Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Ngày xuân, nói chuyện cứu để sống thọ




Con người sống trong thế gian không thể không già, lại càng không thể sống mãi. Người xưa có câu : “Sinh chi hữu trưởng, trưởng chi hữu lão, lão chi hữu tử, nhược tứ thời chi đại tạ hĩ”, ý nói người ta sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết tựa như sự xoay vần của bốn mùa vậy. Xem ra, chuyện sinh tử của con người cũng là một quy luật bất khả kháng của tạo hoá.
Nhưng, liệu con người có thể làm chậm quá trình lão hoá được không ? Có thể kéo dài tuổi thọ để sống cho hết “tuổi trời cho” được hay không ? Câu trả lời được khẳng định là hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là ở chỗ phải làm như thế nào để sống khoẻ và sống lâu một cách có hiệu quả. Thật khó có thể kể hết những quan niệm, những biện pháp mà loài người đã lý giải và tìm ra nhằm đạt mục đích này. Song điều đáng nói là có những biện pháp rất cũ, rất tự nhiên, rất dễ làm và cũng rất rẻ tiền, nhưng dường như rất ít được chú ý đến. Đó là những phương pháp dưỡng sinh trường thọ giản dị mà độc đáo của y học cổ truyền, trong đó không thể không kể đến liệu pháp cứu một số huyệt vị nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, phòng chống bệnh tật, làm chậm quá trình lão hoá và kéo dài tuổi thọ cho con người.


Liệu pháp cứu để sống thọ là gì ?
Cứu để sống thọ là phương pháp dùng sức nóng tác động lên huyệt vị châm cứu để điều hoà âm dương khí huyết, ôn thông kinh lạc, phù chính khu tà nhằm đạt được mục đích bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, phòng chống bệnh tật và chống lão hoá và kéo dài tuổi thọ.
Cứu thường dùng lá ngải cứu khô chế thành ngải nhung rồi làm mồi ngải hay điếu ngải để cứu. Cách chế : lấy lá ngải cứu phơi khô trong bóng râm rồi đem vò hay giã nát để loại bỏ cuống và gân lá, sản phẩm thu được có màu vàng nhạt, mềm mại, sờ mịn như nhung nên gọi là ngải nhung. Sau đó dùng giấy mỏng (giấy bản hoặc giấy cuốn thuốc lá) cắt thành miếng dài 20 cm, rộng 4 cm, rải ngải nhung lên, cuốn thành điếu tròn như điếu thuốc lá to, gọi là điếu ngải hoặc dùng 3 ngón tay nhúm một ít ngải nhung đặt lên khay men, ép thành hình chóp nón, to bằng từ hạt đỗ đến hơn hạt ngô to, gọi là mồi ngải. Hiện nay, người ta thường dùng điếu ngải hơn mồi ngải, có thể mua điếu ngải chế sẵn tại các hiệu thuốc đông y.
Có 3 cách cứu điếu ngải : (1) Đốt điếu ngải rồi hơ trên huyệt, cách da chừng 2 cm, khi thấy nóng thì để cách xa dần, đến mức thấy nóng ấm, dễ chịu thì giữ nguyên khoảng cách đó cho đến khi thấy da hồng lên là được, cứu chứng 10 - 15 phút ; (2) Đặt điếu ngải cách da một khoảng đủ thấy nóng ấm rồi từ từ di chuyển điếu ngải theo vòng tròn, từ hẹp đến rộng, khi cảm thấy nóng đều vùng định cứu là được, cứu trong 20 - 30 phút ; (3) Đưa đầu điếu ngải lại gần sát da cho có cảm giác nóng rát rồi lại kéo ra xa, làm như thế nhiều lần như chim sẻ mổ thóc, thường cứu trong 2 - 5 phút.

Cơ chế tác dụng của phép cứu để sống thọ ra sao ?
Như trên đã nói, theo y học cổ truyền, cứu huyệt có tác dụng điều tiết và lập lại cân bằng âm dương, bổ dưỡng và điều hoà khí huyết, làm ấm và lưu thông kinh mạch, duy trì và cải thiện công năng các tạng phủ (hiệp điều tạng phủ), bảo vệ và nâng cao sức đề kháng của cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh (phù chính khứ tà). Sách Biển Thước tâm thư đã viết: “Người lúc không bệnh, thường cứu các huyệt Quan nguyên, Khí hải, Mệnh quan, Trung quản, … tuy không được trường sinh, cũng có thể sống thọ dư trăm tuổi”.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu ngải có tác dụng điều chỉnh và tăng cường công năng miễn dịch ; kháng khuẩn, tiêu viêm, giảm đau và chống dị ứng; thúc đẩy quá trình tạo máu và chống đông máu; làm hạ mỡ máu, điều tiết đường máu và giảm béo ; cải thiện vi tuần hoàn, thúc đẩy huyết dịch lưu thông và điều hoà huyết áp ; điều tiết chức năng hệ tiêu hoá, hệ thần kinh, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống tuyến yên - tuyến thượng thận và các tuyến nội tiết khác; tăng cường khả năng chống lạnh cho cơ thể ; chống ung thư và làm chậm quá trình lão hoá... Những nghiên cứu gần đây còn cho thấy, cứu ngải có tác dụng cải thiện công năng hoạt động của màng tế bào, thúc đẩy quá trình hồi phục hệ thống men trong nội bào. Nhờ những tác dụng này mà liệu pháp cứu huyệt có khả năng phòng bệnh, tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.

