Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Ngũ vị trong đông y

 Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người.

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu.

Tác dụng của các vị trong đông y

Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó.

Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được:

Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa).

Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim).
Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc).
Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm hỏng tỳ vị (hành thổ).
Vị ngọt đi vào dạ dày, tuyến tụy (tỳ, vị - hành thổ), nhưng ngọt quá sẽ hại thận và bàng quang (hành thủy).

Ngũ vị

Theo y học cổ truyền, mỗi loại thức ăn đều có những tính chất riêng, được người xưa chia ra “tứ khí” và “ngũ vị”. Tứ khí: nóng, lạnh, ấm, mát. Nóng và ấm là dương. Lạnh và mát là âm. Trong số các thức ăn hằng ngày, như các loại thịt: thịt dê có tính nóng (nhiệt), thịt chó có tính ấm (ôn), còn thịt vịt tính mát (lương).

Điều lý thú là đối với các thứ rau quả có thể thông qua màu sắc mà biết được đặc tính nóng lạnh của chúng. Các thứ rau quả có màu sắc nhạt phần nhiều là lạnh và mát, các thứ thẫm màu thường là ấm, nóng. Củ cải, lê, chuối tiêu có tính mát, còn táo, đậu đen, đậu đỏ có tính ấm. Đối với thủy sản thì đại đa số những thứ có vỏ cứng như cua, ốc, rùa... thường có tính lạnh hoặc mát; các thứ như: lươn, tôm, cá trắm... có tính ấm hoặc nóng.

Thức ăn có thể nuôi sống người và có thể hại người, cho nên cần chủ động lợi dụng các đặc tính về hàn nhiệt của thức ăn để điều chỉnh lại sự cân bằng của âm dương trong cơ thể. Người ta tuy béo gầy, cao thấp khác nhau, song để bồi bổ, có thể chia ra 2 loại lớn, đó là: “âm hư” và “dương hư”.

Người âm hư: thường thấy lòng bàn chân, bàn tay nóng, trong người bứt rứt không yên, miệng khô, chất lưỡi đỏ, mạch đập nhanh, đại tiện táo... Người thuộc tạng này nên ăn các thứ như: mộc nhĩ, hạt sen, bí đao, dưa chuột, đậu phụ, chuối tiêu, dưa hấu, thịt vịt, thịt ngỗng, trứng gà, cá diếc, cá trắm đen, ếch... Những thứ như tỏi, ớt, thịt dê không nên dùng; thịt bò, thịt chó, quả nhãn, quả vải không nên dùng nhiều.

Người dương hư: nét mặt xanh nhợt, sợ lạnh, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão nát, mạch trầm tế (mạch chìm sâu và nhỏ yếu), chất lưỡi nhạt... Người thuộc tạng này nên ăn các thức ăn hỗ trợ dương khí như: thịt dê, thịt chim sẻ...; nên ăn hoa quả như: đào, hạnh, vải, nhãn, mít, dứa...; không nên dùng quá nhiều những thứ thịt, cá và rau quả có tính lạnh.

Ngũ vị: kết quả khí hóa của âm dương. “Ngũ vị” là 5 thứ vị: cay - ngọt - chua - đắng - mặn (tân - cam - toan - khổ - hàm). Nói chi tiết thì phải kể đến cả vị nhạt (đạm), song nó thường được xếp cùng vị ngọt, cho nên thường chỉ nói đến 5 vị. Ngũ vị liên quan đến thành phần, tác dụng dinh dưỡng và tác dụng điều trị của thức ăn. Thành phần khác nhau thì vị sẽ khác nhau, giá trị dinh dưỡng và tác dụng điều trị cũng sẽ khác. Điều hòa ngũ vị không những là điều hòa sự quân bình về âm dương trong nội bộ cơ thể, mà còn là sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. Một năm có 4 mùa, phải điều hòa ngũ vị sao cho cơ thể hòa hợp được với khí 4 mùa trong trời đất. Cụ thể: mùa Xuân cần hạn chế vị chua và tăng thêm vị ngọt, mùa Hạ nên ăn ít các thứ đắng, mặn và ăn nhiều các thứ cay ấm; mùa Thu cần “giảm cay tăng chua”; mùa Đông nên hạn chế vị mặn và tăng cường vị đắng. Sự điều tiết ngũ vị trong 4 mùa cũng không ngoài mục đích là làm cho âm dương và ngũ hành trong cơ thể vận hành đồng bộ phù hợp với tứ khí 4 mùa trong trời đất. Thuận theo trời đất mà điều hòa thân thể cũng là bí quyết lớn nhất của thuật dưỡng sinh phương Đông.

