Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?

Y học phương Tây, hay y học hiện đại hình thành từ thực nghiệm, phân tích, chứng minh. Thí dụ mổ phanh ra xem có những cơ quan gì, rồi mô tả vị trí, kích thước các cơ quan đó: Hình thành bộ môn giải phẫu. Dùng thực nghiệm để tìm hiểu chức năng từng cơ quan khi nó hoạt động bình thường hay khi bị bệnh. Từ đó hình thành bộ môn sinh lý thường và sinh lý bệnh.
Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?
Khi bị bệnh, nhận xét các triệu chứng thể hiện ra ngoài như ho, sốt, khó thở, vàng da.v.v… Rồi lại mổ để phân tích tổn thương các cơ quan xem tim, gan, phổi… khác với bình thường thế nào từ đó hình thành bộ môn giải phẫu bệnh. Dùng vị thuốc diệt con ký sinh trùng, diệt con vi trùng đều có làm thực nghiệm xem thuốc đó tác động tới ký sinh trùng (giun, sán) hay vi trùng như thế nào. Từ đó mới sản sinh ra thuốc, hình thành bộ môn dược lý. Cũng qua thực nghiệm, người ta giải thích tại sao bị bệnh gọi là cơ chế bệnh sinh.
Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?
Lúc đầu còn sơ khai, sau này khoa học phát triển, y học được thừa hưởng cũng phát triển theo con người, khám phá sâu về con người, biết sâu về bệnh tật, tìm ra nhiều cách chữa, cứu chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Đó là Y học hiện đại của các nước phương Tây (Tây bán cầu) hay còn gọi là Tây y. Có trường lớp, có chương trình để đào tạo thầy thuốc.
Y học phương Đông hình thành từ thực tiễn cuộc sống. Con người phải sống, lao động, chịu tác động của môi trường thiên nhiên như không khí, đất, thực phẩm, nước. Có lẽ lúc đầu từ lao động nhiều, mệt mỏi, con người biết vươn vai, xoa xoa bóp bóp thấy đỡ mệt, đỡ đau. Khi đói cần tìm lá, quả, củ để ăn. Có thứ ăn lăn ra chết, có thứ ăn vào bị nôn nao, có thứ ăn vào thấy khoẻ và lớn lên. Qua hàng ngàn đời truyền lại và tổng kết thứ gì tốt, thứ gì độc, thứ gì ăn hết đau, thứ gì uống hết sốt.v.v… Cứ như thế, đời trước truyền cho đời sau để duy trì và phát triển nòi giống. Khi phát hiện ra lửa, con người biết nấu chín, dần biết chế biến thức ăn, uống, chế biến thuốc, bảo vệ nòi giống. Cũng từ thực tiễn, nhận xét thấy lạnh sinh bệnh gì, nóng sinh bệnh gì, ẩm thấp ảnh hưởng đến sức khoẻ ra sao. Từ tổng kết tác động của thiên nhiên, của ăn uống, mặt trái của lao động và thực phẩm mà phát hiện ra các nguyên nhân gây bệnh…
Khi con người có chữ viết, đã phát hiện ra các học thuyết: Âm dương – Ngũ hành, Kinh dịch… thì y học phương Đông có lý luận. Vậy là hình thành Y học phương Đông. Y học phương Đông được một số người tự tìm tòi trong cuộc sống, khám chữa bệnh, tự chế thuốc gọi là ông bà lang vườn. Có người được học giỏi Nho – Y – Lý số rồi khám chữa bệnh, hình thành các lương y. Khoảng 100 năm gần đây, những lương y mở trường đào tạo và cũng đã đào tạo các lương y thực thụ. Vậy ở xã hội ta có hai loại: một là người được đào tạo có lý luận của y học phương Đông, một loại từ lượm lặt kinh nghiệm, từ gia truyền cũng gọi là thầy thuốc, là lương y. Do vậy, đã đến lúc các nhà quản lý nên tìm các tên thích hợp cho các đối tượng trên kẻo xã hội dễ bị hiểu lầm, nhất là thời buổi kinh tế thị trường như ngày nay. (Trong từ điển: Lương y được định nghĩa là thầy thuốc giỏi, chứ không phải ai, cứ chữa bệnh gọi là lương y). Y lý của Đông y quá sâu sắc, nhất là khi kết hợp với Kinh Dịch, thì số người hiểu để vận dụng hành nghề có thể nói chỉ đếm trên đầu ngón tay dám cho mình là người hiểu biết y lý. Cách khám bệnh là một ví dụ.
Y học phương Đông khám bệnh như thế nào?
Khám theo trình tự: vọng, văn, vấn, thiết. Vọng là nhìn, là quan sát người đến khám bệnh, dáng đi, đứng có gù, vẹo, lệch, có gì bất thường rồi nhận xét thần và sắc của người bệnh. U tối, sáng sủa, đau, buồn, bực tức, lo nghĩ… thần của vẻ mặt sẽ chỉ ra nguyên nhân và bệnh ở đâu. Sắc là màu sắc của da, niêm mạc sáng, đỏ, đen, vàng … mỗi màu là một bệnh. Xem răng, môi, lưỡi… Nhìn lưỡi nhận xét tổng thể lưỡi dày, mỏng, phía trên lưỡi có lớp rêu trắng hay vàng, đen, có dày hay mỏng. Dìa lưỡi có ngấn răng là bệu…. Sau đó xem đầu lưỡi, giữa lưỡi, cuống lưỡi có gì bất thường. Dìa lưỡi bên phải khác dìa lưỡi bên trái… Tất cả các nhận xét trên cho thầy thuốc nhận định bệnh ở nông hay sâu, bệnh ở hàn hay nhiệt, bệnh ở cơ quan tạng phủ nào: tâm, can, tỳ, phế, thận. Ẩm thấp hay khô táo. Bệnh khó hay dễ chữa. Cũng từ nhận xét qua nhìn lưỡi, gợi ý nên chọn thức gì, phối hợp thuốc ra sao.
Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?
Vì các triệu chứng nhận xét của thầy thuốc và lời khai của bệnh nhân (hay gia đình) thường mang tính chủ quan. Vì vậy, người xưa yêu cầu phải khám rất tỷ mỉ, phải đủ bốn bước, rồi mới được kết luận. Phải so sánh bốn nhóm triệu chứng qua bốn bước, triệu chứng nào phù hợp, triệu chứng nào giả. Sau vọng thần sắc là vọng bộ phận bị bệnh. Thí dụ, xem ngực, bụng, đầu, tóc, móng… xem màu sắc chất thải như đờm, nước tiểu, phân, kinh nguyệt.
Văn là nghe, ngửi. Nghe tiếng nói, tiếng ho, to hay nhỏ, tiếng rõ hay yếu; Ngửi mùi hơi thở hôi, chua; Mùi chất thải chua, tanh, hôi…
Vấn chẩn là hỏi bệnh. Hỏi nguyên nhân đi khám bệnh: do đau, do sốt, do nôn, do mệt mỏi, do mất ngủ, do ăn uống kém, do gầy sút… Thời gian bị bệnh bao lâu ? Các triệu chứng trên có liên quan đến nóng, lạnh, ẩm thấp (thí dụ: lạnh ho tăng liên quan đến ăn, uống). Cần hỏi các triệu chứng kèm theo. Thí dụ ho có sốt không, ho có khó thở, có táo bón? hoặc đau vai có ho, có hạn chế vận động .v.v…
Thiết là sờ. Sờ da xem lạnh hay nóng, ẩm hay khô, sờ bộ phận bị bệnh: bụng, ngực… Sờ ấn các huyệt vị, đường kinh xem có gì bất thường, cuối cùng mới bắt mạch. Người bệnh và thầy thuốc phải ngồi thoải mái, có bàn, có gối kê tay. Khi khám, thầy thuốc phải bình tĩnh… Nhận xét 6 bộ mạch ở hai tay liên quan đến các tạng phủ. Xem tính chất của mạch: phù, trầm, căng, nhũn, đều hay loạn… Có 36 loại mạch, mỗi mạch ứng với một bệnh và bệnh thuộc tạng phủ nào.
Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?
Sau khi qua bốn bước khám bệnh (vọng, văn, vấn, thiết), thày thuốc tập hợp và suy luận để đưa ra kết luận: Bệnh còn ở nông hay đã sâu vào tạng phủ, bệnh thuộc hàn hay nhiệt, bệnh mắc đã lâu hay mới, sức người bệnh còn khoẻ hay yếu, cuối cùng bệnh thuộc loại âm hay dương. Bệnh ở tạng phủ nào? (Tâm, can, tỳ, phế, thận…).
TÌm nguyên nhân gây ra bệnh :
Thời tiết, khí hậu trái thường. Do trạng thái tâm lý, tình cảm căng thẳng kéo dài. Do trùng, thú vật cắn hay do chấn thương, chiến thương. Do ăn uống no đói thất thường hay do sinh hoạt bừa bãi.
Từ đó thầy thuốc mới gợi ý cách phòng bệnh và cách chữa cho người bệnh. Chữa bằng thuốc hay không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, luyện tập, hoặc phối hợp cả hai).