Những huyệt vị nào thường dùng cứu để sống thọ ?
• Huyệt Đại chuỳ:  Là huyệt hội của 6 kinh dương và mạch Đốc (chư dương chi hội) và là bể của dương mạch (dương mạch chi hải), có công dụng giải biểu sơ phong, thanh tâm định thần, kiện não, tiêu trừ mệt mỏi, tăng cường thể chất và cường tráng cơ thể. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Đại chuỳ đặc biệt có tác dụng gia tăng số lượng bạch cầu, nâng cao năng lực miễn dịch tế bào, cải thiện lưu lượng tuần hoàn não, phòng chống cảm mạo và các bệnh lý hệ hô hấp. Cách xác định huyệt: cúi đầu và quay đầu qua lại phải trái, dùng tay xác định u xương tròn cao nhất động đậy dưới ngón tay nhiều, đó là mỏm gai của đốt sống cổ thứ 7, huyệt Đại chuỳ nằm ngay dưới đầu mỏm gai này.
• Huyệt Trung quản:  Là huyệt hội của phủ, thuộc mạch Nhâm, có công dụng điều lý tràng vị, bổ khí, tiêu tích hoá trệ, lợi thấp hoà trung, giáng nghịch chỉ ẩu (trừ nôn). Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Trung quản đặc biệt có tác dụng nâng cao công năng tỳ vị, làm tăng nhu động dạ dày và ruột, thúc đẩy quá trình tiêu hoá thức ăn và hấp thu các chất dinh dưỡng, điều tiết bài tiết dịch tiêu hoá, cải thiện miễn dịch tế bào và phòng chống các bệnh lý dạ dày, ruột, túi mật và tuyến tuỵ. Cách xác định huyệt: nằm ở điểm giữa đường nối nơi gặp nhau của bờ cung xương sườn và rốn, phía trên rốn 4 thốn.
• Huyệt Quan nguyên:  Là huyệt hội của ba kinh âm và mạch Nhâm, là nơi chứa đựng nguyên khí rất cần cho sự sống, có công dụng bồi thận cố bản, bổ khí hồi dương, thông điều Xung Nhâm, thăng thanh giáng trọc, điều nguyên tán tà, bảo kiện phòng bệnh. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt quan nguyên đặc biệt có tác dụng cải thiện huyết động học, làm ổn định và gia tăng chỉ số SI và LVSWI của cơ tim, tăng cường lưu lượng tuần hoàn vành, nâng cao khă năng chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy, cải thiện và điều tiết miễn dịch. Cách xác định huyệt: nằm trên đường trục giữa cơ thể, dưới rốn 3 thốn hoặc ở điểm nối 3/5 trên và 2/5 dưới của đường nối điểm giữa bờ trên xương mu và rốn.
• Huyệt Thần khuyết :  ở trung tâm của rốn, thuộc mạch Nhâm, có công dụng ôn bổ nguyên khí, kiện vận tỳ vị, hồi dương cứu nghịch. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Thần khuyết đặc biệt có tác dụng điều tiết và nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, bảo hộ niêm mạc và cải thiện công năng hấp thu của đường tiêu hoá. Thần khuyết thường được cứu cách muối, cách gừng hoặc cách bột thuốc. Trong dân gian lưu truyền một phương pháp cứu Thần khuyết rất độc đáo có tác dụng bảo kiện trường thọ cực tốt, có tên gọi là Thần khuyết cứu tề pháp : lấy sinh ngũ linh chi 24g, thanh diêm 15g, nhũ hương 3g, một dược 3g, dạ minh sa 6g (sao qua), mộc thông 9g, can thông đầu 6g, xạ hương một chút xíu, tất cả đem tán thành bột thật mịn. Khi cứu, lấy vài thìa bột mì hoà với nước rồi nặn thành cái vành tròn úp ngay ngắn lên lỗ rốn, lấy 6g bột thuốc đổ vào lỗ rốn rồi dùng một miếng vỏ cây hoè mà đốt bởi một nén hương, cứ bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu mồi, mỗi tháng cứu 1 lần, cứu vào giờ Ngọ là tốt nhất.
• Huyệt Túc Tam lý :  Là huyệt nằm trên đường kinh Vị, có công dụng điều lý tỳ vị, kiện vận tỳ dương, ôn trung tán hàn, bổ trung ích khí, điều hoà khí huyết, tuyên thông khí cơ, đạo khí thượng hành, phù bản cố nguyên, bổ hư cường thân. Y thư cổ có câu : “Đỗ phúc Tam lý lưu”, ý muốn nói cứu huyệt vị này có thể phòng chống các bệnh lý đường tiêu hoá. Trong dân gian Nhật bản lưu truyền câu tục ngữ : “Nhược yếu an, Tam lý mạc yếu can”, nghĩa là muốn khoẻ mạnh và sống lâu thì huyệt Túc tam lý không được để cho khô, ý là phải cứu huyệt vị này cho bỏng lở liên tục. Bởi vậy, Túc tam lý còn được gọi là Trường thọ huyệt hay Vô bệnh trường thọ huyệt. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu Túc Tam lý đặc biệt có tác dụng chống lão hóa rõ rệt thông qua việc cải thiện hàng loạt các chỉ tiêu về tuần hoàn, hô hấp, thần kinh, tiết niệu, nội tiết, miễn dịch và vận động ở người có tuổi và cao tuổi. Cách xác định huyệt : sờ bờ trước xương ống chân (mào chày) từ dưới cổ chân ngược lên, đến gần khớp gối ngón tay bị mắc lại ở đâu thì đó là lồi củ trước xương chày, từ đây đo ngang ra ngoài một khoát ngón tay là vị trí của huyệt, khi ấn có cảm giác tê tức lan xuống bàn chân.
• Huyệt Tam âm giao : Là huyệt hội của 3 kinh âm, có công dụng kiện tỳ hoà vị, sơ can lý khí, bổ thận tăng tinh, thông kinh hoạt lạc, chủ về công năng sinh dục. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt vị này đặc biệt có tác dụng phòng chống các bệnh lý thuộc hệ tiết niệu sinh dục, đồng thời cũng có hiệu quả đối với các bệnh lý thần kinh, tim mạch và tiêu hoá. Cách xác định huyệt: từ đỉnh mắt cá chân trong đo lên 3 thốn, huyệt ở chỗ hõm sát bờ sau phía trong xương chày.
Ngoài ra, một số huyệt vị khác cũng được người xưa tiến hành liệu pháp cứu huyệt trường thọ như Thân trụ (dưới mỏm gai đốt sống cổ 3), Khí hải (dưới rốn 1,5 thốn), Mệnh môn (dưới mỏm gai đốt sống thắt lưng thứ 2)...Để đạt được hiệu quả, vấn đề quan trọng là phải tiến hành kiên trì, đều đặn và đúng thao tác. Có thể thực hành cứu đơn lẻ từng huyệt hoặc phối hợp cứu nhiều huyệt nhằm mục đích hiệp đồng tác dụng để nâng cao hiệu quả sống khỏe, sống thọ.

Hoàng Khánh Toàn

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG Y DƯỢC HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY



