Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

Bài chữa bệnh đau bụng theo đông y

 Từ trẻ đến già, ai cũng có lần bị đau bụng nhiều hoặc ít. Nếu đau ở dạ dày là thuộc kinh túc thái âm tỳ, đau ở rốn là thuộc kinh túc thiếu âm thận; đau ở bụng dưới thuộc kinh túc quyết âm can. Nguyên nhân gây đau bụng rất nhiều như đau dạ dày do viêm niêm mạc, thủng dạ dày, viêm ruột thừa, tắc ruột, đau gan, đau túi mật, đau tụỵ, đau thận, đau bàng quang, đau bụng do giun sán, giun chui ống mật...

Do nguyên nhân nhiều và phức tạp như vậy nên khi đau bụng cần được thăm khám để loại trừ đau bụng ngoại khoa cần phẫu thuật như thủng dạ dày, viêm ruột thừa... thì phải đi bệnh viện kịp thời mổ cấp cứu mới tránh khỏi tử vong. Trường hợp đau bụng mạn tính có thể kết hợp điều trị bằng Đông y.

Trong y học cổ truyền, đau bụng chia theo chứng hư hay thực, hàn hay nhiệt.

- Đau mà có hình, khối, cục thường thuộc loại thực tích, trùng tích, ứ huyết. Loại này thường đau liên miên và đau một chỗ.

- Đau mà không có hình, cục, khối, thường thuộc loại khí tụ hàn ngưng.

- Đau không có chỗ nhất định, khi đau, khi không, thuộc loại khí hư, huyết hư.

- Đau mà thích xoa bóp, trước khi ăn đau rất dữ, phần nhiều thuộc loại hư chứng.

- Đau mà không cho xoa bóp, sau khi ăn lại đau dữ hơn, phần nhiều thuộc loại thực chứng.

- Mạch sáp, miệng khát, rêu lưỡi vàng, nước tiểu đỏ là chứng nhiệt.

- Mạch trì, không trầm, rêu lưỡi vàng, tiểu tiện trong và dài, hơ nóng thì đỡ đau là thuộc về hư hàn.

Những điều cần chú ý khi chữa đau bụng theo Đông y

1- Đau bụng nếu vì can mộc khắc tỳ thổ 

thì thường đau trên rốn, nặng thì đau ran hai bên sườn, khi đau thì co rút, bụng sôi, đi đại tiện xong vẫn cứ đau, miệng đắng, nôn chua. Mạch huyền.

Phép chữa Đau bụng nếu vì can mộc khắc tỳ thổ : 

ức can phù tỳ. 

2- Vì hư ở trong mà bụng đau: có 2 loại:

- Khí hư mà đau:

 thích xoa bóp, thở ngắn hơi, chân tay bủn rủn, lao động thì đau nhiều.

 Phép chữa đau bụng do khí hư : 

phải bổ khí. 

- Huyết hư thì bụng đau lâm râm sắc mặt vàng sẫm, đánh trống ngực, ít ngủ.

Phép chữa đau bụng do huyết hư: 

phải bổ huyết. 

3- Vì hàn ở trong mà bụng đau: 

đau liên miên không dứt, thích uống nóng, gặp nóng thì  đỡ đau, tiểu tiên trong, dài, chân tay quyết lạnh. Mạch trầm trì vô lực. 

Phép chữa đau bụng vì hàn: 

ôn trung lý khí. 

4- Vì huyết ứ mà bụng đau: 

bụng không no, không  đầy, về đêm đau nặng hơn, đau một chỗ nhất định, chườm nóng thì đỡ. 

Phép chữa đau bụng vì huyết ứ: 

phải hoạt huyết hành khí. 

5- Vì khí trệ mà bụng đau:

 lồng ngực đầy trướng, khi đau khi không, sau khi trung tiện thì đỡ đau khi đau thì đau khắp người. Nếu tình chí không điều hoà thì đau nặng thêm.

 Phép chữa đau bụng vì khí trệ 

 hành khí tán kết. 

6- Vì thực tích mà bụng đau: 

ngực sườn đầy tức, nuốt chua, ợ hăng, miệng hôi không muốn ăn uống, đau ê ẩm không cho đè vào, rêu lưỡi nhờn. Mạch hoạt. 

Phép chữa đau bụng vì thực tích: 

tiêu hoá thực tích. 