PGS.TS Dương Trọng Hiếu

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Đông y kỳ diệu, uyên thâm

Càng học, càng đọc, càng thấy lý luận y học cổ truyền (đông y) thật kỳ diệu và uyên thâm. Lý luận của y học cổ truyền không chỉ vận dụng vào y học (khám, chữa bệnh) mà suy rộng ra có thể vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống con người, xã hội.
Lấy học thuyết tạng tượng của y học cổ truyền là một ví dụ: “Tạng” theo nghĩa gốc tạng, là chứa đựng bên trong, ở đây chỉ các cơ quan nội tạng trong cơ thể. “Tượng” lý giải theo nghĩa là biểu tượng, hình tượng hay những trạng thái biểu hiện ra bên ngoài. Thông qua các biểu hiện và trạng thái bên ngoài, cái mà người ta có thể cảm nhận, quan sát được (tượng), mà nắm bắt, hiểu được cái bên trong tàng ẩn không quan sát, nhận biết được (tạng). Phương pháp tư duy này của y học cổ truyền rất logic, uyên thâm, phù hợp với quy luật của nhận thức và được vận dụng một cách diệu kỳ không chỉ trong chẩn đoán, điều trị bệnh mà cả trong cuộc sống nói chung.
Sở dĩ quan sát, nhận biết cái bên ngoài (tượng) để hiểu được và nắm bắt được cái bên trong (tạng), người xưa đã sớm phát hiện quy luật “hữu ư chung tất hình ư ngoại” (có ở bên trong ắt phải hiện ra bên ngoài) và trên cơ sở quan sát, nhận biết những biểu hiện, biến đổi bên ngoài để hiểu được nội dung bên trong. Ví dụ: thấy da dẻ mát lạnh hay nóng sốt biết là cơ thể đang bị cảm mạo do phong hàn hay phong nhiệt, sẽ xuất hiện các chứng tắc mũi, chảy nước mũi, ho….qua đó người ta biết được giữa da, lông, lỗ mũi và phế (phổi) có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Y học cổ truyền chỉ ra rằng: không có cái gì giấu kín ở trong mà không hề biểu hiện ra bên ngoài, từ sinh lý đến tâm lý. Bởi thực tế cho thấy “cái kim trong bọc, lâu ngày cũng lòi ra” hay “nhìn mặt mà bắt hình dong….”
Nhiều học thuyết, lý luận của đông y được áp dụng cả trong cuộc sống
Nhiều học thuyết, lý luận của đông y được áp dụng cả trong cuộc sống
Từ những lý luận kỳ diệu, uyên thâm của y học cổ truyền vận dụng trong chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh tật có kết quả….tôi suy ngẫm và thấy các học thuyết, lý luận của y học cổ truyền không chỉ vận dụng trong việc chẩn đoán, điều trị phòng ngừa bệnh tật mà rộng hơn nó còn có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống con người và xã hội. Ví dụ: nhìn diện mạo, phong thái, cách ăn nói, của một con người, ta có thể đoán biết được người thiện, kẻ ác, người chính, kẻ tà… như người xưa thường nói: “nhìn mặt mà bắt hình dong”, hay “khôn ngoan hiện ra mặt”.
Vậy hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người, đừng giấu kín suy nghĩ của mình hoặc hành động sai trái của mình, vì cổ nhân đã dạy: “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”.
“Hư thực” là một cặp phạm trù trong bát cương của y học cổ truyền. Hư là chỉ chính khí của cơ thể bất túc, sức đề kháng suy yếu. Thực là chỉ chính khí của cơ thể hữu dư, sức đề kháng của cơ thể mạnh mẽ. Nếu chính khí đầy đủ, mạnh mẽ thì tà khí không thể xâm nhập, gây bệnh cho con người. Suy rộng ra trong cuộc sống nếu cái thiện mạnh sẽ át được cái ác, cái tốt đẩy lùi cái xấu… vì vậy mỗi con người phải rèn luyện để cái thiện, cái tốt trong mình đầy đủ sẽ không sợ cái ác, cái xấu lấn áp như hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Trong thực tế cuộc sống nhận biết được đâu là hư, đâu là thực không phải dễ dàng, nên mới có hiện tượng “chân hư giả thực” hay “chân thực giả hư” là những khái niệm rất sâu xa của y học cổ truyền.
Khám bệnh tại Bệnh viện Y học cổ truyền Ninh Bình
Khám bệnh tại Bệnh viện Y học cổ truyền Ninh Bình
“Chân hư giả thực” là để chỉ chính khí bị hư nhược, nhưng lại biểu hiện giả như thực chứng, dễ làm người thầy thuốc bị nhầm lẫn. Ngược lại “chân thực giả hư” chỉ bệnh thực tà kết tụ, nhưng lại biểu hiện giả giống như hư chứng.
Để điều trị được bệnh, đòi hỏi người thầy thuốc phải phân biệt được đâu là “chân” (bản chất), đâu là “giả” (hiện tượng) nếu không sẽ bị nhầm lẫn giữa chân và giả. Suy rộng ra trong cuộc sống thực tế cũng vậy không được nhầm lẫn giữa bản chất (chân) và hiện tượng (giả) như người xưa từng cảnh báo: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”.
“Phù chính khu tà” là khái niệm rất độc đáo của y học cổ truyền. "Phù chính" là phù trợ, giúp đỡ chính khí, tăng cường chính khí để tiêu trừ bệnh tà. "Khu tà" là khu trừ bệnh tà, cũng là nhằm phù trợ cho chính khí. Suy rộng ra trong cuộc sống muốn cho mọi việc tốt đẹp hoàn mỹ, phải luôn luôn ủng hộ những điều tốt đẹp, hoàn mỹ đồng thời phải chung tay tiêu trừ những điều xấu.
Trong thực tế cuộc sống rất phong phú và đa dạng, nếu biết nắm bắt và vận dụng các học thuyết và lý luận của y học cổ truyền sẽ thấy được những điều kỳ diệu và uyên thâm của nó. Đó là bài học lớn mà tôi rút ra được và chiêm nghiệm trong cuộc sống cũng như cuộc đời hành nghề của mình.
Lấy học thuyết tạng tượng là một ví dụ: cái gì có bên trong rồi cũng phải thể hiện (lộ) ra bên ngoài. Vậy sao lại giấu kín những ý nghĩa hành động của mình để làm gì? Hãy sống cởi mở và chân thành với mọi người. Bởi vì không thể nào giấu được.
Cũng như vậy, nếu suy ngẫm sâu xa, các học thuyết về âm dương, ngũ hành, con người là tiểu vũ trụ của y học cổ truyền không chỉ là các học thuyết, lý luận thuần túy về y học mà mang ý nghĩa sâu xa và rất rộng.