Trong khi nghiên cứu tìm hiểu để thừa kế vốn Y học cổ truyền của dân tộc, người cán bộ y dược quen với phương pháp và cách suy nghĩ làm việc theo khoa học hiện đại truyền đạt trên ghế nhà trường đại học hiện nay thường vấp phải một trở ngại. Hầu hết các sách, các kinh nghiệm chữa bệnh, chế thuốc, dùng thuốc đều viết và nói bằng những tiếng rất xa lạ đối với khoa học ngày nay như âm dương, hàn nhiệt, hư thực, biểu lý, thận thủy, thận hỏa…
Muốn tìm hiểu những tiếng xa lạ ấy đối với khoa học hiện đại, không có cách nào khác là tìm hiểu học thuyết “Âm dương ngũ hành” do một môn phái triết học phương Đông đưa ra sau khi đã quan sát lâu đời sự biến hóa của tự nhiên.
Nhưng học thuyết này trước nay lại được diễn đạt một cách rất khó hiểu, nhiều khi được bao phủ bởi một lớp vỏ đượm màu mê tín, vì học thuyết này đồng thời là cơ sở của nhiều ngành học cổ như môn địa lý, tử vi, bói toán… Cho nên nhiều người cho rằng trong lúc nghiên cứu theo phương pháp của khoa học hiện đại còn chưa đủ thời giờ thì tội gì lại đâm đầu vào tìm hiểu một vấn đề đã lạc hậu.
Sự thực thì sau khi tước bỏ lớp ngoài đượm màu mê tín, huyền bí do người đời sau thêm thắt xuyên tạc, chúng ta sẽ thấy học thuyết “Âm dương ngũ hành” chứa đựng những chân lý khách quan và giúp ta một phương pháp suy luận mới khác với những suy luận quen thuộc.
Thực vậy, theo học thuyết này vạn vật biến chuyển không ngừng, vạn vật chứa mâu thuẫn và sự sinh tồn của vạn vật là do sự ức chế và thúc đẩy lẫn nhau của hai lực lượng đối lập và gắn liền với nhau gọi là “âm” và “dương”. Sau đây gần như nguyên là lời văn của người xưa: “Vũ trụ khi mới hình thành là một khối thống nhất gọi là thái cực. Thái cực biến hóa sinh ra lưỡng nghi là âm và dương. Âm dương kết hợp với nhau để sinh ra ngũ hành làKim, Mộc, Thủy, Hỏa  Thổ. Ngũ hành (năm thứ vật chất) này lại có sự kết hợp chặt chẽ để tạo ra “Tam tài”(ba lực lượng) là Thiên (trời), Địa (đất) và Nhân (người). Trong mỗi lực lượng này lại có sự kết hợp chặt chẽ và cân bằng giữa “âm”  “dương” và “ ngũ hành”.
Âm dương không phải là một vật chất cụ thể nào, mà là thuộc tính mâu thuẫn n»m trong tất cả mọi sự vật. Nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát triển của sự vật.
Phàm cái gì hoạt động tích cực, hưng phấn, hướng lên… đều thuộc dương. Tất cả những gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, đi xuống… đều thuộc âm. Âm dương bao hàm ý nghĩa đối lập, nhưng còn bao hàm ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra; hỗ trợ, chế ước lẫn nhau mà tồn tại. Do đó, không thể chỉ có âm, hoặc chỉ có dương. Trong hình vẽ người xưa về hình tượng âm và dương, người ta vẽ hai phần bằng nhau đen và trắng và ước gọi với nhau phần trắng là dương, còn phần đen là âm. Nhưng trong phần trắng lại có một điểm đen và trong phần đen có một điểm trắng để tượng trưng trong dương có mầm mống của âm; trong âm có mầm mống của dương. Người ta còn nói: “Trong âm có âm dương và trong dương cũng có âm dương; âm đến cực độ sinh ra dương, dương đến cực độ sinh ra âm, tức là hàn đến cực độ sinh ra nhiệt, nhiệt đến cực độ sinh ra hàn”. Những lời lẽ có vẻ huyền bí khó hiểu ấy lại trở thành rất chính xác, dễ hiểu khi ta nhìn cục nam châm với hai cực Nam và Bắc. Nếu  ta bẻ đôi cục nam châm ấy ra thì lập tức ở phần cực Nam lại xuất hiện một đầu Nam và một đầu bắc; và ở cực hoàn toàn Bắc lại xuất hiện một cực Nam và một cực Bắc. Nghĩa là Nam nằm sẵn trong Bắc và Bắc cũng đã nằm sẵn trong Nam; trong Nam có Nam, Bắc và trong Bắc cũng có cả Bắc, Nam.
Thuyết “Ngũ hành” với luật sinh khắc, chế hóa cũng chỉ là một cách diễn đạt những đặc tính và sự liên quan với nhau, đối lập và nương tựa thống nhất với nhau của các sự vật. Ví dụ như người xưa tượng trưng thận (bao gồm cả tuyến thượng thận) thuộc chất “nước” (thủy); gan và mật thuộc  chất “gỗ”(mộc); tim (bao gồm cả bao tim) thuộc chất “lửa” (hỏa); dạ dày thuộc chất “đất” (thổ)… thực ra là người xưa đã diễn đạt một số tính chất và sự liên quan chặt chẽ giữa các cơ quan đó với nhau. Và khi chữa bệnh một cơ quan nào phải luôn nhớ sự liên quan đó.
Ví dụ để diễn đạt sự liên quan giữa thận, gan và tim, thuyết “Ngũ hành” nói rằng thận thuộc thủy, gan thuộc mộc và tim thuộc hỏa, trong đó “thủy” (thận) sinh ra “mộc”; “mộc” (gan) lại sinh ra “hỏa” (tim). Do đó, muốn chữa bệnh ở tim có khi người ta dùng vị thuốc tác động trực tiếp lên tim, nhưng có khi người ta lại dùng những vị thuốc tác động vào gan; hoặc hơn nữa có khi vào thận. Vì như vậy là tác động lên nguồn gốc bệnh nằm ở cơ quan trực tiếp hay xa hơn nữa đã sinh ra nó, vì tim là “con” của  gan và cháu của “thận”.
Chúng tôi có thể dẫn ra nhiều thí dụ để giới thiệu cách ông cha ta đã vận dụng thuyết “Âm dương ngũ hành” trong việc dùng thuốc chữa bệnh. Nhưng đó không phải là mục đích của bài khảo luận này.
Chúng tôi chỉ muốn nhắc lại rằng, trong khi chưa có khoa học hiện đại, ông cha ta đã nhờ những học thuyết này mà tìm thuốc chữa bệnh có kết quả. Như Hải Thượng Lãn Ông, một thầy thuốc Việt Nam nổi tiếng ở vào thế kỷ XVIII, trước khi vào nghề y đã học được thuật “âm dương”. Cho nên khi tình cờ đọc sách thuốc đã thâu nhận môn học này một cách nhanh chóng và đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết này trong chữa bệnh mà trở nên bất tử. Ai đã đọc sách của Hải Thượng đều thấy rõ trong bất kỳ trường hợp chẩn đoán nào Hải Thượng cũng tìm cho ra bệnh thuốc chứng “dương” hay chứng “âm” để rồi dùng những vị thuốc hay bài thuốc thuộc “âm” hay thuộc “dương” (như các bài lục vị, bát vị để điều hòa cơ thể trở về cái thế cân bằng của “âm dương”).
