Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Bài trị Chứng can dương hư trong đông y

  Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương.

Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương. Gọi là thổ âm mà dụng dương, cho nên chứng can hư là do huyết thiếu, huyết không đủ để nuôi cơ thể, cũng có trường hợp do khí suy mà tác dụng của huyết không mạnh, vì khí dẫn huyết đi nuôi cơ thể.

Chứng can dương hư thường biểu hiện các triệu chứng: 

Tình chí u uất, rầu rĩ không vui, hay sợ hãi, mắt tối sầm nhìn mọi vật không rõ, người lạnh sợ lạnh, hạ sườn bên phải đau tức, tay chân lạnh, đầu mình tê dại, mặt tái xanh, móng tay móng chân nhợt mà khô, lãnh cảm với tình dục. Đối với phụ nữ thì bụng dưới lạnh đau, kinh nguyệt kéo dài hoặc kinh nguyệt không đều, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoặc huyền trì.

Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

Triệu chứng Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

người mệt mỏi, hay uất giận, tay chân lạnh, hay lười biếng, thận lạnh hoạt tinh mà không mộng.

Điều trị Do ưu sầu sinh chứng can dương hư: 

tiềm dương ích khí, bổ can thận.

Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

Triệu chứng Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng): 

móng tay móng chân khô, nhợt nhạt, gân bị co rút do bị hàn lạnh, tay chân mỏi rã rời cầm nắm khó khăn, mắt mờ, hay uất ức, bộ phận sinh dục ẩm ướt mà lạnh, lãnh cảm với tình dục, bụng đầy tức, ăn uống kém...

Điều trị Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

ôn dương bổ can ích khí phù tỳ.

Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

Triệu chứng Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

kinh nguyệt không điều hòa vì khí không vận chuyển được huyết để hành kinh, kỳ kinh đến muộn, bế kinh, hai mạn sườn đau nhức, bụng dưới lạnh mà đau, bào cung bị hàn không thể thụ thai, đới hạ ra nhiều trong mà lạnh.

Điều trị Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa: 

ôn bổ khí huyết, điều kinh.


Bài trị Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

 Chứng can mộc khắc tỳ thổ thường gặp trong các bệnh như: tiết tả, hiếp thống, cổ trướng, phúc thống, kinh nguyệt không đều, đới hạ...

Nguyên nhân chính Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

do can uất khí trệ, can khí lấn tỳ thổ, tỳ mất sự kiện vận, hoặc do tỳ hư thấp tà ấp ủ, làm cho thổ ủng tắc. Mộc bị uất, dẫn đến công năng của hai tạng can và tỳ không điều hòa mà sinh bệnh. Bệnh phần nhiều do uất ức, cáu giận làm tổn hại đến can, dẫn đến ăn uống kém, mệt nhọc, tư lự quá độ làm tổn thương tỳ mà sinh ra bệnh.

Biểu hiện Chứng can mộc khắc tỳ thổ : 

Bệnh nhân hay thở dài, tinh thần ức chế, ngực sườn trướng đầy đau, hay thở dài, hoặc tâm phiền dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, ăn uống kém, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão, sôi bụng, hay trung tiện, hoặc đau bụng tiêu chảy, rêu lưỡi trắng hoặc nhớt, mạch huyền. Tùy từng chứng trạng mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ (tích trệ của thức ăn)

Triệu chứng Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ: 

Bệnh nhân ngực sườn bí đầy, ợ hơi, ăn kém, hay cáu giận, uất ức, tinh thần bị căng thẳng sinh chứng đau bụng tiêu chảy.

Phép  trị Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ:

 Ức can phù tỳ.

Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết 

mà sinh bệnh hiếp thống (đau hai bên mạng sườn)

Triệu chứng Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết: 

Khi đau ở mạng sườn chủ yếu là trướng đau, đau xiên suốt cả vùng ngực. Cơn đau xuất hiện khi cáu giận, uất ức thì bệnh nặng thêm, nếu bệnh lâu ngày không được điều trị thì can khí lấn tỳ thổ,  ngoài các chứng đau còn kèm chứng ăn kém, mắt và mặt phù nhẹ, tay chân bứt rứt khó chịu.

Điều trị Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết

Sơ can lý khí kiện tỳ.