Hoài Vũ 

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

BẾ KINH, VÔ KINH (Trẫn huyết)

BẾ KINH, VÔ KINH
(Trẫn huyết)
PGS.TS. Lê Thị Hiền
Mục tiêu
1. Trình bày được quan niệm vô kinh theo YHHĐ và YHCT.
2. Trình bày được triệu chứng và phương pháp điều trị vô kinh theo thể bệnh bằng YHCT.
1. theo y học hiện đại
1.1. Định nghĩa
Vô kinh là hiện tượng không có kinh nguyệt qua một thời gian quy định. Thời gian ấy là 18 tuổi đối với vô kinh nguyên phát, 3 tháng nếu đã từng có kinh đều, là 6 tháng nếu có kinh không đều.
Người ta còn phân biệt vô kinh sinh lý (xảy ra trong thời kỳ có thai, thời kỳ cho con bú) và vô kinh bệnh lý.
1.2. Điều trị
Gây vòng kinh nhân tạo theo trình tự: giai đoạn đầu chỉ có oestrogen, giai đoạn sau có cả oestrogen và progesteron giống như vòng kinh tự nhiên.
2. theo Y học cổ truyền
Trên thực tế lâm sàng y học cổ truyền chỉ chữa loại vô kinh thứ phát và chứng bế kinh, do 2 nguyên nhân chính:
− Do phần huyết giảm sút gồm: khí hư, huyết hư, lao tổn, vị nhiệt.
− Do phần huyết bị ứ trệ gồm: phong hàn, khí uất, đàm tắc, huyết ứ làm kinh huyết không vận hành gây bế kinh, vô kinh.
2.1. Khí huyết hư tổn
2.1.1. Do huyết hư: hay gặp ở người thiếu máu
Triệu chứng: kinh nguyệt vài tháng không có, sắc mặt vàng úa, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, hồi hộp, ăn kém, người gầy, da khô, chất lưỡi nhợt, mạch tế sác.
Phép điều trị: bổ khí huyết.
Phương:
Bài 1: Đảng sâm 12g Thục địa 12g
Bạch truật 12g Hà thủ ô 12g
Hoài sơn 12g Kê huyết đằng 12g
ý dĩ 12g Ngưu tất 12g
Kỷ tử 12g ích mẫu 16g
Bài 2: Dùng bài Tứ vật đào hồng
Xuyên khung 10g Bạch thược 12g
Đương quy 16g Đào nhân 12g
Thục địa 12g Hồng hoa 10g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 20- 30 thang.
2.1.2. Do tỳ khí hư
Triệu chứng: bế kinh vài tháng, sắc mặt vàng, tinh Thần mỏi mệt, đầu choáng, hồi hộp, thở gấp, kém ăn, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm.
Phép điều trị: kiện tỳ, ích khí, sinh huyết.
Phương: dùng bài Bổ trung ích khí thang gia giảm
Đảng sâm 12g Bạch truật 12g
Hoàng kỳ 12g Đương quy 12g
Thăng ma 12g Sài hồ 12g
Trần bì 12g Đan sâm 12g
Ngưu tất 12g Bạch thược
Hoặc dùng bài Quy tỳ thang gia giảm
12g
Đảng sâm 12g Bạch linh 12g
Bạch truật 12g Cam thảo 12g
Hoàng kỳ 12g Đương quy 12g
Táo nhân 10g Mộc hương 6g
Viễn chí 4g Thục địa 12g
Bạch thược 12g Xuyên khung 8g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
2.1.3. Do can thận âm hư
Triệu chứng: bế kinh vài tháng, người gầy còm, sắc mặt trắng, gò má đỏ, lòng bàn tay bàn chân nóng, miệng khô, tâm phiền, ít ngủ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch tế sác.
Phép điều trị: tư bổ can thận, hoạt huyết.
Nếu hư lao (lao phổi) thêm bổ phế âm.
Phương: dùng bài Lục vị gia vị
Thục địa 12g Sơn dược 12g
Sơn thù 12g Trạch tả 10g
Phục linh 12g Đan bì 12g
Trạch lan 12g Ngưu tất 12g
ích mẫu 12g Đào nhân
Nếu có phế âm hư thì dùng bài Kiếp lao tán
10g
Bạch thược 12g Bán hạ chế 12g
Hoàng kỳ 12g Phục linh 12g
Cam thảo 4g Đương quy 12g
Ngũ vị tử 10g Sa sâm 12g
Agiao 12g Thục địa 12g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 15-20 thang.
2.1.4. Do vị nhiệt: do nhiệt tích ở trung tiêu, không dẫn xuống làm tổn thương tân dịch gây nên bế kinh.
Triệu chứng: bế kinh, sắc mặt vàng, hai gò má đỏ, tâm phiền, nóng nảy, miệng đắng, họng khô, người gầy, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, có khi loét miệng, mạch tế sác.
Phép điều trị: tiết nhiệt, tồn âm.
Phương: dùng bài Ngọc trúc tán
Xuyên khung 10g Đương quy 12g
Thục địa 12g Bạch thược 12g
Đại hoàng 4g Mang tiêu 4g
Cam thảo 4g