Có người hỏi học thuyết “Âm dương” có đặt ra cách đây hàng nghìn năm, một nguyên lý y học của ông cha ta hiện nay còn giúp gì cho ta trong việc nghiên cứu y dược?
Để trả lời, chúng tôi muốn kể lại kết quả của một công trình nghiên cứu của Ohsawa, một nhà khoa học Nhật Bản đã rút ra từ học thuyết “Âm dương” một phương pháp nghiên cứu vận dụng vào môn học “Khoa học về trường sinh” (Macrobiotika). Ông đã đem đến cho học thuyết “Âm dương” một nội dung hiện đại bằng cách đem so sánh thành phần hóa học của thức ăn, chia thức ăn ra hai loại thức ăn acid và thức ăn kiềm tùy theo lượng Natri hay Kali chứa trong đó. Nếu tỷ lệ giữa Kali và Natri lớn hơn 5 thì đó là thức ăn acid hay là “âm”; nếu nhỏ hơn 5 thì đó là thức ăn kiềm hay là “dương”, một số thức ăn còn được chia thêm thành “rất âm”, “rất dương”, “âm hơn”, “dương hơn”. Mệnh đề chính của thuyết “Macrobiotika” là sự mất cân bằng về âm dương trong thức ăn sẽ dẫn đến trạng thái ốm đau. Nếu như một người nào đó ăn chủ yếu những thức ăn âm (acid) thì cơ thể dễ mắc những chứng bệnh cảm cúm, chức năng của cơ thể bị phá hoại, một số bệnh mạn tính xuất hiện… Để nhằm chữa nhanh chóng bệnh này, chỉ cần lập lại sự cân bằng đã bị phá hoại do sự ăn uống không đúng bằng cách cho ăn cơm và thức ăn thuộc nhóm dương như lúa mạch, gà tây…
Chúng tôi, những người trí thức của Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi đang đi theo một khía cạnh khác của học thuyết “Âm dương ngũ hành”. Chúng tôi tìm những cặp mâu thuẫn “âm dương” đang chứa đựng ngay trong bản thân của mỗi sự vật, của mỗi vị thuốc. Đối chiếu với một số vị thuốc đã được nghiên cứu về mặt hóa học, chúng tôi thấy trong mỗi vị đều chứa hai yếu tố đối lập về tác dụng. Như trong vị thuốc “Đại hoàng”. Sự phân tích hóa học trong nhiều năm đã cho biết trong vị “Đại hoàng” có chứa những hợp chất Anthraglucosid có tác dụng tẩy, nhuận tràng; nhưng đồng thời cũng lại  chứa nhiều chất tanin có tác dụng làm săn da, gây táo bón. Khoai lang cũng vậy.
Trong mía (mía cũng là một vị thuốc gọi là Cam giá), người ta cũng phân tích có chứa chất đường; nhưng đồng thời cũng lại chứa rất nhiều men có tác dụng phân hủy chất đường. Do đó khi ta ăn mía thì đồng thời ta ăn chất đường nhưng ta lại ăn luôn chất men để tiêu hóa được chất đường. Nhưng nếu ta phơi khô mía thì trong quá trình phơi khô, chất men này lại phá hủy hết chất đường và mía phơi khô không còn tác dụng gì nữa.
Vị thuốc “Ích mẫu” là một vị thuốc dùng để chữa bệnh cho phụ nữ; khi nghiên cứu người ta cũng phát hiện ngay trong vị “Ích mẫu” hai chất có tác dụng trái ngược nhau; một số chất có tác dụng gây ức chế tử cung, một số chất lại có tác dụng gây kích thích tử cung. (Do đó lại có tác dụng trái ngược nhau là một vị thuốc có tác dụng điều kinh, đồng thời cũng là một  vị thuốc chữa băng huyết).
Đối với một số vị thuốc khác chúng tôi cũng thấy có cặp mâu thuẫn như vậy. Phải chăng đây là một quy luật có tính chất phổ biến? Nếu là một quy luật phổ biến thì phải hiểu tác dụng của những vị thuốc đó đối với cơ thể ra sao? Vì nếu chúng ta nghiên cứu thấy tính âm hay dương ở những vị thuốc khác nhau thì tùy theo bệnh thuộc âm nhiều hay dương nhiều, ta sẽ lựa chọn những vị thuốc có tính chất ngược lại cho uống để lập lại cân bằng.
Nhưng ở cặp mâu thuẫn “âm dương” ấy lại chứa đựng ngay trong một vị thuốc. Vì thế, theo ý tôi, cần phải phân tích để so sánh tỷ lệ giữa hai phần “âm”, “dương” ấy với nhau. Sau đó nghiên cứu tìm xem trong trường hợp nào thì cơ thể của người bệnh nghiêng về việc lựa chọn phần “âm” hay phần “dương” của vị thuốc. Cơ thể sẽ lựa chọn sử dụng một trong hai phần đó như thế nào? Theo chúng tôi đó là những hướng mới mà học thuyết “Âm dương ngũ hành” đã đề xuất. Chúng ta không thể chỉ lý luận mà phải thực nghiệm. Rồi từ những kết quả thực nghiệm ấy đưa vào điều trị. Có điều khuyến khích là những thí nghiệm ấy sẽ có căn cứ lâu đời từ những kết quả điều trị thực trên thân thể con người qua hàng nghìn năm kinh nghiệm.
Việc nghiên cứu ấy không thể một sớm một chiều sẽ thu được kết quả ngay. Nhưng học thuyết “Âm dương”, quy luật vạn vật chứa mâu thuẫn nhắc nhở chúng tôi không theo con đường mà nhiều đồng nghiệp phương Tây của chúng tôi vẫn làm khi nặng về phương pháp chiết xuất từng chất riêng lẻ từ cây cỏ (như chiết riêng những chất Morphin, Cafein chẳng hạn). Những đồng nghiệp này thường tinh chế và chỉ dùng những chất hoàn toàn tinh khiết không lẫn những chất khác, dù những chất đó có sẵn trong cây trong những trạng thái hỗn hợp tự nhiên.
Chúng tôi sẽ chỉ dừng lại ở mức độ thu gọn vị thuốc, làm sao cho vị thuốc trở nên tiện dùng, bảo quản được lâu dài. Còn thì chúng tôi tôn trọng tối đa sự kết cấu tự nhiên của các vị thuốc, nghĩa là dùng toàn bộ vị thuốc dưới dạng gọn nhất, công hiệu nhất, mà cũng thuận tiện nhất. Phải chăng vì đã dùng những hóa chất tác dụng theo một chiều hướng nhất định nên càng ngày nhân dân các nước phương Tây có khuynh hướng sợ dùng những thuốc hóa chất tổng hợp, và đã quay trở lại dùng những thuốc cây cỏ theo kinh nghiệm lâu năm với toàn bộ tác dụng mâu thuẫn cần thiết mà trước đây người ta chưa biết, nhưng nay lại cũng chưa thấy rõ hết nguyên nhân.