Bài trị chứng choáng theo Đông y

 Choáng là tình trạng bệnh lý cấp diễn, do lưu lượng máu giảm nhanh chóng, biểu hiện trên lâm sàng là huyết áp tụt nhanh.

Triệu chứng choáng thường xuất hiện từ từ: da mặt nhợt nhạt, có vẻ ngây dại; mạch nhanh, huyết áp thấp. Da sờ thấy lạnh vì nhiệt độ hạ thấp, dưới 37oC.

Theo y học cổ truyền, choáng được chia làm 3 thể sau:

Chứng choáng Thể vong dương: 

Sắc mặt xanh nhạt, ra mồ hôi, chân tay lạnh, hơi thở yếu, lưỡi trắng bệch, môi tím, huyết áp 80/60mmHg, mạch tế, không lực, âm dương khí huyết có quan hệ mật thiết với nhau, âm bị suy thì dương cũng suy theo, huyết thoát. Tinh suy thì khí cũng suy theo.

Chứng choáng Thể vong âm:

 Có thêm các triệu chứng khát, bứt rứt, lưỡi trắng bệch, mạch vi, sác. Vong âm thường do mồ hôi ra nhiều, nôn hoặc tiêu chảy nhiều quá, tân dịch bị hao tổn nặng.

Chứng choáng Thể âm dương đều thoát: 

Từ tỉnh chuyển sang hôn mê, hơi thở yếu, mạch không bắt được. Nguyên dương vốn hư yếu, hàn tà thừa cơ xâm nhập, chính khí hư nên không ức chế được hàn tà gây nên.

Nguyên tắc điều trị choáng :

là phải điều trị toàn diện, điều trị thật sớm và phải kiên trì.

Ngăn cản điều kiện thuận lợi dẫn đến choáng: Để người bệnh nằm nghỉ nơi yên tĩnh để chống mỏi mệt, sợ hãi, chống lạnh nếu bệnh nhân bị lạnh (ủ nóng, đắp chăn, ủ bằng bình nước nóng, uống nước chè nóng...).

Điều trị choáng: Chống các biến loạn tuần hoàn: 

Đông y cho rằng hiện tượng khối lượng tuần hoàn máu giảm sút là biểu hiện của triệu chứng âm dịch vị hao tổn. Do đó, nếu ngay từ lúc chưa có hiện tượng choáng xảy ra, có thể dùng các loại thuốc sinh tân dịch, có thể phần nào phục hồi được khối lượng máu tuần hoàn và mức độ huyết áp.

Bài hen phế quản bằng Đông y

 Hen phế quản (hay còn gọi là hen suyễn, bệnh suyễn, COPD) là tình trạng viêm mạn tính đường dẫn khí (phế quản) gây co thắt và chít hẹp đường thở dẫn tới hiện tượng ho, khó thở, thở khò khè phát ra âm thanh như mèo rên, thậm chí bệnh nhân không thở được gọi là lên cơn hen.

Dấu hiệu của người hen phế quản

- Ho nhiều, ho kéo dài thường xuyên xảy ra khi thay đổi thời tiết

- Khò khè: Tiếng rít thường nghe được khi thở ra hoặc khi ngủ

- Nặng ngực: Cảm giác giống như lồng ngực bị bóp chặt

- Khó thở: Thở hụt hơi, thở nhanh ngắn, hít vào không được sâu mà thở ra thì không dễ dàng

- Biểu hiện bị thức giấc do khó thở

Nguyên nhân gây bệnh hen phế quản

Theo quan điểm đông y về hen phế quản

Theo Đông Y nguyên nhân gây ra hen phế quản là do chức năng nội tạng của cơ thể mất cân bằng mà gây nên bệnh hen, chủ yếu tại 3 tạng Tỳ, Phế, Thận bị suy yếu, không điều hòa gây ra bệnh:

+ Tạng Phế: Phế có công năng chủ xuất nhập khí. Phế rối loạn gây nên khó thở. Vì vậy, trong bệnh hen phế quản, triệu chứng điển hình dễ thấy là khó thở, khó thở có chu kỳ, cơn khó thở bùng phát khi gặp các yếu tố kích thích như gió, ẩm lạnh, bụi, mùi lạ, căng thẳng, mệt nhọc…

+ Tạng Tỳ: Tỳ Có chức năng vận hóa, chuyển biến hóa thức ăn. Khi lo nghĩ quá nhiều làm rối loạn công năng của tỳ. Chức năng chuyển hóa thức ăn của Tỳ bị rối loạn sẽ sinh đờm. Đờm dừng ở phế sẽ làm tắc nghẽn gây khó thở.