Sắc uống ngày 1 thang, uống 15-20 thang hoặc có thể làm thuốc hoàn uống.
 
2.2. Do huyết ứ
2.2.1. Do phong hàn: do phong hàn xâm nhập vào mạch xung và nhâm gây bế kinh.
Triệu chứng: bế kinh, bụng dưới lạnh, đau, chân tay lạnh, buồn nôn, rêu lưỡi trắng, mạch trầm khẩn.
Phép điều trị: ôn kinh tán hàn, hành khí hoạt huyết.
Phương:
Bài 1:
Quế chi 6g Tô ngạnh 10g
Bạch chỉ 8g Đan sâm 12g
Xuyên khung 10g Uất kim 8g
Ngưu tất 12g Nga truật 10g
Bài 2: Lương phương ôn kinh thang
Đương quy 12g Ngưu tất 12g
Xuyên khung 10g Đảng sâm 12g
Bạch thược 12g Cam thảo 4g
Nga truật 12g
Quế chi 4g
Đan bì 12g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 7-10 thang.
2.2.2. Do can khí uất
Triệu chứng: bế kinh, tình chí uất ức, hay cáu gắt, phiền táo, sắc mặt vàng, ngực sườn đầy tức, ợ hơi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.
Phép điều trị: lý khí thư uất, điều kinh.
Phương:
Hương phụ  8g Nga truật 12g
Trần bì 8g Uất kim 8g
Xuyên khung 12g Ô dược 8g
Tô ngạnh 8g Ngưu tất 12g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
2.2.3. Do huyết ứ, huyết ngưng
Triệu chứng: bế kinh, đau vùng hạ vị, cự án, sắc mặt tối, miệng khô nhưng không muốn uống, mạch trầm sác.
Phép điều trị: hoạt huyết, hoá ứ.
Phương:
Bài 1: ích mẫu 12g Đào nhân 10g
  Uất kim 12g Ngưu tất 12g
  Tạo giác thích 8g Hương phụ 8g
Bài 2: Thông ứ tiễn

Đương quy 12g Huyền hồ 10g

Hồng hoa 10g Xích thược 12g

Xuyên khung10g Hương phụ 8g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
Châm cứu
+ Tại chỗ: châm bổ các huyệt quan nguyên, khí hải, khúc cốt.
+ Toàn thân: châm tam âm giao, huyết hải, thận du, can du, tỳ du.
+ Nhĩ châm: châm vùng tử cung và nội tiết.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống
− Vô kinh là hiện tượng….quy định.
− Thời gian ấy là…vô kinh nguyên phát,…..có kinh đều, …..có kinh không đều.
2. Hãy điền vào chữ Đ cho câu đúng, chữ S cho câu sai
− Vô kinh thể huyết hư, phép điều trị là bổ khí huyết Đ/S − Điều trị vô kinh không nên châm cứu Đ/S
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

ĐỚI HẠ

PGS.TS. Lê Thị Hiền
Mục tiêu
1. Nắm được Đại cương về đới hạ theo YHHĐ và YHCT.
2. Nêu được triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ bằng YHCT.
1. Đại cương
1.1. Theo y học hiện đại
Bình thường âm đạo phụ nữ tiết ra dịch nhầy trong, không hôi, có tác dụng nhu nhuận âm đạo, giữ cho pH của âm đạo ở mức 4,5 (toan) để vi khuẩn gây bệnh không phát triển (glucogen chịu tác dụng trực tiếp của trực khuẩn Doderlein ở âm đạo biến thành acid lactic làm môi trường âm đạo trở nên toan nên vi khuẩn không phát triển được).
Chất dịch được tiết ra từ các tuyến ở cổ tử cung, niêm mạc tử cung, biểu mô âm đạo dưới tác dụng của nội tiết.
Trong trường hợp thiểu năng nội tiết, khí hư ít, hay bị viêm âm đạo và dẫn đến vô sinh.
Trong nhiễm khuẩn đường sinh dục khí hư ra nhiều, bẩn, hôi, ngứa.
Tác dụng của khí hư:
− Bảo vệ âm đạo khỏi viêm nhiễm.
− Hướng cho tinh trùng đi về phía tử cung.
− Phản ánh sự phát triển của nội tiết.
− Phản ánh tình trạng của viêm nhiễm đường sinh dục.
− Dưới tác dụng của estrogen các chất protein kết tinh tạo thành hình ảnh dương xỉ (phản ánh tình trạng rụng trứng và phóng noãn), thường áp dụng để điều trị vô sinh.
1.2. Theo y học cổ truyền
Theo Nội kinh đới hạ bao gồm 2 nghĩa:
Nghĩa rộng: gồm tất cả các bệnh kinh đới, thai sản vì các bệnh này đều phát sinh phần dưới lưng quần (đới là dây thắt lưng quần, hạ là dưới).
Nghĩa hẹp: trong âm đạo có dịch chảy xuống lai rai gọi là đới hạ. Bao gồm bạch đới, xích đới, hoàng đới, hắc đới, thanh đới, ngũ sắc đới, bạch dâm (giống di tinh ở nam giới), bạch trọc (viêm đường tiết niệu).
Đới hạ thuộc âm dịch. Trong cơ thể âm dịch do tỳ vận hoá, thận bế tàng, liên quan đến xung nhâm. Khi tỳ vận hoá tốt, thận khí thịnh, xung - nhâm điều hoà, đới mạch kiên cố… thì âm dịch có tác dụng nhu nhuận âm hộ và âm đạo “tân tân thường nhuận, bản phi bệnh giả”.
Nếu thận khí bất túc, tỳ vận hoá kém hoặc nhâm mạch hư yếu, đới mạch bất cố gây khí hư ra nhiều, sắc màu có tính chất thay đổi gọi là bệnh đới hạ.
2. Nguyên nhân gây bệnh đới hạ
2.1. Nội nhân
− Do tỳ hư thấp đình trệ.
− Do can khí uất, nhiệt theo kinh can dồn xuống xung - nhâm.
− Do thận hư, xung - nhâm thương tổn gây nên đới hạ.
2.2. Ngoại nhân
Do phong hàn thấp nhiệt nhân lúc bào cung hư yếu xâm nhập vào gây nên bệnh đới hạ.
2.3. Bất nội ngoại nhân
Do chửa đẻ, phòng dục quá độ, nạo sẩy nhiều lần.
3. Điều trị
3.1. Thể do tỳ hư
Triệu chứng: đới hạ nhiều, trắng loãng như nước, không hôi, đau lưng, trướng bụng, da vàng nhạt, tinh Thần mệt mỏi, chân tay lạnh, đại tiện táo, chất lưỡi nhợt, mạch trầm nhược.
Phép điều trị: kiện tỳ, trừ thấp.
Phương: dùng bài Hoàng đới thang
Bạch truật 12g Sa tiền tử 8g
Hoài sơn 12g Thương truật 8g
Đảng sâm 12g Trần bì 8g
Bạch thược 12g Cam thảo 4g
Sài hồ 12g Bạch giới tử sao 4g
Hoặc dùng đối pháp lập phương
Đảng sâm 12g Hoài sơn 12g
ý dĩ 12g Bạch truật 12g
Thương truật 8g Hoàng bá 8g
Khiếm thực 12g Hương phụ 8g
Cam thảo 4g