Đỗ Tất Lợi 

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”

Dân gian có câu: “Bất như ý sự thường bát cửu, như nhân chi ý nhất nhị phân”, ý nói ở đời mười điều thì có tới tám, chín điều không thuận theo ý ta, có chăng chỉ được một hai điều. Và những việc trái với ý muốn, những khó khăn, lo toan, phiền muộn, uất ức luôn khiến cho người ta rơi vào tâm trạng bị ức chế, mệt mỏi chán nản, thậm chí lâu ngày có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, là nguy cơ để phát sinh các căn bệnh như suy nhược thần kinh, mất ngủ, trầm cảm, viêm loét đường tiêu hóa, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...
Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”
Có thể sơ tiết bằng ngòi bút.
Ở Hàn Quốc có một câu chuyện dân gian rất thú vị có tên gọi là Hoàng đế tai lừa. Một vị hoàng đế có đôi tai giống như tai con lừa, nhưng ông ta chỉ tiết lộ cho người thợ cắt tóc biết và cấm anh ta không được hé răng tiết lộ với ai, nếu không sẽ bị chém đầu. Ngày tháng dần trôi, người thợ cắt tóc cảm thấy rất khó chịu khi giữ bí mật này trong lòng, anh ta căng thẳng đến nỗi muốn phát điên, tuy nhiên vẫn không dám nói cho những người xung quanh biết vì sợ sẽ bị giết chết. Cuối cùng, anh ta nghĩ ra một cách vẹn toàn cả đôi đường là đào một cái hố thật to, hàng ngày cúi đầu xuống hố và hét lên: “Hoàng thượng có đôi tai lừa”. Thế là người thợ cắt tóc đó đã thoát khỏi sự ức chế tinh thần, trạng thái tâm lý của anh ta trở lại bình thường. Đó là một trong những ví dụ điển hình của phương pháp “sơ tiết” tinh thần của y học cổ truyền phương Đông.
“Sơ” có nghĩa là làm thưa ra, mở ra, thư giãn, thư thái, khai thông...; “tiết” có nghĩa là tiết ra, lọt ra, tiết lộ, trút bỏ...; “sơ tiết” nôm na là tìm cách cởi bỏ những sự ức chế, bế tắc để nhằm đạt được sự thư thái, bình thản về thể xác và tinh thần. Trong y học cổ truyền, những phương pháp như “sơ biểu giải tà” “sơ tán phong tà”, “sơ phong tiết nhiệt” “sơ phong hóa thấp”, “sơ can lý khí”, “sơ can giải uất” cũng nằm trong ý nghĩa trừ bỏ tà khí ra bên ngoài, làm lưu thông khí huyết và lập lại cân bằng âm dương trong hoạt động của các tạng phủ. Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta luôn gặp phải những sự việc không vui, không hài lòng, điều này khiến cho chúng ta phải chịu áp lực rất lớn về tâm lý và từ đó dễ gây nên bệnh tật. Bởi vậy, chúng ta cần thường xuyên giải phóng áp lực tâm lý, vận dụng phương pháp “sơ tiết” về tinh thần của y học cổ truyền. Phương pháp này có thể thực hiện bằng miệng hoặc bằng đầu óc chân tay.
“Sơ tiết” đường miệng có hai cách: Cách thứ nhất là độc thoại một mình. Ví dụ một người nào đó không hài lòng đối với cấp trên của mình, tuy nhiên anh ta lại không dám biểu lộ sự bực tức đó một cách công khai và trực diện, vậy thì cách giải quyết có thể là hãy mạnh dạn mua một chai rượu, rồi vừa uống một mình vừa thoải mái mắng nhiếc bề trên. Đừng nghĩ là người đó có vấn đề về tâm thần mà thực ra anh ta đang thực hiện một phương pháp rất hay để giải toả sự ức chế. Uống rượu, mắng nhiếc, uống chán mắng chán rồi ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy sẽ chẳng còn chuyện gì nữa. Tuy nhiên, không nên uống quá nhiều vì như vậy rất có hại cho sức khỏe. Cách thứ hai là thổ lộ với người khác, khi có điều gì bực bội không vui, nên tìm một người nào đó gần gũi và hiểu mình để trút bầu tâm sự, như vậy có thể giải thoát khỏi sự ức chế về tâm lý. Tuy nhiên, cần chú ý chọn đúng đối tượng có thể lắng nghe và thấu hiểu mình, bởi vì lắng nghe người khác trút giận chẳng có gì là thích thú cả, nếu không phải là một người hiểu bạn, thông cảm với bạn thì chẳng ai muốn nghe bạn nói và nếu như có nhẫn nại lắng nghe bạn nói xong thì họ cũng không thể đưa ra những lời khuyên chân tình và hiệu quả.
“Sơ tiết” bằng đầu óc chân tay cũng có hai cách: Cách thứ nhất là “sơ tiết” bằng ngòi bút. Khi bạn giận ai đó, hãy dùng bút viết thật nhiều, viết ra tất cả những gì khiến bạn giận giữ và kìm nén ức chế trong lòng mà không thể giãi bày trực tiếp với ai trên cõi đời này. Có thể viết thành một bức thư mà đối tượng nhận chính là người mà bạn đang giận. Tuy nhiên, nên nhớ một điều rằng bức thư ấy chỉ có thể viết và để đấy chứ không thể gửi cho ai cả. Cách thứ hai để “sơ tiết” là sáng tác theo khả năng của mình, có thể viết văn, làm thơ, viết kịch, sáng tác nhạc, vẽ tranh, nặn tượng... Không ít nhà văn nổi tiếng đã cho ra đời các tác phẩm kinh điển trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực, ví như Tư Mã Thiên sáng tác Sử ký sau khi ông bị kết tội tử hình; Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng Lâu Mộng trong những năm tháng ông gặp phải muôn vàn khó khăn cực nhọc.
Theo y học cổ truyền, đối với tâm lý tinh thần, vấn đề mà Đông y gọi là “thất tình” (bảy thứ tình chí là hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh), “sơ tiết” là một biện pháp rất hữu hiệu để trút bỏ sự uất ức, bực tức, buồn chán trong lòng, lập lại sự cân bằng âm dương trong đời sống tinh thần. “Sơ tiết” có thể làm giảm bớt sự mệt mỏi ức chế về tâm lý, khiến cho con người cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái trong lao động và cuộc sống. Tuy nhiên, cần nhớ một điều là “sơ tiết” cũng cần phải tuân theo nguyên tắc “tam nhân chế nghi” của y học cổ truyền phương Đông, đó là “nhân nhân chế nghi” (tùy đối tượng mà dùng), “nhân địa chế nghi” (tùy chỗ mà dùng) và “nhân thời chế nghi” (tùy lúc mà dùng).

