng dưỡng tính và dưỡng đức sẽ ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc bảo vệ sức khỏe của nhân loại.
Thái Hư 

“Buông bỏ” - liều thuốc phòng trị bệnh hữu hiệu

“Buông bỏ” - liều thuốc phòng trị bệnh hữu hiệu



Thông thường khi nói đến bệnh tật, người ta liên tưởng đến ngay các tạng phủ hoặc các bộ phận khác trên cơ thể, tức là cái bệnh hữu hình, ít ai nghĩ phần tinh thần vô hình cũng bệnh.
Thật vậy, rất nhiều người đã từng đi khám bác sĩ, lương y và cả các trung tâm chẩn đoán y khoa, làm đủ các thứ xét nghiệm: x quang, siêu âm, nội soi… kết quả vẫn không tìm được bệnh lý.
Nếu mọi thứ trong cơ thể đều tốt, thì tại sao cứ rề rề, không có ngày vui khoẻ. Trong người có cảm giác nằng nặng buồn vương và luôn trong trạng thái mỏi mệt, biếng ăn, biếng nói, nét mặt như ẩn chứa một nỗi đau thương, tuyệt vọng.
Hiện nay, loại bệnh này khá phổ biến, không chỉ ở người lớn tuổi mà  ngay cả thanh thiếu niên cũng mắc phải.
Phải chăng, đà phát triển nhanh quá của xã hội là một trong những nguyên nhân gây ra thứ bệnh này? ở phương Tây, người ta gọi chúng là hội chứng stress, còn ở Đông phương được gọi là “thất tình” (hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục)
Tuy nó đã có từ lâu rồi, nhưng đến nay sự tăng tốc của nó thật đáng lo ngại và có lẽ cuộc sống vật chất càng lên cao thì nó vẫn theo đà vượt lên cả chiều sâu lẫn chiều rộng.
Làm sao để chữa được loại bệnh nguy hiểm này? Nó đã gây khổ cho bao người và làm giảm chất lượng cuộc sống của nhiều gia đình. Xin thưa: Muốn trị nó, ta phải truy tìm căn nguyên (trị bệnh tất cầu kỳ bản). Mặc dù y học hiện đại đã tiến bộ vượt bậc nhưng khó chữa được. Bởi lẽ nó không khu trú một chỗ nào nhất định, không hình tướng, không thể thấy… làm sao ta dùng dược phẩm hữu hình mà trừ cái vô hình cho được. Đánh giặc mà không biết rõ mặt mũi và sào huyệt của đối phương thì trăm trận ắt trăm bại, chỉ có cách duy nhất là dùng tâm dược vô hình để điều chỉnh tâm bệnh mà thôi.
Trong kiếp sống, con người có rất nhiều duyên cớ để phát tâm bệnh bất ngờ. Ví dụ: Một gia đình đang sống bình thường, hạnh phúc, kinh tế ổn định, bỗng nhiên người thân yêu nhất là thần tượng trong đời, vội ra đi không ngày trở lại. Hoặc vì lý do nào đó bị phá sản, phút chốc trở thành kẻ trắng tay… đó là những cú sốc làm cho ta chao đảo, mất thăng bằng và sinh ra bệnh. Ngoài ra còn rất nhiều chuyện như: hoài bão không thành, vợ chồng, anh em xung nghịch mà vẫn phải sống chung nhau. Buồn, thương, giận, ghét thái quá cũng là những tác nhân vi tế, nó gặm nhấm ta mãi mãi…
Truyện Kiều có câu:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Có lẽ, nhiều người cũng đã từng trải nghiệm và thấm thía vô cùng. Bởi vì ta mang tâm trạng buồn thương thì dù cảnh đó là cảnh tiên ta cũng thấy chán ngắt, hay có dọn mâm cao cỗ đầy, sơn hào, hải vị cũng chẳng nuốt vô.
Tất cả mọi người không ai ưa cái khổ, cũng không muốn bệnh hoạn, nhưng trùng trùng sự duyên không mời mà đến, quấy nhiễu làm tâm ta bất an, phiền não…  Trước đây, vào năm 1979, giặc Pôn-pốt tấn công làng Ba Chúc, Thất Sơn. Tôi chạy tản cư ở thị trấn Cái Dầu, tỉnh An Giang. Nơi đây có một người đàn bà bị bệnh tâm thần. Bà ta, trên đường đi luôn nhặt tất cả thứ gì rơi rớt, từ những cục đá, ve chai, khúc gỗ … và treo buộc đầy người, dần dần càng nặng nề, đi đứng rất khó khăn, vất vả. Bà vừa đi vừa thở hổn hển trông thật đáng thương. Nhiều người thấy động lòng, cho ăn cho uống và khuyên bà nên bỏ bớt những thứ vặt vãnh cho đỡ mệt nhọc. Không ngờ bà ta nổi cơn thịnh nộ, bà hét to bảo rằng: “Sao mấy người ngu quá vậy! Mang như thế đó mới sung sướng, mới khoẻ. Nếu bỏ đi hết thì tôi thỏng lỏng, khổ chắc chết”.