Sắc uống ngày một thang, uống 10-15 thang.
3.2. Thể do thận hư
Triệu chứng: đới hạ nhiều, màu vàng, mệt mỏi, đau lưng, mỏi gối, tiểu tiện nhiều lần, lạnh bụng dưới, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng dày, mạch trầm tế.
Phép điều trị: bổ thận, cố xung nhâm.
Phương:
Nếu thận dương hư dùng bài Bát vị.
Nếu thận âm hư dùng bài Lục vị tri bá hoặc bài Thủ ô câu kỷ thang
Hà thủ ô 12g Câu kỷ tử 12g
Thỏ ty tử 12g Tang phiêu tiêu 12g
Xích thạch chi 12g Cẩu tích 12g
Đỗ trọng 12g Thục địa 12g
Hoắc hương 4g Sa nhân 4g
Sắc uống ngày một thang, uống 10-15 thang.
3.3. Thể do can uất
Triệu chứng: đới hạ lờ đờ máu cá, nhầy dính, kinh nguyệt trước sau không định kỳ, u uất, ngực sườn đầy tức, miệng khô đắng, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ, mạch huyền hoạt.
Phép điều trị: điều can, giải uất, thanh nhiệt.
Phương: dùng bài Long đởm tả can thang
 Long đởm thảo 12g Đương quy 12g
 Bạch thược 12g Sài hồ 12g
 Trạch tả  10g Mộc thông 10g
 Sa tiền  8g Cam thảo 4g
 Sắc uống ngày một thang, uống 10-15 thang.
3.4. Thể do thấp nhiệt
Triệu chứng: đới hạ nhiều, màu vàng như mủ, hôi, ngứa âm hộ, âm đạo, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
Phép điều trị: thanh trừ nhiệt thấp.
Phương: dùng bài Chỉ đới hoàng
Trư linh 12g Nhân trần  12g
Phục linh 12g Xích thược  12g
Sa tiền 10g Đan bì  12g
Trạch tả 10g Chi tử  12g
Hoàng bá 8g Ngưu tất
Sắc uống ngày một thang, uống 10-15 thang.
Hoặc có thể dùng bài Long đởm tả can thang.
 12g

TỰ LƯỢNG GIÁ
− Khí hư phản ánh tình trạng viêm nhiễm đường sinh dục Đ/S
− Đới hạ thuộc âm dịch Đ/S
2. Điền vào chỗ trống cụm từ thích hợp
− Đới hạ bao gồm…ngũ sắc đới.
− Nguyên nhân gây ra đới hạ là…..và bất nội ngoại nhân.
3. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể tỳ hư.
4. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể thận hư.
5. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể can uất.
6. Trình bày triệu chứng và phương pháp điều trị đới hạ thể thấp nhiệt.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

VIÊM LOÉT CỔ TỬ CUNG (Âm sang)