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Ngũ vận lục khí & dưỡng sinh, phòng bệnh năm Ất Mùi

Ngũ vận lục khí, gọi tắt là “vận khí”, là khoa dự báo học cổ đại, chuyên nghiên cứu các quy luật tổng quát của thời tiết, khí hậu hàng năm cùng tác động của chúng đối với sức khỏe và tật bệnh. Trong các khoa dự báo cổ đại, vận khí học được giới khoa học thừa nhận là khoa dự báo có tính khoa học, giá trị thực tiễn cao nhất và cho đến nay vẫn có giá trị.
Thí dụ như đối với việc phòng ngừa và chữa trị các bệnh truyền nhiễm; Phát hiện nhanh chóng các vi sinh vật gây bệnh và tìm ra thuốc đặc trị để tiêu diệt chúng là một trong những thế mạnh của y học hiện đại. Thế nhưng, để ứng phó với sự biến dị nhanh chóng của chúng thì y học đang gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với các chứng bệnh nhiễm khuẩn, Đông y có một cách tiếp cận  khác. Đông y cho rằng môi trường mới là nhân tố quyết định sự tồn tại của các loại vi khuẩn, virut gây bệnh. Do coi trọng tác động của môi trường sinh thái, trong đó khí hậu đóng vai trò quyết định, nên trong dưỡng sinh cũng như trong phòng trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc cơ bản là “Nhân thời - Nhân địa - Nhân nhân”. Nghĩa là cần tính đến những đặc điểm về thời tiết khí hậu (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm của từng bệnh nhân (nhân nhân). “Nhân thời” được đặt lên hàng đầu, có vị trí quan trọng bậc nhất. Không thông hiểu vận khí sẽ không thể vận dụng được đúng chữ “thời”, do đó Lãn Ông mới nói, không thông vận khí  sẽ chẳng thể làm nổi việc gì.
Ngũ vận lục khí năm Ất Mùi
Ngũ vận lục khí: “Ngũ vận” là sự vận hành của 5 loại khí: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy; đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trên mặt đất. “Lục khí” là sự biến hóa của 6 loại khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. Đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trong không trung.
Khi các loại khí nói trên vận động và biến hóa một cách bình thường, gọi là “chính hóa” thì nói chung sẽ không gây nên bệnh, vì cơ thể con người đã quen thích nghi. Nhưng khi các loại khí nói trên biến động một cách dị thường, gọi là “tà hóa”, vượt quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể con người và biến thành tác nhân  gây bệnh gọi là “tà khí”. Chức năng chủ yếu của Ngũ vận lục khí là tính toán, dự báo những biến động dị thường của thời tiết khí hậu, để có thể tiến hành dưỡng sinh, chuẩn bị trước các biện pháp phòng trị thích hợp.
Tuế vận và tuế khí: Ngũ vận và lục khí luôn biến đổi, luân chuyển hàng năm. Mỗi năm có một vận và một khí chủ sự, gọi là “tuế vận” và “tuế khí”. Năm Ất Mùi có “thiên can” là Ất và “địa chi” là Mùi. Theo nguyên tắc “Thiên can thống vận”: Ất là can âm, thuộc hành kim, nên năm Ất Mùi có tuế vận là “Kim vận bất cập”.  Theo nguyên tắc “Địa chi thống khí”: Nửa đầu năm Ất Mùi khí tư thiên chủ sự là thái âm thấp thổ, nửa năm cuối có khí tại tuyền chủ sự là thái dương hàn thủy.
Vận khí tương lâm: Khí hậu hàng năm biến đổi một cách bình hòa hay đột ngột tùy thuộc vào quan hệ sinh khắc theo ngũ hành giữa vận và khí: vận sinh khí gọi là tiểu nghịch; vận khắc khí gọi là bất hòa; khí sinh vận gọi là thuận hóa; khí khắc vận gọi là thiên hình. Năm Ất Mùi có tuế vận là kim vận. Khí tư thiên là thái âm thấp thổ. Thổ sinh kim - khí sinh vận, do đó Ất Mùi là năm thuận hóa: khí hậu tương đối thuận hòa và tần suất phát sinh tật bệnh cũng tương đối thấp.
Tình hình bệnh tật: Xét theo ngũ vận, năm “kim vận bất cập” như sách Vận khí bí điển của Lãn Ông viết: “Kim vận bất cập, hỏa khí thừa thế vượng lên, hỏa nhiệt lan tràn”. Hỏa nhiệt thông ứng với tạng tâm nên tạng tâm dễ bị mắc bệnh; mặt khác, hỏa khắc kim phế thuộc hành kim, nên tạng phế (chức năng hô hấp) cũng dễ bị mắc bệnh.
Xét theo lục khí, nửa năm đầu thái âm thấp thổ tư thiên, khí hậu ẩm thấp. Thấp khí thông ứng với tạng tỳ nên thấp tà dễ gây tổn thương cho tạng tỳ (chức năng tiêu hóa); mặt khác, thổ khắc thủy, tạng thận thuộc hành thủy nên tạng thận cũng dễ thụ bệnh. Nửa năm cuối thái dương hàn thủy tại tuyền, khí hậu giá lạnh. Hàn thủy thông ứng với tạng thận nên tạng thận dễ bị tổn thương; mặt khác, thủy khắc hỏa, tâm thuộc hành hỏa nên tạng tâm cũng dễ thụ bệnh.
Năm Ất Mùi cần chú ý phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; mặt khác, cần chú ý dự phòng bệnh tật phát sinh ở các tạng tâm, tỳ, phế và thận.
Biện pháp dự phòng
Phòng ngừa hỏa tà: Hỏa tà là một loại dương tà, dễ gây tổn thương cho âm dịch. Người thể chất “âm hư” hữu nhiệt thường dễ bị hỏa tà khí xâm phạm và phát sinh loại bệnh ôn nhiệt. Biểu hiện chủ yếu bởi các chứng trạng: phát sốt, gai rét hoặc không sợ rét, đau đầu, vã mồ hôi, môi lưỡi khô háo, miệng khát uống nhiều, tâm phiền, ngực sườn đầy tức, tiểu tiện đỏ, đại tiện bí, đầu choáng mắt hoa, ban chẩn, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, niệu huyết...
Để dự phòng, nói chung nên ăn uống thanh đạm, không uống rượu, không lạm dụng thức ăn cay nóng kích thích. Riêng  đối với người âm hư đa hỏa, có thể dùng một số vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, tư âm lương huyết như sinh địa hoàng, huyền sâm, mạch đông, liên tâm, trúc diệp, khổ sâm, hoàng liên, chi tử, đan sâm, thủy ngưu giác (sừng trâu), kim ngân hoa, xa tiền tử, hoàng bá, đại hoàng, đan bì, bạch mao căn...
Phòng ngừa hàn tà: Hàn tà thuộc loại “âm tà” dễ làm tổn thương “dương khí” nên những người có cơ địa “dương hư” cần đặc biệt chú ý phòng các bệnh như cảm lạnh, bụng đau nôn mửa do trúng hàn, tiêu chảy do hàn tà xâm phạm vào tràng vị, tinh thần trầm uất do dương khí bị hàn tà lấn át... Hàn tà còn có tính “ngưng kết”, dễ làm cho sự vận hành của khí huyết bị ngưng trệ, dẫn tới các chứng đau nhức như đau đầu, cơ bắp và xương khớp đau nhức kịch liệt (hàn tý), tứ chi co rút...
Để dự phòng, cần tăng cường vận động thân thể; đồng thời nên sử dụng thêm các loại thuốc, thức ăn có tác dụng trợ dương tán hàn như can khương (gừng khô), nhục quế, đinh hương, cao lương khương (củ riềng), lá lốt, hồ tiêu, thịt bò, thịt dê, thịt chó...
Người tố chất tâm thận dương hư, dễ cảm mạo phong hàn với những chứng trạng như phát sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, chân tay lạnh, phiền táo, tiêu chảy, tức ngực, thở gấp, tâm loạn nhịp đập dồn từng hồi (tâm quý), môi lưỡi tím tái... Để dự phòng, có thể dùng sinh khương, thông bạch và đại táo, sắc nước uống thay trà trong ngày.
Phòng ngừa thấp tà: Thấp là loại tà khí có tính chất trọng trọc (nặng đục), dễ dẫn tới các chứng bệnh như đầu nặng đau như bị bó chặt, mình mẩy nặng nề  đau nhức (thấp tý), bụng đầy trướng, ăn không tiêu, kiết lỵ, đại tiện không thành khuôn, tiểu tiện đục, phù thũng, khí hư bạch đới...
Để dự phòng, cần sử dụng thêm những vị thuốc có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Ví dụ như, có thể dùng: bán hạ chế (tẩm gừng sao) 3g, trần bì (vỏ quýt để lâu ngày) 10g, thổ phục linh 10g, cam thảo 5g; sắc nước uống thay trà trong ngày.
Ất Mùi là một năm “thuận hóa”. Thời xưa là một năm khí hậu biến đổi tương đối bình hòa, ít phát sinh các bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng, tầng ôzôn bị thủng, trái đất đang bị nóng lên như hiện nay, trong dưỡng sinh và phòng trị bệnh tật cần tăng cường phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; trong đó cần chú ý nhất là hỏa tà.  
Lương y Thái Hư