Do cơ thể bị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận, 

thủy thấp ứ đọng can, khí huyết ngưng trệ, mạch lạc ứ nghẽn, dần dần phát sinh cổ trướng

Triệu chứng cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Trên lâm sàng nghiêng về khí trệ thấp nghẽn, cho nên bụng to ấn vào không rắn, da bụng căng, dưới sườn trướng đầy, đau, ăn kém, sau khi ăn thì bụng đầy trướng, ợ hơi khó chịu, tiểu tiện sẻn, ít, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền.

Phép trị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Sơ can lý khí, trừ thấp tiêu đầy.

Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận 

mà gây nên bệnh phúc thống (đau bụng).

Triệu chứng Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

 Bệnh nhân ăn kém, bụng trướng đầy, có khi đau lan tỏa xuống bụng dưới, hoặc đau không cố định, khi ợ hơi hoặc trung tiện thì đỡ đau.

Phép trị Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

Sơ can lý khí.

Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn,

 làm mất chức năng sơ tiết, hai mạch xung nhâm không điều hòa, can uất lấn tỳ, tỳ hư không thống huyết, huyết hải tràn ứ thất thường mà sinh bệnh kinh nguyệt không đều.

Triệu chứng Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn:

 Bệnh nhân ra kinh trước kỳ, hoặc sau kỳ, lượng kinh có thể nhiều, có thể ít, hành kinh khó khăn, sắc kinh tối, có hòn cục, ngực sườn và hai bầu vú căng cứng, bụng dưới trướng nặng và đau, có khi phiền táo, giận giữ, biếng ăn...

Phép trị Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn: 

Sơ can kiện tỳ, dưỡng huyết điều kinh.

Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can. 

Can khí hoành nghịch phạm tỳ, tỳ mất chức năng vận hóa, sinh ra thấp trọc, thấp nhiệt uất lâu ngày hóa nhiệt, thấp nhiệt dồn xuống, làm tổn thương mạch xung và mạch đới mà sinh chứng đới hạ (khí hư ra nhiều)...

Triệu chứng Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can:

 Bệnh nhân hoàng đới (khí hư có màu vàng) ra liên miên không dứt, keo dính có mùi hôi, hoặc chảy ra nước vàng có kèm theo huyết dịch. Bộ phận sinh dục nóng rát hoặc ngứa, miệng đắng họng khô, tâm phiền hay cáu giận, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão.

Điều trị Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can: 

Sơ can thanh nhiệt lợi thấp.

Bài trị chứng thận khí hư trong đông y

 Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau...

Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau, xem mạch bộ xích tay phải và tay trái, có mạch phù và sác, đó là bên dưới thực. Đại, tiểu tiện khó, ăn uống lúc khá, lúc kém, lưng và chân nặng nề, đi lại khó khăn, đó là chứng thận khí hư”.

Chứng thận khí hư :

là do nguyên khí trong thận hư suy, xuất hiện các chứng trạng về công năng của thận bị giảm sút. Bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, do mắc chứng hư lao làm tổn thương quá mức hoặc do ốm đau lâu  ngày, do tuổi cao thận khí suy yếu hoặc do tình dục quá độ làm tinh khí hư suy liên lụy đến thận mà sinh ra bệnh. Chứng thận khí hư thường gặp trong các bệnh như: tai điếc, tai ù, hư lao, đau lưng, hai chân lạnh, liệt dương, di tinh, có trường hợp rối loạn cương dương, nam giới dẫn đến vô sinh...

Biểu hiện Chứng thận khí hư

thính lực giảm, tai ù, choáng váng, lưng gối yếu mỏi, ban đêm tiểu tiện nhiều lần, hoạt tinh, tảo tiết, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.

Theo Đông y, thận chứa tinh, tinh hợp với chí, thận khí hư thì hay chuột rút. Chứng thận khí hư thì khí trong thận khí không bền, khi giao hợp xuất tinh sớm, do dương không khống chế được âm nên đêm đi tiểu nhiều lần. Do thận khí hư, thận không đủ tủy để nuôi dưỡng não cho nên bệnh nhân hay choáng váng, ù tai, tai điếc.

Có thể thấy rõ chứng thận khí hư với các chứng trạng ở hạ tiêu khá đột xuất và khá nặng như: Hạ tiêu hư hàn không đủ sức ấm để khống chế thủy dịch cho nên tiểu tiện không tự chủ được. Chứng thận khí hư bệnh chủ yếu ở hạ tiêu. Cơ chế của chứng thận khí hư giới hạn ở nguyên khí của tạng thận hư yếu gây nên.

Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống (đau lưng). 