Sáng tạo: ngũ vị hương

Ngũ vị hương là loại gia vị mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông. Đó vừa là sự hòa quyện khéo léo giữa triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu trong văn hóa Việt, vừa là sự phản chiếu chính xác các cung bậc tình cảm của con người. Thành phần của ngũ vị hương không giống nhau. Mỗi vùng miền lại có một cách pha chế khác nhau, phụ thuộc vào khẩu vị và đặc sản địa phương. Nhưng thành phần truyền thống là công thức bao gồm: tiêu, quế, đinh hương, hồi hương và hạt cây thì là. Các đầu bếp xưa đã cố gắng tìm ra loại gia vị “hoàn hảo”, bao gồm đầy đủ 5 yếu tố: chua, cay, mặn, ngọt, đắng. Sau đó, một cách tình cờ, họ đã kết hợp được năm loại gia vị khác nhau thành một, và cảm nhận được sức mạnh của loại gia vị mới này trong việc làm các món ăn trở nên sinh động, đậm đà.

Ngũ vị

Tiêu: đúng nguồn gốc thì phải là loại tiêu Szechwan. Gọi là “tiêu” nhưng Szechwan thuộc họ chanh, không cay, vị mạnh tựa mùi long não. Người ta chỉ dùng vỏ ngoài màu đỏ sẫm xay thành bột sau khi phơi khô. Vì không dễ kiếm trên thị trường, nên tiêu Szechwan thường được thay bằng tiêu hột. Tiêu có tác dụng kích thích tiêu hóa, ấm bụng, giảm đau, chống nôn.

Hồi hương: quả của cây hồi, có hình năm cánh xòe ra. Cây trồng được 6 năm thì bắt đầu thu hoạch và thời gian thu hoạch có thể kéo dài suốt cả tuổi thọ của cây, gần trăm năm. Quả được hái khi chưa chín và để phơi cho chín trên các phên mắt cáo, cho đến khi có màu nâu gỉ sắt. Ngoài ra, hạt cây hồi còn dùng cho bánh ngọt, bánh mì, các đồ ngọt và thức uống như trà. Hồi hương có thể chữa họng, ho.

Đinh hương: nụ hoa nguyên búp của cây đinh hương được phơi khô trong 3 ngày và có hương thơm, nhiều tinh dầu, hơi vàng nâu và rắn. Nụ đinh hương phải được bảo quản trong tối và mát. Người ta dùng đinh hương để ướp thịt cá, bánh ngọt và thức uống. Đinh hương có thể dùng trong nấu ăn hoặc là ở dạng nguyên vẹn hay ở dạng nghiền thành bột, nhưng do nó tạo mùi rất mạnh cho nên chỉ cần dùng rất ít. Trong Đông y, đinh hương được dùng để trị nấc cụt, thổ tả, đau bụng còn trong Tây y thì nó kích thích tiêu hóa, sát trùng mạnh.

Quế: gia vị lấy từ vỏ quế, hiện diện rất nhiều trong các món ngọt tráng miệng châu Âu, nhưng lại được dùng nhiều trong các món ăn mặn tại châu Á. Trong mọi trường hợp thì quế là loại tương đối đắt tiền từ trước đến nay. Quế giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch, trị các vấn đề về hô hấp, giảm đau cơ khớp, cải thiện hệ miễn dịch.

Thì là: loại cây có thể dùng cả lá, hột hoặc củ rễ để làm gia vị. Tuy có nguồn gốc từ các vùng Địa Trung Hải nhưng cây được người Trung Quốc và Ấn Độ biết đến từ rất sớm. Thì là là vị thuốc hỗ trợ tiêu hóa, giúp điều hòa thể trọng, bổ thận, trị đau bụng, đầy trướng bụng.

Ngoài năm loại gia vị truyền thống nêu trên, còn rất nhiều cách kết hợp khác để tạo nên ngũ vị hương. Một công thức thông dụng bao gồm nhục quế, hồ tiêu, đinh hương, tiểu hồi hương và đại hồi. Một số bột ngũ vị hương bán trên thị trường sẽ có thêm bột ớt hay gừng.