Phép luyện “thần” giúp sống thọ

học cổ truyền cho rằng “thần” là biểu hiện ra ngoài của hoạt động sống mà ta có thể cảm nhận được. Nó là tổng hòa của cảm giác, tư duy, hành vi của con người. Riêng tư duy còn có tên là thần minh và nó tương tự như hoạt động tâm thần.
Tinh của tạng phủ vượng, khí đưa vào cơ thể đủ thì thần vượng. Nếu thần thái suy tức là có sự hao tinh, tổn khí và cơ thể sẽ suy yếu. Bảo vệ được cái “thần” sẽ giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái hài hòa và sống thọ. Sau đây là liệu pháp chúng ta nên luyện tập giúp bảo vệ “thần”:
Lạc quan
Lạc là vui vẻ, quan là nhìn. Lạc quan là cách nhìn, thái độ tin tưởng ở triển vọng phát triển tốt đẹp của sự việc, của tương lai.
Y học cổ truyền cho rằng, mỗi sự vật đều có hai mặt âm dương đối lập thống nhất với nhau, dựa vào nhau để phát triển, cái nọ sinh ra cái kia và luôn giữ ở thế cân bằng động. Mặt dương đại diện cho mặt tích cực vươn lên, mặt âm đại diện cho mặt tiêu cực đi xuống, tạo cho sự vật phát triển theo quỹ đạo của nó. Hãy biết vui với cái mình đang có, hòa mình vào hiện tại, hy vọng sẽ có những việc tốt đẹp hơn để làm việc có ích cho bản thân, cho đời. Biết tự giải thoát khỏi những vấn vương để lòng thanh thản, muốn vậy, cần biết phân tích mặt xấu, mặt tốt của sự việc một cách khách quan để có cách giải quyết hiệu quả.
Nên biết rằng trong cái xấu (âm) vẫn có cái tốt (dương), trong cái vui (dương) vẫn tiềm ẩn cái đáng ghét (âm). Người có được cách nhìn đó thường có thái độ lạc quan, yêu đời.
Lấy thiện hay ác trong suy nghĩ và hành động. Thích ứng tốt với cuộc sống khi nhận thức được rằng các sự việc tốt xấu đan xen lẫn lộn, phức tạp luôn diễn ra quanh ta, từ đó tìm ra hướng phát triển, tự hình thành cho mình một thế ổn định trong cuộc sống luôn luôn biến động để tiến lên. Những kết quả đạt được bước đầu sẽ là động lực cho việc nối tiếp và làm cho mình lạc quan hơn.
Phép luyện “thần” giúp sống thọ
Sống lạc quan, vui vẻ giúp người già luôn khỏe mạnh.
Có ý chí kiên cường
Y học cổ truyền cho rằng: “Người có ý chí thì có thể chế ngự được thần, thu được hồn phách, thích ứng được hàn ôn, điều hòa được vui vẻ, giận hờn”. Có thể hiểu, có ý chí kiên cường thì có thể điều khiển được hoạt động tinh thần, điều hòa được tình chí, không cho tà khí vào cơ thể và phòng được bệnh.
Biện pháp để rèn luyện ý chí chủ yếu là được rèn luyện trong những điều kiện sống đan chen cụ thể khác nhau và tìm được cách vươn lên trong những điều kiện đó.
Tình chí phải hòa hợp
Y học cổ truyền ghi nhận 7 loại tình chí: vui vẻ, giận hờn, buồn rầu, bi ai, lo lắng, sợ hãi, suy nghĩ. Nếu 7 tình chí này mà hòa hợp thì tâm, can, tỳ, phế, thận được yên. Để tình chí hòa hợp phải luôn vui vẻ vì vui vẻ làm cho tâm hoạt động tốt, “thần” được yên. Song không nên vui quá mức hóa điên, hóa thần. “Tiếng cười làm trẻ mười năm, âu sầu làm bạc đầu sớm”. Phải nén cái giận không để bùng ra, vì giận quá làm can khí mất điều hòa. Biện pháp khống chế cái giận là từ từ uống 1 - 3 ngụm nước, thở dài ra vài cái (thời gian này làm cho yếu tố bùng ra mất đi); nhân nhượng khi tranh luận căng thẳng làm cho không khí dịu lại, mỗi người đều tĩnh tâm mới giải quyết được công việc; tạm thời quên việc đó bằng cách làm việc khác vui hơn.
Cũng cần giảm tối đa sự lo lắng bởi lo lắng là trạng thái rất không yên lòng và phải để hết tâm trí vào công việc. Y học cổ truyền cho “lo lắng làm tâm khí hỗn loạn”. Cái gốc của lo lắng là sự chờ đợi một việc sắp đến mà chưa biết kết quả tốt hay xấu. Để giảm lo lắng, nên tìm hiểu rõ vấn đề để có cơ sở tin tưởng trong chờ đợi. Trong khi chờ đợi, hãy tạo ra một trạng thái vui vẻ. Tuệ Tĩnh viết: “Vì lo mà sinh bệnh thì lấy mừng mà chữa”.
Tránh những việc khiến khiếp sợ. Khiếp sợ là trạng thái sợ hãi đến mức mất thần (ngất xỉu), y học cổ truyền cho là nó làm “khí hạ”. Vì thế không cho biết những tin đột ngột (nghe tin xấu, nhìn cảnh sợ chết khiếp); biết mình sợ cái gì thì tập tiếp xúc dần cho quen. Tuệ Tĩnh viết: “Sợ quá sinh bệnh thì lấy suy nghĩ mà chữa”.
Không tự đưa mình vào cảnh buồn, bi ai. Y học cổ truyền cho rằng, “buồn, bi làm khí tắc không hành được, làm khí tiêu”. Người mà “buồn cứ tích lại thì thần hồn cũng bị tổn thương” và “ở người 60 tuổi, tâm khí bắt suy, dễ cảm thấy buồn bi”. Do vậy, nên vui với cái mình đang có, hy vọng sẽ có cái khác mình đang thiếu, theo ý “lấy cái vui vẻ của tâm hỏa để chế ngự cái buồn bi của phế kèm” tức là dùng  hỏa để chế khắc kim.