ThS. Thái Hoàng Oanh
Mục tiêu
1. Trình bày được biểu hiện bệnh lý ở cổ tử cung.
2. Trình bày được phương pháp điều trị viêm loét cổ tử cung bằng y học cổ truyền.
1. Đại cương
1.1. Theo y học hiện đại
Viêm loét cổ tử cung là bệnh viêm nhiễm đường sinh dục, tỷ lệ gặp khá cao (80%) trong bệnh phụ khoa, phổ biến hay gặp trong độ tuổi hoạt động tình dục. Nếu phát hiện bệnh sớm, điều trị tích cực sẽ khỏi hẳn và tránh được những biến chứng xấu như viêm tắc ống dẫn trứng, viêm phần phụ, ung thư cổ tử cung.
Viêm cổ tử cung: có 2 hình thái viêm cổ tử cung là viêm trong cổ tử cung và viêm ngoài cổ tử cung.
Lộ tuyến cổ tử cung: là tổn thương trong đó biểu mô trụ của ống tử cung phát triển và thay thế biểu mô lát của mặt ngoài cổ tử cung bị huỷ hoại. Về đại thể nhìn lộ tuyến những tổn thương loét, nếu làm nghiệm pháp thấm acid acetic 3% sẽ thấy tổn thương màu trắng, có những hạt như chùm nho.
Lao và ung thư cổ tử cung: diện loét lao và ung thư thường không đều, sần sùi, chạm vào dễ chảy máu. Để chẩn đoán xác định cần phải làm tế bào học hoặc sinh thiết.
Nguyên nhân: thường do lây qua đường tình dục, nhiễm khuẩn sau các thủ thuật như đặt vòng, bơm hơi vòi trứng, nạo sẩy thai, sau đẻ, thiếu vệ sinh khi giao hợp, khi hành kinh….
1.2. Theo y học cổ truyền
Viêm loét cổ tử cung được mô tả trong chứng âm sang (âm là ở trong, sang là nhọt, lở loét).
Nguyên nhân: do can khí uất kết, do tỳ hư hoặc do ngoại nhân gây nên thấp nhiệt hạ tiêu. Thấp lâu ngày dẫn đến sinh loét, loét lâu dẫn đến sinh trùng (ngứa).
2. Điều trị
2.1. Theo y học hiện đại
Phải xác định mầm bệnh và nguyên nhân gây bệnh.
Nếu do vi khuẩn thường: khí hư vàng như mủ, có thể lẫn ít máu, âm đạo đỏ, cổ tử cung viêm đỏ.
Đặt thuốc kháng sinh phối hợp với estrogen: thường dùng colposeptin vừa có tác dụng sát khuẩn vừa có tác dụng estrogen, mỗi ngày đặt một viên vào âm đạo trong 20 ngày liên tục.
Nếu viêm do lậu:khí hư đặc trắng hoặc xanh đục, phải điều trị cả nam giới.
Nếu viêm do Gardnerella vaginalis (là loại Gram (âm) hình que): khí hư nhiều, hôi, đục, ngứa, cổ tử cung viêm loét, soi tươi khí hư sẽ thấy nhiều trực khuẩn gậy bám thì dùng ampicillin 2g/ngày hoặc amoxicilin 1g/ngày trong 10 ngày.
Ngoài dùng kháng sinh có thể vận dụng thêm đốt điện cổ tử cung, áp lạnh cổ tử cung.
2.2. Theo y học cổ truyền
Đặt thuốc tại chỗ chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu: giảm tiết dịch và dọn sạch tổn thương
Đặt bột khứ hủ (khứ là khước, bỏ; hủ là chất bẩn, hôi), thành phần gồm:
Lá mỏ quạ Lá móng tay
Ngũ bội tử Bạch cập
Bằng sa Phèn phi
Giai đoạn 2: chống viêm (khi mặt loét chỉ còn viêm đỏ) Đặt bột tiêu viêm, thành phần gồm:
Lá móng tay
Hoàng bá
Hoàng đằng
Giai đoạn 3: tái tạo tổ chức
Đặt bột sinh cơ, thành phần gồm:
Nghệ vàng Mẫu lệ
Hoàng bá Ngũ bội tử
Lô cam thạch (oxyd kẽm)
Các loại thuốc đặt này đều được sản xuất tại Khoa dược Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương.
Chú ý:
+ Thuốc đặt được làm dưới dạng bột đảm bảo độ PH của âm đạo (4,5) mỗi ngày đặt 10g, có thể đặt liên tục hoặc cách ngày.
+ Thời gian đặt thuốc: phụ thuộc vào tổn thương, không nhất thiết phải qua 3 giai đoạn.
+ Khi có kinh không đặt thuốc.
+ Ngoài thuốc đặt tại chỗ có thể dùng thuốc uống trong theo biện chứng.
+ Những trường hợp đặt thuốc và uống thuốc của y học cổ truyền không có kết quả phải kết hợp với y học hiện đại.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền vào chữ Đ cho câu đúng, chữ S cho câu sai
− Viêm loét cổ tử cung được mô tả trong chứng âm sang Đ/S
− YHHĐ thường dùng kháng sinh đặt tại chỗ Đ/S
− Không nên đốt điện cổ tử cung Đ/S
− Viêm cổ tử cung có thể biến thành ung thư cổ tử cung Đ/S
2. Trình bày phương pháp điều trị viêm loét cổ tử cung theo YHCT.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

VIÊM ÂM ĐẠO (Âm dưỡng)