Lưng là phủ của thận, nếu xoay chuyển khó khăn là thận sắp suy bại. Bệnh phần nhiều do những nhân tố như: ốm lâu ngày, tuổi cao, phòng dục quá độ làm cho thận bị hư tổn mà sinh bệnh.

Triệu chứng Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống

Lưng đau mỏi dai dẳng không dứt, khi mệt nhọc thì bệnh tăng lên, khi nằm thì đỡ đau.

Điều trị Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống: 

Bổ thận, khi thận mạnh thì hết đau lưng.

Chứng thận khí hư xuất hiện các chứng:

tai điếc, tai ù, chóng mặt, choáng váng. Thận chủ về tai, thận khai khiếu ra tai. Thận hư thì tinh không dâng lên cho nên thính lực giảm. Thận hư thì thủy suy mà mộc chao đảo.

Triệu chứng Chứng thận khí hư : 

Bệnh nhân tai ù, tai điếc, hoa mắt, chóng mặt, tinh thần ủy mị, lưng yếu mỏi.

Điều trị Chứng thận khí hư : 

bổ thận, tráng dương sinh tinh khí.

Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Do buông thả tình dục, phòng lao quá độ tổn hại thận khí mà sinh bệnh.

Triệu chứng Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Liệt dương, di tinh, tảo tiết, sinh lý giảm sút, tinh thần mệt mỏi, choáng váng, tay chân lạnh mà yếu.

Điều trị Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh

Bổ thận tráng dương, cố tinh.

Do thận khí hư xuất hiện chứng hư lao.

Do phòng lao quá độ, lao động mệt nhọc,  ốm lâu ngày, do già yếu mà sinh bệnh.

Triệu chứng thận khí hư xuất hiện chứng hư lao: 

Đầu choáng váng, tai ù, thính lực giảm sút, lưng gối mỏi, hay tiểu tiện về ban đêm…

Điều trị thận khí hư xuất hiện chứng hư lao:

 Đại bổ nguyên khí.

Bài ổn định huyết áp theo y học cổ truyền

 Tìm hiểu các tài liệu của Y học cổ truyền (YHCT) nói về bệnh tăng huyết áp của y học hiện đại là điều không đơn giản. Tăng huyết áp của y học hiện đại không có từ đồng nghĩa trong bệnh học YHCT. Các triệu chứng cơ năng thường gặp trong bệnh lý tăng huyết áp gồm: hoa mắt, chóng mặt; YHCT xếp vào chứng huyễn vựng; đau đầu gọi là chứng đầu thống. Đánh trống ngực, hồi hộp gọi là chứng tâm quý, chính xung. Đau ngực gọi là tâm thống, khó thở gọi là tâm trướng.  Hôn mê, liệt nửa người gọi là chứng trúng phong.

Nguyên nhân bệnh tăng huyết áp theo YHCT có thể:

- Do thất tình như giận, lo sợ gây tổn thương 2 tạng can, thận âm.

- Do bệnh lâu ngày, thể chất suy yếu, thận âm, thận dương suy (thận âm suy hư hỏa bốc lên, thận dương suy chân dương nhiễu loạn lên trên).

- Do đàm thấp ủng trệ gây tắc các khiếu. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại tỳ vị hoặc do thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.

Bệnh tăng huyết áp theo YHCT cócác thể lâm sàng:

Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung (thể âm hư dương xung): 

trong bệnh cảnh này ngoài chỉ số huyết áp cao thường hay dao động, người bệnh thường đau đầu với tính chất căng hoặc như mạch đập, ở đỉnh đầu hoặc một bên đầu, thường kèm cơn nóng phừng mắt, hồi hộp đánh trống ngực, người bứt rứt. Mạch đi nhanh và căng (huyền).

Phép trị Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung

bình can, giáng nghịch, bình can tức phong (nếu là cơn tăng huyết áp).

 Bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư: 

ngoài chỉ số huyết áp cao, tình trạng uể oải, mệt mỏi thường xuyên, đau nhức mỏi lưng âm ỉ, hoa mắt chóng mặt, ù tai đầu nặng hoặc đau âm ỉ, cảm giác nóng trong người, bứt rứt, thỉnh thoảng có cơn nóng phừng mặt, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ kém có thể táo bón. Mạch trầm, huyền, sác, vô lực.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư:

tư âm ghìm dương hoặc tư âm, bổ thận.

Bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

triệu chứng nổi bật trong bệnh lý này: người béo, thừa cân, lưỡi dày to, tê nặng chi dưới. Thường hay kèm tăng cholesterol máu, mạch hoạt.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

hóa đàm trừ thấp.


Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

Bài trị viêm xoang theo y học cổ truyền

 Bệnh viêm xoang là một trong những căn bệnh mạn tính phổ biến và rất dễ phát sinh bệnh, đặc biệt là vào mùa thu đông, thời tiết lạnh và khô hanh, môi trường ô nhiễm…

Bệnh viêm xoang là một trong những căn bệnh mạn tính phổ biến và rất dễ phát sinh bệnh, đặc biệt là vào mùa thu đông, thời tiết lạnh và khô hanh, môi trường ô nhiễm… Theo y học cổ truyền, nguyên nhân là do cơ địa dị ứng nhiễm khuẩn (huyết nhiệt), dị ứng do lạnh (phế khí hư, vệ khí hư) gặp phải các tác nhân phong hàn, phong nhiệt, nhiệt độc mà gây bệnh

Viêm xoang được chia làm hai loại: 

viêm xoang dị ứng và viêm xoang nhiễm khuẩn. 

Viêm xoang dị ứng: 

Nguyên nhân thường do phong hàn kết hợp với phế khí hư và vệ khí hư. 

Phép chữa Viêm xoang dị ứng:

bổ khí cố biểu, khu phong tán hàn. 

Viêm xoang do nhiễm khuẩn: 

Nguyên nhân thường do nhiệt độc. Có hai thể cấp và mạn tính:

Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể cấp tính:

 Bệnh mới phát, người bệnh ngạt mũi, chảy nước mũi vàng có mủ, xoang hàm và xoang trán đau, viêm mũi, người sợ lạnh, sốt, nhức đầu. 

Phép chữa Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể cấp tính:

thanh phế nhiệt giải độc.

Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể mạn tính: 

Bệnh kéo dài, xoang hàm và trán ấn đau, thường chảy nước mũi có mủ, mùi hôi, mất khứu giác, thường xuyên nhức đầu. 

Phép chữa Viêm xoang do nhiễm khuẩn thể mạn tính: 

dưỡng âm nhuận táo, thanh nhiệt giải độc. 

Huyết hư trong đông y

  Huyết trong Đông y và Máu trong Tây y là một dạng vật chất hữu hình - một loại dịch lỏng, màu đỏ, lưu thông khắp cơ thể, là nền tảng cấu trúc và chức năng của cơ thể. Chứng Huyết hư và Thiếu máu có những nét tương đồng cho chúng ta một sự hình dung về sự giao thoa của hai nền y học.

Chứng huyết hư trong Đông y

Theo Đông y, huyết hư là một chứng hậu, nguyên nhân bao gồm tất cả các yếu tố dẫn đến sự thiếu hụt huyết lưu hành trong tạng phủ, kinh mạch, biểu hiện ra bên ngoài là sự thiếu nuôi dưỡng. Huyết là “tinh” của đồ ăn, thức uống, được nạp vào Vị, được Tỳ hóa ra, rồi vận lên Tâm, Tâm dùng chân âm Hỏa mà hóa sắc đỏ cho “tinh” tạo ra huyết. Huyết lại nương vào Phế để lưu thông khắp cơ thể, rồi lại về tàng trữ ở Can. Thận thuộc Thủy, chủ về tất cả “Thủy”- mà huyết là một loại thuỷ, nên Thận Tinh cũng sinh huyết. Đây là con đường tạo ra và vận hành của huyết trong cơ thể.

Huyết là một phạm trù lớn, thuộc tính Âm trong Âm Dương - nên “thường bất túc” mà sinh Hư chứng. Lẽ ấy là do người xưa quan sát trời đất, thấy Mặt trăng có lúc vơi lúc đầy, so với sự rực rỡ của Mặt trời,thuộc Dương - thì thường sinh thực chứng. Huyết có quan hệ mật thiết với Khí - thuộc Dương - Tạo thành một “cặp đôi” không thể tách rời. Huyết chủ tĩnh, dựa vào khí mà hành, cũng là nơi để khí nương tựa mà thực hiện công năng. Huyết chảy trong kinh mạch tựa như sông ngòi chảy trên mặt đất, nước dồi dào đất được tươi tốt; nước cạn dòng chảy yếu sinh mà ứ trệ.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến Huyết hư, trong đó, Hư lao là một trong những nguyên nhân chính. Hư lao là tên gọi chung của “ngũ lao, thất thương, lục cực”. “Ngũ lao” chỉ sự hoạt động quá sức của cơ thể làm tổn thương ngũ tạng, gồm tâm lao, can lao, tỳ lao, phế lao, thận lao.