Triết lý âm dương - ngũ hành đã in sâu vào truyền thống văn hóa người Việt nói riêng và người phương Đông nói chung. Đó là triết lý của sự cân bằng, đủ đầy, hài hòa, tượng trưng cho tính cách nghề nông chất phác, thích yên bình, ổn định. Trong ẩm thực cũng thế, người Việt chuộng tính hài hòa giữa các vị, mỗi vị một tí, tạo nên sự đậm đà và dễ chịu hơn là quá nồng ở một vị riêng.

Bài trị chứng tỳ hư

 Tỳ vị là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng để nuôi toàn bộ cơ thể. Vì nguyên nhân nào đó khiến tỳ vị suy yếu, làm cho cơ thể cũng như các phủ tạng khác bị thiếu hụt dinh dưỡng, dẫn đến cơ thể suy kiệt. Tỳ thổ bị nhiễm lạnh, khí lạnh ngưng tụ nên người bệnh ăn không tiêu, bụng đầy, thường xuyên bị rối loạn tiêu hóa, phân lỏng, tiêu chảy nhiều lần, bụng lạnh, chân tay lạnh...

Người bệnh không ăn uống được, kiêng khem lâu ngày khiến cơ thể bị thiếu dinh dưỡng dẫn đến người gầy, da xanh, cơ bắp yếu mềm kèm theo môi và niêm mạc nhợt nhạt, mạch trầm tế vô lực.

Phép điều trị chứng tỳ hư

 ôn trung tán hàn, kiện tỳ dưỡng vị, phục hồi dương khí. 

chứng nhược cơ theo Đông y

 Nhược cơ là tình trạng trương lực cơ bị giảm. 

Tùy mức độ của bệnh mà trương lực cơ giảm nhiều hay ít. Trường hợp nặng người bệnh không nhấc được tay, không làm được những động tác thông thường. Bệnh thường tiến triển nặng dần từ sáng đến cuối ngày hoặc sau khi vận động.

Nguyên nhân chính của Nhược cơ 

do dẫn truyền thần kinh bị trở trệ và do chức năng của tỳ vị bị suy giảm. 

Chữa trị chứng Nhược cơ, 

Đông y thường dùng phương pháp bổ tỳ kiện vị, bổ sung tinh chất và một số vi lượng giúp quá trình thần kinh diễn ra suôn sẻ.

Bài trị Chứng can dương hư trong đông y

  Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương.

Đông y cho rằng: Sinh lý của tạng can là theo từng bộ phận, lấy huyết làm thể, lấy khí làm dạng, huyết thuộc âm, khí thuộc dương. Gọi là thổ âm mà dụng dương, cho nên chứng can hư là do huyết thiếu, huyết không đủ để nuôi cơ thể, cũng có trường hợp do khí suy mà tác dụng của huyết không mạnh, vì khí dẫn huyết đi nuôi cơ thể.

Chứng can dương hư thường biểu hiện các triệu chứng: 

Tình chí u uất, rầu rĩ không vui, hay sợ hãi, mắt tối sầm nhìn mọi vật không rõ, người lạnh sợ lạnh, hạ sườn bên phải đau tức, tay chân lạnh, đầu mình tê dại, mặt tái xanh, móng tay móng chân nhợt mà khô, lãnh cảm với tình dục. Đối với phụ nữ thì bụng dưới lạnh đau, kinh nguyệt kéo dài hoặc kinh nguyệt không đều, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoặc huyền trì.

Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

Triệu chứng Do ưu sầu sinh chứng can dương hư

người mệt mỏi, hay uất giận, tay chân lạnh, hay lười biếng, thận lạnh hoạt tinh mà không mộng.

Điều trị Do ưu sầu sinh chứng can dương hư: 

tiềm dương ích khí, bổ can thận.

Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

Triệu chứng Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng): 

móng tay móng chân khô, nhợt nhạt, gân bị co rút do bị hàn lạnh, tay chân mỏi rã rời cầm nắm khó khăn, mắt mờ, hay uất ức, bộ phận sinh dục ẩm ướt mà lạnh, lãnh cảm với tình dục, bụng đầy tức, ăn uống kém...