PGS.TS. Lê Thị Hiền
Mục tiêu
1. Trình bày được các nguyên nhân gây viêm âm đạo.
2. Trình bày được triệu chứng và phương pháp điều trị viêm âm đạo theo y học cổ truyền.
1. theo Y học hiện đại
Viêm âm đạo là một trong các bệnh phụ khoa thường gặp, tuy không làm ảnh hưởng đến tính mạng nhưng gây khó chịu, ảnh hưởng đến sinh hoạt của người phụ nữ. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi sinh đẻ.
1.1. Nguyên nhân
Do nấm Candida albicans, trùng roi Trichomonas và tạp khuẩn (còn gọi là viêm âm đạo không đặc hiệu).
1.2. Triệu chứng
Nổi bật là ngứa, nóng rát âm hộ âm đạo, khí hư nhiều hoặc ít và ra nhiều hơn trong những ngày trước kinh. Nếu do nấm thì khí hư trắng đục như váng sữa, nếu do Trichomonas khí hư trắng loãng và nhiều bọt. Khám lâm sàng thấy âm hộ, âm đạo phù nề, viêm đỏ, trường hợp nặng có thể có tổn thương cả vùng tầng sinh môn và đùi bẹn.
1.3. Xét nghiệm
Lấy khí hư ở cùng đồ sau soi tươi tìm nấm, Trichomonas, tạp khuẩn. Trong trường hợp do nấm hoặc Trichomonas thì phải khám toàn thân để tìm nấm đường tiêu hoá, khoang miệng, hậu môn, móng tay, móng chân và bộ phận sinh dục của người chồng.
1.4. Điều trị
− Nếu do nấm: dùng thuốc kháng nấm như
+ Nystatin viên 100000UI, đặt âm đạo ngày 1 -2 viên/ngày, dùng trong 14 ngày.
+ Miconazol hoặc clotrimazol viên đặt âm đạo 200mg, 1 viên/ngày, dùng trong 3 ngày.
+ Hoặc clotrimazol 500mg đặt 1 liều duy nhất.
− Hoặc fluconazol viên 150mg uống 1 viên duy nhất, không cần điều trị cho bạn tình, không cần điều trị cho những phụ nữ xét nghiệm có nấm nhưng không có triệu chứng lâm sàng.
− Nếu viêm âm đạo do trùng roi: cần phải điều trị cho cả vợ, chồng và bạn tình. Có thể dùng 1 trong những phác đồ sau:
+ Metronidazol 2g hoặc tinidazol dùng liều duy nhất.
+ Metronidazol viên 250mg x 3 viên /ngày, uống 3 lần, cách nhau 8 giờ, uống 7 ngày.
− Nếu viêm âm đạo vi khuẩn:
+ Phác đồ sử dụng metronidazol như điều trị viêm âm đạo do trùng roi, không cần điều trị cho bạn tình.
+ Clindamycin 1,5-3g/ngày, uống chia 4 làn, cách nhau 6 giờ/lần.
+ Amoxicilin 250-500mg/lần, uống 3 lần, cách nhau 8 giờ/lần.
2. theo Y học cổ truyền
Viêm âm đạo được mô tả trong chứng âm dưỡng (âm là ở trong, dưỡng là ngứa).
2.1. Nguyên nhân
Thấp nhiệt khu trú ở hạ tiêu: do tỳ hư không vận hoá được thấp, thấp lâu ngày hoá nhiệt, thấp nhiệt dồn xuống hạ tiêu lâu ngày sinh trùng, dưỡng (ngứa).
Nhiệt uất ở kinh can: do tình chí tức giận làm thương can, can uất sinh nhiệt, nhiệt uất ở kinh can dồn xuống xung - nhâm gây nên bệnh.
2.2. Thể bệnh
2.2.1. Thể thấp nhiệt
Triệu chứng: ngứa cửa mình, khí hư nhiều, có bọt màu vàng hoặc như mủ, bồn chồn, mất ngủ, miệng đắng, tức ngực, đau lưng, tiểu vàng, đại tiện táo, mạch hoạt sác.
Phép điều trị: thanh nhiệt, trừ thấp.
Phương:
Bài 1: dùng bài Tỳ giải thẩm thấp thang gia thương truật
Tỳ giải 12g Sinh ý dĩ 20g
Hoàng bá 12g Xích thược 12g
Đan bì 16g Trạch tả 12g
Hoạt thạch 12g
Thương truật 8g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 5-7 thang.
Thông thảo 6g
Bài 2: dùng bài Đan chi tiêu dao:
Đan bì 12g Sài hồ 12g
Sơn chi 8g Bạch thược 12g
Đương quy 12g Bạch truật 8g
Phục linh 12g Bạc hà 4g
Đại táo 12g Gừng tươi 3lát
Sắc uống ngày 1 thang, uống 5-7 thang.
2.2.2. Thể nhiệt uất ở kinh can
Triệu chứng: ngứa cửa mình, u uất, dễ cáu giận, bồn chồn, ngủ ít, mồm khô đắng, đại tiện táo, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác − Phép điều trị: tả can, thanh nhiệt.
Phương: dùng bài Tả can thang
Long đởm 8g Sinh địa 8g
Sài hồ 8g Trạch tả 8g
Đương quy 8g Mộc thông 8g
Sa tiền tử 8g Chi tử sao 8g
Hoàng cầm 8g Cam thảo 4g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 5-7 thang.
Ngoài thuốc uống, còn dùng thuốc đặt tại chỗ cũng có tác dụng rất tốt.
Hiện tại Khoa phụ Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương đang sử dụng bột đặt tiêu viêm B, thành phần gồm: hoàng bá, lá móng tay, lưu huỳnh. Các vị thuốc trên sấy khô, tán mịn, đảm bảo độ PH của âm đạo (4,5). Mỗi ngày đặt 1 lần 10g vào âm đạo, đặt 5-7 ngày, có thể đặt liên tục hoặc cách ngày.
3. Dự phòng
Người phụ nữ luôn giữ gìn vệ sinh hàng ngày, cần chú ý đến một số thuận lợi gây viêm âm đạo.
4. tiến triển và biến chứng
Các nhiễm khuẩn âm đạo có thể gây viêm tiểu khung, dẫn đến nguy cơ chửa ngoài tử cung, vô sinh. Một số trường hợp có thể gây sẩy thai, đẻ non hoặc trẻ đẻ thiếu cân.
TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền chữ Đ cho câu đúng, chữ S cho câu sai
− Viêm âm đạo thường do nấm, trùng roi, tạp khuẩn Đ/S − Viêm âm đạo bắt buộc phải điều trị cho cả bạn tình Đ/S
− Viêm âm đạo theo YHCT chia làm 3 thể lâm sàng Đ/S
2. Hãy điền vào chỗ trống cụm từ thích hợp
− Phép điều trị của thể thấp nhiệt là…..
− Phép điều trị của thể thấp nhiệt ở kinh can là…
3. Kể được triệu chứng của viêm đạo theo YHHĐ.
4. Kể được những biến chứng của viêm âm đạo.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền

VIÊM PHẦN PHỤ (Trưng hà)