Nội Kinh viết: nhìn lâu hại huyết (Tâm) vì huyết dựa vào mạch chứa đựng, các mạch lại quy về mắt, nằm lâu hại khí (Phế) do khí thuộc Dương, Dương chủ động, tĩnh làm khí trở trệ, ngồi lâu hại cơ nhục (Tỳ) vì Tùy chủ cơ nhục, chủ vận động, đứng lâu hại cốt (Thận) vì Thận chủ cốt tủy, cốt vững đứng được, đi lâu hại cân (Can) vì Can chủ cân, cân mạnh đi được, đó là thương tổn về ngũ lao.

Trong Nội Kinh, “thất thương” chỉ sự tổn thương tạng phủ do bảy loại tình chí gây ra, Tôn Tư Mạo đời Đường khi bàn về “thất thương” còn thêm các nguyên nhân từ bên ngoài, ông cho rằng: ăn no quá tổn thương tỳ; giận quá khí bốc lên tổn thương can, gắng sức mang nặng quá, ngồi lâu ở chỗ cát ướt tổn thương thận; để thân thể bị lạnh và uống thứ lạnh tổn thương phế; buồn rầu lo nghĩ tổn thương tâm; mưa gió rét nắng tổn thương hình thể; khiếp sợ quá không tiết chế được tổn thương ý chí. “Lục cực” chỉ sự suy yếu đến mức cùng cực, gồm: Khí cực, Mạch cực, Cân cực, Cốt cực, Nhục cực, Tinh cực.

Giữa Nam và Nữ Nữ thường gặp Huyết hư, vì Nữ thuộc Âm - như Huyết, lấy huyết làm gốc. phụ nữ có kinh nguyệt, thai sản, đều phụ thuộc vào huyết mà điều hoà, nhờ huyết đến hai Mạch Xung - Nhâm vượng mà phụ nữ có thể thụ thai, nhờ Huyết đủ mà kinh nguyệt đều đặn.


Bài trị thấp tim theo y học cổ truyền

 Bệnh thấp tim là một bệnh viêm nhiễm toàn thân, biểu hiện ở nhiều cơ quan mà chủ yếu là ở khớp và tim. Bệnh gặp chủ yếu ở tuổi thiếu niên (7 - 15 tuổi), chiếm đến 50% các bệnh về tim mạch; đặc biệt bệnh về van tim là do biến chứng của thấp tim.

Theo y học cổ truyền, bệnh thấp tim thuộc phạm vi các chứng nhiệt tý, chính xung, thủy thũng... Tạng phủ người bệnh vốn nhiệt, lại gặp phải ngoại tà xâm phạm kinh lạc và lưu ở đó không bài tiết ra được. Âm gặp dương phát sinh chứng hầm hập khó chịu, ngoài cơ nhục nóng như đốt, gọi là nhiệt tý. Nếu để lâu không chữa, hỏa càng thịnh, phát sinh chứng thũng, đau nhức như có lửa đốt; nếu những nơi sưng đỏ lặn vào bụng gây nốt dưới da, ban vòng, lại làm cho tâm thần hôn mê (múa giật), thường có nôn ọe, đó là khí độc công tâm (viêm cơ tim). 

Bệnh thấp tim thể viêm khớp cấp:

Người bệnh sốt cao, nhiệt độ lên xuống thất thường, có khi sợ lạnh, các khớp sưng nóng đỏ đau, cử động rất đau, di chuyển từ khớp này đến khớp khác; miệng khát, môi khô, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi trắng dày hay vàng, chất lưỡi đỏ, mạch phù sác. 

Phương pháp chữa thấp tim thể viêm khớp cấp: 

Khu phong thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, lợi niệu trừ thấp. 

Thể viêm khớp cấp có kèm theo tổn thương ở tim

 (viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc) tương đương thể nhiệt tý và tâm tỳ hư.

Người bệnh sốt, các khớp sưng nóng đỏ đau, lưỡi đỏ, khát nước, hồi hộp trống ngực, thở gấp, rêu lưỡi vàng, mạch tế sác vô lực hoặc mạch kết đại (loạn nhịp).

Phương pháp chữa Thể viêm khớp cấp có kèm theo tổn thương ở tim:

 bổ ích tâm tỳ, khu phong thanh nhiệt, hoạt huyết, lợi niệu trừ thấp.