+ Tạng Thận: Thận chủ nạp khí. Công năng thận rối loạn dẫn tới cơ thể yếu từ lúc mới sinh; vì thế làm cho Thận không nạp được khí nên khí ngược lên gây khó thở

Ngoài ra bệnh hen còn có tính di truyền; những người bị chàm, nổi mề đay, viêm mũi dị ứng hay mắc các bệnh dị ứng khác có nguy cơ bị hen suyễn

Cách đẩy lùi bệnh hen phế quản

Quan điểm đông y: “Muốn loại bỏ bệnh phải tìm đến nguyên nhân của bệnh” – Những ưu điểm khi loại bỏ bệnh bằng phương pháp Đông y:

- Loại bỏ bệnh từ gốc

- An toàn không tác dụng phụ

- Bồi bổ và nâng cao sức đề kháng của cơ thể, hết bệnh

Hen không chỉ là vấn đề ở đường hô hấp, nó là bệnh của toàn thân mà những biểu hiện tập trung ở đường hô hấp, đặc trưng bởi sự co thắt phế quản và sự tăng tiết chất nhầy. Mục đích của Đông y là loại bỏ toàn diện, đem lại sự cân bằng cho toàn thân, tăng sức đề kháng của cơ thể, đồng thời quan tâm đến bài trừ nguyên nhân bệnh, vì thế hen mới khỏi được.

Để loại bỏ bệnh hen,theo Đông y: Phải phục hồi chức năng nội tạng mà chủ yếu là Tỳ, Phế, Thận, nhờ đó sức đề kháng của cơ thể tăng lên, các kháng thể tự sinh ra, ức chế các virus, tiêu viêm, khí quản và phế quản trở lại bình thường, đờm được tiêu trừ,không làm bít tắc phế khí, hen không còn nữa.

Như vậy nguyên tắc chung của loại bỏ bệnh hen ở đây là “Bổ chính, khu tà”. Sách Nội Kinh đã chỉ rõ: “Tà chi sở tấu, chính khí bất an”. Sau khi cắt cơn hen, tiếp tục “Bổ chính”, làm cho cơ thể càng khỏe lên, sức đề kháng tăng cao, sau đó dù cho môi trường bất lợi thì hen cũng không thể xảy ra được.

Hen phế quản là bệnh cần loại bỏ sớm để tránh các biến chứng:

- Làm xẹp phổi

- Nhiễm khuẩn phế quản, phổi

- Tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất

- Tâm phế mãn, ngừng hô hấp tổn thương não

- Nặng nhất là dẫn tới ngừng hô hấp, suy hô hấp dễ dẫn tới nguy cơ tử vong bất cứ lúc nào

Bài trị rối loạn kinh nguyệt theo y học cổ truyền

 Kinh nguyệt là hiện tượng chảy máu ra ngoài âm đạo có chu kỳ do sự tróc lớp niêm mạc tử cung, là hiện tượng hoạt động của buồng trứng và tử cung. Rối loạn kinh nguyệt có liên quan đến việc hiếm muộn của người phụ nữ. Việc điều trị rối loạn kinh nguyệt giúp phụ nữ dễ có con.

Các rối loạn kinh nguyệt bao gồm: vòng kinh không phóng noãn, có kinh sớm, có kinh muộn, đa kinh, cường kinh, thiểu kinh, rong kinh, rong huyết.

Quan niệm của y học cổ truyền

Phụ nữ bình thường, tuổi bắt đầu có kinh là từ 12 - 16 tuổi, chu kỳ kinh trung bình là 28 ngày, có thể thay đổi từ 21 - 35 ngày. Mỗi kỳ kinh máu ra thường là 3 - 5 ngày, lượng máu trung bình cho mỗi kỳ kinh là 40ml - 100ml. Màu máu của kinh lúc đầu hồng sau sẫm màu dần và cuối cùng nhạt dần. Kinh bình thường không có máu cục, không đặc, không có mùi hôi. Trước khi hành kinh và trong khi hành kinh, có thể thấy bụng dưới căng đầy khó chịu, lưng gối tay chân mỏi, đau đầu, vú căng, kém ăn, tính tình thay đổi.