ThS. Thái Hoàng Oanh
Mục tiêu
1. Trình bày được Đại cương viêm phần phụ theo YHHĐ và YHCT.
2. Trình bày được triệu chứng, nguyên nhân gây bệnh, phép điều trị viêm phần phụ theo YHCT.
1. Đại cương
1.1. Theo y học hiện đại
Nguyên nhân: thường xảy ra sau đẻ, nạo, sẩy, hành kinh, hoặc cơ thể sức đề kháng giảm, nhiễm trùng ngược dòng, qua đường máu (ít gặp 2%), lao sinh dục, biến chứng quai bị.
Triệu chứng:
+ Cơ năng: đau vụng hạ vị, thường đau cả hai bên hố chậu, đau liên tục, có khi đau từng cơn dữ dội, có thể có sốt, mạch nhanh.
+ Thực thể: nắn bụng thấy đau vùng hạ vị. Thăm âm đạo: có khối nề cạnh tử cung, tử cung di động hạn chế, khi viêm chưa lan toả sẽ nắn thấy vòi trứng căng thành một khối, ấn đau. Khi viêm lan toả thì các bộ phận xung quanh dính với vòi trứng thành khối nề, ấn vào rất đau, khi đó thành bụng sẽ có phản ứng.
Chẩn đoán:
+ Chẩn đoán xác định: dựa vào tiền sử có bị các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục hoặc nhiễm khuẩn sau thủ thuật buồng tử cung và các triệu chứng đau vùng hạ vị, sốt, có khối nề cạnh tử cung, ấn đau.
+ Chẩn đoán phân biệt với: viêm ruột thừa, viêm phúc mạc tiểu khung, u nang buồng trứng xoắn, chữa ngoài tử cung.
Điều trị: điều trị nội khoa là chính + Nghỉ ngơi.
+ Kháng sinh.
+ Nâng cao thể trạng.
+ Lý liệu pháp: chiếu tia hồng ngoại.
+ Điều trị ngoại khoa đặt ra khi có túi mủ khu trú và sau khi điều trị tích cực bằng kháng sinh không đỡ.
1.2. Theo y học cổ truyền
Được mô tả trong chứng trưng hà.
Trưng: là khối tích tụ của huyết. Huyết thuộc âm, tính chất của âm là chìm, lặng nên đau cố định tại chỗ.
Hà: là khối tích tụ của khí. Khí thuộc dương, tính chất của dương là nổi và động nên đau không cố định.
Điều trị: chia làm 4 thể (1 thể cấp tính và 3 thể mạn tính).
2. Phương pháp điều trị theo y học cổ truyền
2.1. Viêm phần phụ cấp
2.1.1. Thể nhiệt độc
Nguyên nhân:
Chủ yếu do nhiệt độc. Y học cổ truyền cho rằng sau khi hành kinh hoặc sau đẻ thì bào cung hư yếu, nhiệt tà nhân đó xâm phạm vào bào cung, chính tà tranh chấp, dinh vệ bất hoà mà gây nên bệnh.
Triệu chứng: sốt, đau bụng dưới, cự án, khí hư vàng hôi, người mệt mỏi, đau đầu, miệng khô không muốn ăn, nước tiểu vàng ít, đại tiện táo hoặc lỏng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
Phép điều trị: thanh nhiệt giải độc, hành khí hoạt huyết.
Phương: dùng bài Ngân liên hoàn
Kim ngân hoa 12g Đan bì 12g
Liên kiều 12g Xích thược 12g
Chi tử 12g ý dĩ 12g
Xuyên luyện tử 10g Huyền hồ 10g
Nếu phần phụ nề nhiều gia: đào nhân 8g, hồng hoa 8g.
Nếu có biểu chứng gia: kinh giới 10g, phòng phong 10g, bạch chỉ 8g.
Nếu chướng bụng gia: mộc hương 4g, hương phụ 6g.
Nếu khí hư nhiều hôi gia: hoàng bá 8g, nhân trần 12g.
2.12. Thể thấp nhiệt
Triệu chứng: thường là đợt cấp của viêm phần phụ mạn tính. Người bệnh có thể có sốt kéo dài, mệt mỏi, đau bụng dưới, khí hư nhiều màu vàng, hôi, đau lưng, tiểu tiện vàng, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch hoạt sác.
Pháp điều trị: phá ứ, tán kết, trừ thấp nhiệt.
Phương: dùng bài Tiêu tích tán
Tam lăng 12g Nga truật 12g
Đào nhân 10g Đan sâm 12g
Đan bì 12g Xích thược 12g
Huyền hồ 10g ý dĩ 12g
Nếu đau lưng gia thêm tục đoạn 12g, tang ký sinh 12g.
2.2. Viêm phần phụ mạn tính
Do viêm phần phụ cấp điều trị không triệt để, có thể biểu hiện cục bộ như tắc ống dẫn trứng, ứ nước vòi trứng dẫn đến vô sinh. Y học cổ truyền chia làm 3 thể.
2.2.1. Thể khí trệ, huyết ứ
Triệu chứng: đau hạ vị không cố định, trướng bụng, khí hư ra nhiều, kèm theo rối loạn chức năng tỳ vị, kinh nguyệt không đều, thống kinh.
Pháp điều trị: lý khí, hành trệ, hoạt huyết, hoá ứ.
Phương: dùng bài Tứ vật đào hồng, hoặc đối pháp lập phương như sau
Đảng sâm 12g Kê huyết đằng 12g
Trần bì 8g Chỉ xác 8g
Hương phụ 6g Xuyên khung 10g
Xích thược 12g ý dĩ 12g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
2.2.2. Thể hàn ngưng, khí trệ
Nguyên nhân: do hành kinh hoặc sau đẻ, sẩy có dầm mưa lội nước hoặc, ăn chất sống lạnh quá độ, hàn tà xâm nhập vào bào cung, huyết bị hàn ngưng lại gây đau.
Triệu chứng: đau tức bụng dưới, lạnh bụng dưới, thích chườm nóng, đau lưng nhất là hai bên xương hông, kinh nguyệt sau kỳ (lượng ít, có cục) khí hư nhiều loãng, chất lưỡi nhợt, có điểm ứ huyết, rêu lưỡi trắng, mạch trầm trì.
Phép điều trị: ôn kinh tán hàn, hành khí hoạt huyết.
Phương: dùng bài Tiểu phúc khử ứ thang
Bồ hoàng 6g Ngũ linh chi  6g
Đương quy 12g Xích thược 12g
Một dược  6g Tiền hồ 10g
Quế tâm  4g Tiểu hồi   4g
Bào khương  4g

Sắc uống ngày 1 thang, uống 10-15 thang.
3. Các phương pháp điều trị kết hợp
3.1. Châm cứu
Châm bổ các huyệt: quan nguyên, khí hải, quy lai, tử cung, tam âm giao, huyết hải, thận du, bát liêu; cứu đối với thể hàn ngưng, khí trệ.
3.2. Thụt thuốc vào hậu môn Thuốc thụt gồm:
Bồ công anh 12g Kê huyết đằng 12g
Hồng hoa  8g Đào nhân 8g
Tam lăng 10g Nga truật 10g
− Nếu trướng bụng: bỏ tam lăng, nga truật; thêm hương phụ 8g, huyền hồ 12g.
− Nếu phần phụ nề cứng thêm nhũ hương 4g, một dược 4g.
Mỗi thang sắc kỹ lấy 100ml nước thuốc, lọc qua vải màn 2 lần, giữ độ ấm 36- 37 độ, thụt chậm vào hậu môn cách ngày. Trước khi thụt thuốc phải thụt tháo phân.

TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Hãy điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống:
− Viêm phần phụ thường xảy ra sau…quai bị.
− Điều trị bằng các biện pháp…ngoại khoa khi cần thiết.
− Trưng là …..của huyết.
− Hà là …của khí.
2. Trình bày triệu chứng, nguyên nhân, phép điều trị viêm phần phụ thể nhiệt độc.
3. Trình bày triệu chứng, nguyên nhân, phép điều trị viêm phần phụ thể thấp nhiệt ứ kết.
4. Trình bày triệu chứng, nguyên nhân, phép điều trị viêm phần phụ thể khí trệ huyết ứ.
5. Trình bày triệu chứng, nguyên nhân, phép điều trị viêm phần phụ thể hàn ngưng khí trệ.
Nguồn: Bệnh học Ngoại - Phụ - Y học cổ truyền
NXB Y Học - 2008
Chủ biên: PGS.TS. Phạm Văn Trịnh
PGS.TS. Lê Thị Hiền