Điều trị Do can dương hư sinh chứng giải đoa (lười biếng)

ôn dương bổ can ích khí phù tỳ.

Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

Triệu chứng Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa

kinh nguyệt không điều hòa vì khí không vận chuyển được huyết để hành kinh, kỳ kinh đến muộn, bế kinh, hai mạn sườn đau nhức, bụng dưới lạnh mà đau, bào cung bị hàn không thể thụ thai, đới hạ ra nhiều trong mà lạnh.

Điều trị Can dương hư gặp trong bệnh phụ khoa: 

ôn bổ khí huyết, điều kinh.


Bài trị Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

 Chứng can mộc khắc tỳ thổ thường gặp trong các bệnh như: tiết tả, hiếp thống, cổ trướng, phúc thống, kinh nguyệt không đều, đới hạ...

Nguyên nhân chính Chứng can mộc khắc tỳ thổ trong Đông y

do can uất khí trệ, can khí lấn tỳ thổ, tỳ mất sự kiện vận, hoặc do tỳ hư thấp tà ấp ủ, làm cho thổ ủng tắc. Mộc bị uất, dẫn đến công năng của hai tạng can và tỳ không điều hòa mà sinh bệnh. Bệnh phần nhiều do uất ức, cáu giận làm tổn hại đến can, dẫn đến ăn uống kém, mệt nhọc, tư lự quá độ làm tổn thương tỳ mà sinh ra bệnh.

Biểu hiện Chứng can mộc khắc tỳ thổ : 

Bệnh nhân hay thở dài, tinh thần ức chế, ngực sườn trướng đầy đau, hay thở dài, hoặc tâm phiền dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, ăn uống kém, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão, sôi bụng, hay trung tiện, hoặc đau bụng tiêu chảy, rêu lưỡi trắng hoặc nhớt, mạch huyền. Tùy từng chứng trạng mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ (tích trệ của thức ăn)

Triệu chứng Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ: 

Bệnh nhân ngực sườn bí đầy, ợ hơi, ăn kém, hay cáu giận, uất ức, tinh thần bị căng thẳng sinh chứng đau bụng tiêu chảy.

Phép  trị Do tỳ khí hư yếu, hoặc mắc chứng thực trệ:

 Ức can phù tỳ.

Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết 

mà sinh bệnh hiếp thống (đau hai bên mạng sườn)

Triệu chứng Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết: 

Khi đau ở mạng sườn chủ yếu là trướng đau, đau xiên suốt cả vùng ngực. Cơn đau xuất hiện khi cáu giận, uất ức thì bệnh nặng thêm, nếu bệnh lâu ngày không được điều trị thì can khí lấn tỳ thổ,  ngoài các chứng đau còn kèm chứng ăn kém, mắt và mặt phù nhẹ, tay chân bứt rứt khó chịu.

Điều trị Do can mất sự điều đạt, khí cơ không lợi, mất chức năng sơ tiết

Sơ can lý khí kiện tỳ.

Do cơ thể bị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận, 

thủy thấp ứ đọng can, khí huyết ngưng trệ, mạch lạc ứ nghẽn, dần dần phát sinh cổ trướng

Triệu chứng cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Trên lâm sàng nghiêng về khí trệ thấp nghẽn, cho nên bụng to ấn vào không rắn, da bụng căng, dưới sườn trướng đầy, đau, ăn kém, sau khi ăn thì bụng đầy trướng, ợ hơi khó chịu, tiểu tiện sẻn, ít, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền.

Phép trị cảm nhiễm thấp tà, tỳ mất sự kiện vận: 

Sơ can lý khí, trừ thấp tiêu đầy.

Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận 

mà gây nên bệnh phúc thống (đau bụng).

Triệu chứng Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

 Bệnh nhân ăn kém, bụng trướng đầy, có khi đau lan tỏa xuống bụng dưới, hoặc đau không cố định, khi ợ hơi hoặc trung tiện thì đỡ đau.

Phép trị Do can khí uất kết, tỳ mất sự kiện vận:

Sơ can lý khí.

Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn,

 làm mất chức năng sơ tiết, hai mạch xung nhâm không điều hòa, can uất lấn tỳ, tỳ hư không thống huyết, huyết hải tràn ứ thất thường mà sinh bệnh kinh nguyệt không đều.