Nói chung mỗi tháng ra kinh một lần gọi là kinh nguyệt. Song có người 2 tháng mới có kinh một lần gọi là tính nguyệt, còn 3 tháng mới có một lần gọi là cự kinh. Nếu một năm có một lần gọi là tỵ niên, có người không có kinh mà vẫn có con gọi là ám kinh, có người đã mang thai mà dến kỳ vẫn ra ít máu, song thai vẫn phát triển bình thường gọi là kích kinh, những biểu hiện trên đây là khác thường nhưng chưa phải là bệnh lý.

Rối loạn kinh nguyệt gồm các chứng: thống kinh, bế kinh, băng lậu, kinh trở, kinh loạn...

Đối với người phụ nữ thì bào cung là khí quan riêng biệt, chuyên chủ về kinh nguyệt và hệ bào, nơi phát nguồn  của mạch xung, mạch nhâm. Mạch xung là bể của huyết, mạch nhâm là chủ về bào thai, cho nên công năng của bào cung cùng với  2 mạch xung, nhâm có quan hệ không thể tách rời.

Khi khí huyết của mạch xung, mạch nhâm bắt đầu đầy đủ diều hòa thì hành kinh đúng chu kỳ mỗi tháng. Đến trên dưới 49 tuổi thì khí huyết mạch xung, mạch nhâm suy yếu dần, thiên quý kiệt, rồi kinh nguyệt ngừng hẳn.

Nguyên nhân: không ngoài nội thương thất tình, ngoại cảm lục dâm, ăn uống ẩm thực... Còn thêm một số nguyên nhân khác như chế độ vệ sinh kinh nguyệt, sinh hoạt phòng dục... cũng gây bệnh lý nghiêm trọng.

Điều trị kinh trước kỳ

Trong bài viết này, chúng tôi tập trung bàn về điều trị kinh trước kỳ, một dạng rối loạn kinh nguyệt thường gặp. Việc điều trị tùy theo từng thể bệnh.

Điều trị kinh trước kỳ thể Huyết nhiệt:

Triệu chứng kinh trước kỳ thể Huyết nhiệt :

 kinh nguyệt ra trước kỳ sắc đỏ tươi, đỏ sẫm, lượng nhiều, không có máu hòn, máu cục, người hay choáng váng, nóng bứt rứt, khát nước, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch sác.

Kinh trước kỳ thể Can uất:

Triệu chứng kinh trước kỳ thể Can uất:

kinh nguyệt ra trước kỳ, sắc kinh đỏ tươi, đỏ sẫm, có khi lẫn máu cục, lượng nhiều ít không nhất định, ngực sườn đầy tức hay đau hai bên hông sườn, bụng chướng trước khi hành kinh, người hay choáng váng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.

Kinh trước kỳ thể Khí trệ:

Triệu chứng kinh trước kỳ thể Khí trệ: 

kinh chậm 6 - 7 ngày sắc kinh đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, có khi lẫn máu cục, lượng ít, lưng đau, bụng chướng, người mệt mỏi. sắc mặt xanh sạm, ấm ách khó chịu; chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch huyền.

Kinh trước kỳ thể Huyết ứ:

Triệu chứng kinh trước kỳ thể Huyết ứ: 

kinh nguyệt ra trước kỳ, có khi tháng 2 kỳ, mỗi kỳ ra vài ngày, sắc kinh đỏ sẫm, có khi lẫn máu cục, lượng ít, hay đau bụng dưới trước khi hành kinh, người mệt mỏi, chất lưỡi đỏ, có khi thấy nốt tím trên lưỡi, mạch tế sác.

Kinh trước kỳ thể Đàm trệ:

Triệu chứng kinh trước kỳ thể Đàm trệ:

kinh nguyệt ra sau kỳ, sắc kinh nhợt có khi lẫn máu cục, lượng ít, ngực bụng đầy tức, ậm ạch buồn nôn hoặc nôn mửa ra đàm, ăn uống kém, người mệt mỏi uể oải, khó chịu, thường gặp ở người béo bệu; chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, dính nhớt, mạch hoạt.

Bài trị chứng chóng mặt theo y học cổ truyền

 Theo y học cổ truyền, chóng mặt thuộc phạm vi chứng huyễn vựng. 

Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra. Hải Thượng Lãn Ông cho rằng “huyễn vựng xét chỉ bởi hỏa, vì âm huyết hậu thiên hư yếu thì hỏa động lên, chân thủy tiên thiên hư yếu thì hỏa bốc lên, bệnh nhẹ thì bổ huyết thêm vị mát, bệnh nặng thì bổ thủy nhưng đều thêm vị liễm giáng hỏa”.

Phòng trị chóng mặt chủ yếu bổ âm huyết giáng hỏa, trừ đàm thấp, thông kinh lạc, tăng cường máu nuôi dưỡng lên não. 

Chóng mặt thuộc chứng huyễn vựng của y học cổ truyền. Chứng bệnh này do nhiều nguyên nhân gây ra.
Chóng mặt đau đầu vùng đỉnh, hay tức giận, miệng đắng khát nước, lưỡi đỏ, mạch huyền, do can hỏa vượng.

Phép trị: thanh can, giáng hỏa.

Chóng mặt khi ngồi xuống đứng dậy, nằm nghỉ thấy đỡ, ăn ngủ kém, do khí huyết đều hư.

Phép trị: bổ khí dưỡng huyết kiện tỳ.

Chóng mặt, ù tai, kém trí nhớ, lưng gối yếu do thận tinh bất túc.

Phép trị: thiên về âm hư bổ âm, thiên về dương hư bổ dương.

Chóng mặt ù tai đau lưng chân không ấm do thận dương hư: 

Phép trị : ôn thận tráng dương, bổ tinh huyết. 

Chóng mặt đầu âm u, ngực bụng buồn đầy, người nặng nề do đàm trệ. 

Phép trị: kiện tỳ tiêu đàm…

Trong thực tế, bệnh chứng chóng mặt phần nhiều do phong, hỏa, đàm, và hư chứng. Có khi xuất hiện đơn độc, có khi xuất hiện song trùng. Điều trị trước phải thanh hỏa hóa đàm, khi bệnh lui, nên chữa căn nguyên bổ ích can thận âm giáng hư hỏa, kiện tỳ tiêu đàm mới là trị tận gốc.

Bài trị ứ nước màng tim theo đông y

 Theo Đông y, bệnh nhân mắc chứng “Thủy khí lăng tâm” do tâm (tim) thận dương hư. Chứng tâm thận dương hư trong Đông y phần nhiều do dương khí của tâm kém thủy ẩm nghịch lên, thuộc loại đình ẩm là do nước ứ đọng ở dưới tâm (ngoài màng tim). Tâm vốn chủ hỏa nhưng lại sợ thủy, khi nước ứ đọng ở màng tim, bệnh nhân thấy người nóng khó chịu, tâm hồi hộp, đoản hơi khó thở, mặt tím tái người mệt mỏi, đau tức vùng ngực, xem lưỡi: lưỡi dày đen, có nhiều nốt ứ huyết, mạch trầm tế sác vô lực…

u nuoc mang timHình ảnh tràn dịch màng tim.

 

Điều trị ứ nước màng tim

Ôn dương, lợi thủy, trấn nghịch, trừ hồi hộp.

Bài chữa viêm phế quản cấp theo đông y

 Mùa thu đông, nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm chênh nhau rất nhiều, độ ẩm cũng giảm dần nên dẫn đến khô hanh. Ðây cũng là thời điểm dễ sinh bệnh đường hô hấp , đặc biệt là viêm phế quản . Theo Ðông y, lúc đầu tà vào phần vệ khí sau đó vào phần phế khí. 

Viêm phế quản khi tà vào phần vệ khí

người bệnh hơi sốt, hơi sợ lạnh, nhức đầu, ra mồ hôi ít, ho khan hay ho ít đờm mà dính, mũi khô, họng khô, lưỡi đỏ, khát nước, rêu lưỡi trắng, mạch sác.

 Phép chữa Viêm phế quản khi tà vào phần vệ khí

Tân lương nhuận phế. 

Viêm phế quản khi tà vào phần phế khí

người bệnh sốt, ho nhiều, không đờm, suyễn, mũi họng khô, bực dọc, khát, nhức đầu, rêu lưỡi khô trắng mỏng, cạnh lưỡi và đầu lưỡi đỏ thẫm, mạch phù sác. 

Phép chữa Viêm phế quản khi tà vào phần phế khí: 

Thanh phế nhuận táo chỉ khái.