Qua sự việc trên, tôi cảm thấy có cái gì triết lý trùng hợp với lối suy nghĩ của con người. Trông bà rồi ngẫm lại ta. Dường như bà chỉ mang những thứ vụn vặt bên ngoài thân mà ai ai cũng cho là quá khổ. Còn ta, có thể lớp mang lớp gánh bên trong mà ta không tự biết. Nếu bà biết nghe lời khuyên chân tình của người bình tĩnh thì chắc chắn bà sẽ dễ chịu hơn, nhẹ nhàng hơn. Chúng ta cũng thế, những thứ ngổn ngang bên trong, ta hãy mạnh dạn buông bỏ thì tuyệt biết chừng nào.
Thì ra “buông bỏ” là một liều thuốc hay là một giải pháp tốt, khôn ngoan, hữu hiệu nhất, phòng và chữa tuyệt gốc căn bệnh “thất tình”.
Nếu chúng ta khôn khéo, mỗi thứ toại ý hay nghịch lòng đến với ta, ta đều dung nạp, chất chứa, vô tình mảnh đất tâm ta sẽ thành bãi rác đáng kinh tởm. Thiết nghĩ, chúng ta nên tương kế tựu kế, bất cứ thứ gì thiện ác tốt xấu, thuận nghịch lãng vãng tìm đến, ta nên bình tĩnh, khách quan, quan sát nó, xem diễn biến nó thế nào, không thêm tạo tác ý khen chê, thương ghét, tựa như người xem phim theo dõi diễn biến sự việc, nhất định sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống. Xa hơn, chúng ta tiến đến “vô tâm” như mặt nước hồ thu, tất cả chim trời, mây bay, gió thoảng đi ngang qua nó vẫn im bóng, nhưng qua rồi thì thôi, không để lại dấu vết nào. Dần dần, tâm ta lắng đọng, biến khổ nạn thành an vui, đổi bệnh tật thành sức khoẻ, tự tại.
Có người bảo “nói thì dễ mà làm mới khó”. Đúng vậy, phải nói là quá khó, bởi vì đối phó với thứ bệnh vô hình, nó vi tế, không hành tung, nhưng phát tác dụng rất đáng sợ, làm sao dễ được. Đòi hỏi ta phải nỗ lực, có ý chí, tích cực tự cứu lấy, đừng hy vọng ở phương thuốc hay vị thầy nào giúp được.
Ngược lại, nếu chúng ta cứ chấp nhặt, mặc cho thất tình dẫn dắt ta vào thế giới vô định mịt mù ta sẽ ra sao?
Nếu ta thất bại trong tình trường, trong nền kinh tế hay bệnh tật… mà ta ngồi rầu rĩ than thân trách phận, liệu có giải quyết được gì không? hay chỉ thêm đau khổ và mau đi đến tàn rụi và chết chóc.
Rất nhiều người biết mình bị bệnh ngặt nghèo, lòng lo sợ không nguôi, tinh thần suy sụp, vô tình tạo điều kiện cho bệnh tật tấn công. Cơ thể kém đề kháng và bệnh phát như ong vỡ tổ, rồi kết quả là đã chết nhanh hơn dự định.
Một số ít khác có nghị lực, gan dạ, bình tĩnh quan sát diễn biến của bệnh, thưởng thức cái chết từ từ như thế nào. Cuối cùng họ vượt qua, vẫn vui sống đến ngày nay, bệnh cũng không tiến triển.
Kiếp người không ai không bị khổ nạn, bệnh tật và gặp nhiều nghịch cảnh. Cả thế giới đều bình đẳng, đều như vậy, nó là di sản chung của nhân loại, đâu phải dành cho cá nhân nào.
Thế nên chỉ có liều thuốc “buông bỏ” không tham đắm, không cố chấp, cái gì đến cứ đến, cái gì đi cứ đi. Tâm ta rỗng rang đâu có chỗ cho cho đau khổ và bệnh tật trú ngụ.
Không những giải pháp “buông bỏ” rất hữu hiệu với tâm bệnh mà vẫn có công dụng với thân bệnh.
Như vậy, ta đã dùng liều thuốc hảo hạng, không trị mà trị. Khi mảnh đất tâm hồn không còn những thứ cỏ độc, gai góc, chắc chắn sức khoẻ và trí tuệ sẽ có cơ hội nẩy mầm và lớn mạnh. Chúng ta được dịp chia sẻ những kinh nghiệm hạnh phúc, vui sống đến những người thân và tất cả mọi người.

Trần Văn Thoại