Triệu chứng Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn:

 Bệnh nhân ra kinh trước kỳ, hoặc sau kỳ, lượng kinh có thể nhiều, có thể ít, hành kinh khó khăn, sắc kinh tối, có hòn cục, ngực sườn và hai bầu vú căng cứng, bụng dưới trướng nặng và đau, có khi phiền táo, giận giữ, biếng ăn...

Phép trị Do tình chí uất ức, can khí nghịch loạn: 

Sơ can kiện tỳ, dưỡng huyết điều kinh.

Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can. 

Can khí hoành nghịch phạm tỳ, tỳ mất chức năng vận hóa, sinh ra thấp trọc, thấp nhiệt uất lâu ngày hóa nhiệt, thấp nhiệt dồn xuống, làm tổn thương mạch xung và mạch đới mà sinh chứng đới hạ (khí hư ra nhiều)...

Triệu chứng Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can:

 Bệnh nhân hoàng đới (khí hư có màu vàng) ra liên miên không dứt, keo dính có mùi hôi, hoặc chảy ra nước vàng có kèm theo huyết dịch. Bộ phận sinh dục nóng rát hoặc ngứa, miệng đắng họng khô, tâm phiền hay cáu giận, bụng trướng đầy, đại tiện phân nhão.

Điều trị Do bệnh nhân mệt mỏi, phiền táo, hay cáu giận làm hại can: 

Sơ can thanh nhiệt lợi thấp.

Bài trị chứng thận khí hư trong đông y

 Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau...

Đông y cho rằng: “Khi bệnh nhân ăn uống, đại tiện, tiểu tiện - bình thường. Nhưng lưng và chân nặng nề, vùng rốn và bụng đau, xem mạch bộ xích tay phải và tay trái, có mạch phù và sác, đó là bên dưới thực. Đại, tiểu tiện khó, ăn uống lúc khá, lúc kém, lưng và chân nặng nề, đi lại khó khăn, đó là chứng thận khí hư”.

Chứng thận khí hư :

là do nguyên khí trong thận hư suy, xuất hiện các chứng trạng về công năng của thận bị giảm sút. Bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, do mắc chứng hư lao làm tổn thương quá mức hoặc do ốm đau lâu  ngày, do tuổi cao thận khí suy yếu hoặc do tình dục quá độ làm tinh khí hư suy liên lụy đến thận mà sinh ra bệnh. Chứng thận khí hư thường gặp trong các bệnh như: tai điếc, tai ù, hư lao, đau lưng, hai chân lạnh, liệt dương, di tinh, có trường hợp rối loạn cương dương, nam giới dẫn đến vô sinh...

Biểu hiện Chứng thận khí hư

thính lực giảm, tai ù, choáng váng, lưng gối yếu mỏi, ban đêm tiểu tiện nhiều lần, hoạt tinh, tảo tiết, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.

Theo Đông y, thận chứa tinh, tinh hợp với chí, thận khí hư thì hay chuột rút. Chứng thận khí hư thì khí trong thận khí không bền, khi giao hợp xuất tinh sớm, do dương không khống chế được âm nên đêm đi tiểu nhiều lần. Do thận khí hư, thận không đủ tủy để nuôi dưỡng não cho nên bệnh nhân hay choáng váng, ù tai, tai điếc.

Có thể thấy rõ chứng thận khí hư với các chứng trạng ở hạ tiêu khá đột xuất và khá nặng như: Hạ tiêu hư hàn không đủ sức ấm để khống chế thủy dịch cho nên tiểu tiện không tự chủ được. Chứng thận khí hư bệnh chủ yếu ở hạ tiêu. Cơ chế của chứng thận khí hư giới hạn ở nguyên khí của tạng thận hư yếu gây nên.

Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống (đau lưng). 

Lưng là phủ của thận, nếu xoay chuyển khó khăn là thận sắp suy bại. Bệnh phần nhiều do những nhân tố như: ốm lâu ngày, tuổi cao, phòng dục quá độ làm cho thận bị hư tổn mà sinh bệnh.

Triệu chứng Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống

Lưng đau mỏi dai dẳng không dứt, khi mệt nhọc thì bệnh tăng lên, khi nằm thì đỡ đau.

Điều trị Chứng thận khí hư xuất hiện bệnh yêu thống: 

Bổ thận, khi thận mạnh thì hết đau lưng.

Chứng thận khí hư xuất hiện các chứng:

tai điếc, tai ù, chóng mặt, choáng váng. Thận chủ về tai, thận khai khiếu ra tai. Thận hư thì tinh không dâng lên cho nên thính lực giảm. Thận hư thì thủy suy mà mộc chao đảo.

Triệu chứng Chứng thận khí hư : 

Bệnh nhân tai ù, tai điếc, hoa mắt, chóng mặt, tinh thần ủy mị, lưng yếu mỏi.

Điều trị Chứng thận khí hư : 

bổ thận, tráng dương sinh tinh khí.

Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Do buông thả tình dục, phòng lao quá độ tổn hại thận khí mà sinh bệnh.

Triệu chứng Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh: 

Liệt dương, di tinh, tảo tiết, sinh lý giảm sút, tinh thần mệt mỏi, choáng váng, tay chân lạnh mà yếu.

Điều trị Thận khí hư xuất hiện chứng dương nuy, di tinh

Bổ thận tráng dương, cố tinh.

Do thận khí hư xuất hiện chứng hư lao.

Do phòng lao quá độ, lao động mệt nhọc,  ốm lâu ngày, do già yếu mà sinh bệnh.

Triệu chứng thận khí hư xuất hiện chứng hư lao: 

Đầu choáng váng, tai ù, thính lực giảm sút, lưng gối mỏi, hay tiểu tiện về ban đêm…

Điều trị thận khí hư xuất hiện chứng hư lao:

 Đại bổ nguyên khí.

Bài ổn định huyết áp theo y học cổ truyền

 Tìm hiểu các tài liệu của Y học cổ truyền (YHCT) nói về bệnh tăng huyết áp của y học hiện đại là điều không đơn giản. Tăng huyết áp của y học hiện đại không có từ đồng nghĩa trong bệnh học YHCT. Các triệu chứng cơ năng thường gặp trong bệnh lý tăng huyết áp gồm: hoa mắt, chóng mặt; YHCT xếp vào chứng huyễn vựng; đau đầu gọi là chứng đầu thống. Đánh trống ngực, hồi hộp gọi là chứng tâm quý, chính xung. Đau ngực gọi là tâm thống, khó thở gọi là tâm trướng.  Hôn mê, liệt nửa người gọi là chứng trúng phong.

Nguyên nhân bệnh tăng huyết áp theo YHCT có thể:

- Do thất tình như giận, lo sợ gây tổn thương 2 tạng can, thận âm.

- Do bệnh lâu ngày, thể chất suy yếu, thận âm, thận dương suy (thận âm suy hư hỏa bốc lên, thận dương suy chân dương nhiễu loạn lên trên).

- Do đàm thấp ủng trệ gây tắc các khiếu. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại tỳ vị hoặc do thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.

Bệnh tăng huyết áp theo YHCT cócác thể lâm sàng:

Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung (thể âm hư dương xung): 

trong bệnh cảnh này ngoài chỉ số huyết áp cao thường hay dao động, người bệnh thường đau đầu với tính chất căng hoặc như mạch đập, ở đỉnh đầu hoặc một bên đầu, thường kèm cơn nóng phừng mắt, hồi hộp đánh trống ngực, người bứt rứt. Mạch đi nhanh và căng (huyền).

Phép trị Bệnh tăng huyết áp thể can dương xung

bình can, giáng nghịch, bình can tức phong (nếu là cơn tăng huyết áp).

 Bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư: 

ngoài chỉ số huyết áp cao, tình trạng uể oải, mệt mỏi thường xuyên, đau nhức mỏi lưng âm ỉ, hoa mắt chóng mặt, ù tai đầu nặng hoặc đau âm ỉ, cảm giác nóng trong người, bứt rứt, thỉnh thoảng có cơn nóng phừng mặt, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ kém có thể táo bón. Mạch trầm, huyền, sác, vô lực.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể thận âm hư:

tư âm ghìm dương hoặc tư âm, bổ thận.

Bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

triệu chứng nổi bật trong bệnh lý này: người béo, thừa cân, lưỡi dày to, tê nặng chi dưới. Thường hay kèm tăng cholesterol máu, mạch hoạt.

Phép trị bệnh tăng huyết áp thể  đờm thấp: 

hóa đàm trừ thấp.