BS. Nguyễn Phương Hoa

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Cách chữa bệnh tình chí của Đông y

Trong đời sống công nghiệp hóa hiện nay, sự tác động của môi trường, xã hội và những mối quan hệ phức tạp, căng thẳng, đã làm cho con người càng ngày càng phải đương đầu với những căn bệnh tâm thần. Đó là những căn bệnh mà y học phương Đông gọi là bệnh tình chí bị rối loạn. Và từ thuở xưa, các nhà y học đã đề ra những phương cách trị liệu rất độc đáo.
Những loại bệnh tâm căn (maladies psychogennès), tức bệnh có nguyên nhân do tâm lý như: suy nhược thần kinh, ám ảnh lo âu, rối loạn thần kinh tim, hysteria... với các triệu chứng dai dẳng làm đau khổ cho cả thể xác lẫn tinh thần người bệnh, gây tốn kém, khó khăn cho việc chữa trị.
Gần đây, một số bệnh có nguyên nhân tâm lý được gọi là các bệnh tâm thể (maladies psychosomatiques), không phải chỉ gây rối loạn chức năng mà còn dẫn đến những tổn thương nặng nề cho nhiều bộ phận cơ thể, có thể gây tử vong, như: loét dạ dày tá tràng, xơ mỡ động mạch, cao huyết ápnhồi máu cơ timđái tháo đường, hen suyễn, đột quỵ do xuất huyết não, thậm chí còn gây ra ung thư
Quan niệm chữa bệnh tình chí xưa và nay
Y học phương Tây từ thời Hyppocrates (460 - 377 trước Công nguyên) đã quan tâm đến mối quan hệ mật thiết giữa tinh thần và thể chất của người bệnh. Hyppocrates là người đầu tiên sáng tạo ra nguyên lý: “Không phải chỉ chữa bệnh mà chữa người bệnh”. Theo ông, nghệ thuật y học không phải chỉ tác động đến bệnh tật, mà là chữa bệnh cho người ốm, như một tập hợp các đặc tính tâm hồn và thân thể. Ông đã đưa ra luận điểm quan trọng về những đặc tính tinh thần và thể chất điển hình của các mẫu người tương ứng với tình trạng hoạt động sinh lý và bệnh tật của họ. Việc phân biệt này có ý nghĩa về mặt lý luận và có ý nghĩa lớn về thực tiễn: xác định thể loại có liên quan đến việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân.
Về sau, các thầy thuốc đã đặc biệt chú trọng đến y học toàn thể, như là một đáp ứng cần thiết của công tác bảo vệ sức khỏe con người trong thời đại công nghiệp phát triển.
Trong một bài đăng trên tạp chí của Hội y khoa Mỹ (16/4/1955), bác sĩ Fraceland viết: “Mặc dù có thể bị chỉ trích, khoa y học tâm thể là một phương pháp rất tốt để trị bệnh. Vì không thể nào trị lành bệnh cho một người mà không để ý đến tâm thần của người đó. Con người không chỉ có phần sinh lý mà còn có phần tâm lý chịu ảnh hưởng của xã hội, kinh tế…”.
Các nhà y học hiện đại đã nhìn nhận người bệnh là một sự toàn vẹn về tâm thần - thể chất, một sự thống nhất sinh tồn giữa các tổ chức (mô), hệ thống dịch thể với nhận thức của họ. Trên cơ sở đó người ta cho rằng: một nền y học chân chính phải là một khoa học bao quát mọi mặt. “Đó là một nền y học về cơ thể con người tập hợp tất cả những biểu hiện và các mối liên hệ của nó, xem xét những biểu hiện tâm lý hữu cơ và môi trường xung quanh nó trong một sự thống nhất” (F. Delore - 1961).
Mùa thu năm 1978, tại hội nghị Alma - Ata, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe như sau: “Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh tật, hay khuyết tật mà là một sự thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội”. Qua đó nói lên rằng yếu tố tinh thần và xã hội có vai trò quan trọng trong việc tạo lập sức khỏe của chúng ta.
Tuy nhiên, điều đáng nói là vấn đề này đã được y học phương Đông đặc biệt chú trọng cách đây hơn 4.000 năm.
Sách Hoàng Đế nội kinh, một tác phẩm kinh điển hàng đầu của y học phương Đông viết: “Giữ lòng điềm đạm, vô tư, ít thị dục thì chân khí được sung túc, tinh thần được vững chãi ở bên trong thì bệnh tật là sao mà phạm đến được” (Điềm đạm hư vô, chân khí tòng chi, tinh thần nội thủ,bệnh an tòng lai? - Tố Vấn/Thượng cổ thiên chân luận).
Bộ sách y học này còn chỉ ra rằng:
Con người muốn bệnh tật không xâm phạm, có sức khỏe vững bền, muốn sống lâu thì phải biết thích nghi với sự nóng lạnh của thời tiết, tâm tính phải an hòa trong cách cư xử với mọi người, làm việc nghỉ ngơi phải chừng mực, đúng phép, đúng thời hợp với quy luật âm dương. (Thuận tứ thời nhi thích hàn thử, hòa hỉ nộ nhi an cư xử, tiết âm dương nhi điều cương như. Như thị tắc tịch tà bất chí, trường sinh cửu thị - Hoàng Đế nội kinh / Linh Khu).
Về sau, các nhà y học như: Văn Chí, Hoa Đà, Trương Tử Hòa, Chu Đan khê, Tuệ Tĩnh, Viêm Thể Am… là người nổi danh về nghệ thuật chữa bệnh tình chí.
Đông y quan niệm rằng: những chức năng hoạt động của ngũ tạng (Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận) cùng với ngũ chí tương ứng (Nộ, Hỉ, Tư, Ưu, Khủng) tuân theo các quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy). Do đó, khi chữa bệnh do thất tình bị rối loạn, nếu biết khéo vận dụng các quy luật đó, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp.
Sách Hoàng Đế Nội Kinh đã viết: “Giận quá sẽ làm tổn hại tạng Can, nhưng sự bi ai có thể ức chế cái giận… Mừng vui quá sẽ làm tổn hại tạng Tâm, nhưng sự sợ hãi ức chế được cái vui mừng… Lo âu tư lự quá sẽ làm tổn hại tạng Tỳ, nhưng sự giận dữ thì ức chế được sự lo âu… Ưu sầu bi ai quá sẽ làm tổn hại tạng Phế, nhưng sự vui mừng có thể làm tan biến nỗi bi ai… Sợ hãi quá sẽ làm tổn thương tạng Thận, nhưng sự lo âu, tư lự sẽ ức chế được nỗi sợ hãi”. (Nộ thương Can, bi thắng nộ… Hỉ thương Tâm, khủng thắng hỉ… Tư thương Tỳ, nộ thắng tư… Ưu thương Thế, hỉ thắng ưu… Khủng thương Thận, tư thắng khủng…- Tố vấn/ Âm Dương ứng tượng đại luận.)
Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành để chữa bệnh tình chí
Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành để chữa bệnh tình chí
Theo danh y Tuệ Tĩnh Nguyễn Bá Tĩnh: “Bệnh tình chí là do tình hướng vào cái gì đó, chí hướng vào một cái gì đó mà sinh bệnh. Người ta vì thất tình: mừng, buồn, giận, vui, lo, nghĩ, sợ, bị thương tổn mà biến ra mọi bệnh thì căn bản là bệnh ăn sâu, không phải châm cứu hay thuốc thang mà chữa trị được.
Người xưa chữa bệnh có nhiều cách như: chính trị, tòng trị và nghịch trị. Nay dùng tình chí để chữa bệnh tình chí tức là tòng trị vậy”. (Nam dược thần hiệu - Quyển VIII).
Những câu chuyện chữa bệnh tình chí
Sau đây là một số câu chuyện nói về cách chữa bệnh tình chí của các nhà y học thời trước:
Thời Xuân Thu, vua nước Tề vì quá lo nghĩ mà lâm bệnh, uống đủ thứ thuốc không giảm. Nghe nói có một thầy thuốc giỏi tên là Văn Chí, bèn cho người mời đến. Sau khi khám bệnh cho vua xong, ông liền nói với Thái tử:
- Làm cho vua tức giận thì sẽ lành bệnh. Nếu đức vua có giết tôi thì nhờ Thái tử hết lòng cứu giúp cho.
Thái tử chấp nhận lời yêu cầu của Văn Chí, nói:
- Không can gì, xin thầy cứ mạnh dạn chữa trị.
Văn Chí xin vào yết kiến nhà vua. Ông đi ngang tàng, bước xéo bừa lên cả long sàng. Quả nhiên, vua đùng đùng nổi giận, hét to sai thủ hạ bắt ông đem xử trảm. Thái tử liền tới bên vua bày tỏ can ngăn. Không bao lâu sau, nhà vua khỏi bệnh.
Đó là thuật của thầy thuốc Văn Chí: lấy giận để chữa bệnh do quá lo nghĩ của vua Tề: Tư thương tỳ, nộ thắng tư.
Thần y Hoa Đà (141 ?-206) chữa một phú ông vì quá lo nghĩ mà lâm bệnh bằng cách viết đơn thuốc bằng những lời lẽ nhục mạ thậm tệ khiến cho bệnh nhân tức giận cực độ, mặt mày tái xanh, tay chân bủn rủn rồi sau đó bệnh tình thuyên giảm. Đó là thuật mà Hoa Đà học được ở cách của Văn Chí chữa bệnh cho vua Tề.
Ở tỉnh Thái Nguyên có ông Triệu Tri Tắc, từ lúc đậu tiến sĩ rồi vì quá vui mừng mà sinh bệnh, không ngồi dậy được. Gia đình mời danh y là Sào Thị đến xem mạch để chữa trị. Vừa xem mạch xong, Sào Thị không nói không rằng, chỉ chép miệng lắc đầu, tỏ vẻ bất lực, rồi rủ áo ra về, không kịp chào từ biệt. Triệu Tri Tắc thấy vậy lo sợ quá, khóc rống lên rồi gọi con cái đến bảo rằng:
- Thầy thuốc giỏi như Sào Thị mà không chữa nổi thì mạng của ta nguy quá rồi!
Chẳng ngờ mấy giờ sau đó, bệnh tình giảm dần rồi hết hẳn.
Đó là thuật của danh y Sào Thị: lấy sự sợ hãi để chữa bệnh do quá vui mừng của ông Triệu Tri Tắc: Hỷ thương tâm, khủng thắng hỷ.
Đời Kim-Nguyên, danh y Trương Tùng Chính, tức Trương Tử Hòa (1156 - 1226), đã chữa cho viên quan Tư hầu ở Tức Thành lâm bệnh nặng sau khi nghe tin cha bị giặc giết, khóc thương quá độ đến nỗi ngất đi. Bệnh hơn một tháng, uống thuốc gì cũng không khỏi. Khi Trương Tử Hòa đến khám bệnh, biết rõ sự tình nên đã tìm cách làm cho Tư hầu phải cười phá lên. Qua trận cười đó, bệnh giảm dần và 3 ngày sau thì hết bệnh, chẳng cần thuốc thang nào cả. Đó là thuật Hỉ thắng Ưu (Bi) của ông Tử Hòa.
Ông Chu Đan Khê, tức Chu Chấn Hanh (1281 - 1358), chữa cho một thiếu phụ vì thương nhớ chồng đi xa 2 năm chưa về mà ngã bệnh. Nằm li bì suốt ngày, không ăn uống nói năng gì. Ông bàn với gia đình tìm cách quở mắng thậm tệ rồi lại tát cho mấy cái, để lấy sự giận giải được cái uất kết trong lòng do lo nghĩ, nhớ nhung của thiếu phụ. Sau đó lại làm cho nàng vui mừng, và nhờ đó mà khỏi bệnh.
Đời nhà Minh, có một người học trò thi đậu cử nhân, mừng quá mà phá lên cười và cứ cười hoài suốt đêm ngày, bỏ ăn bỏ ngủ, không sao cầm lại được. Người nhà đưa đến nhờ danh y Viên Thể Am chữa trị. Thể Am tìm cách làm cho người bệnh sợ hãi, bảo rằng bệnh nguy không chữa được, chỉ còn mươi ngày nữa là chết. Quả nhiên, sau đó một thời gian,người bệnh đã hồi phục. Đó là cách trị theo thuật khủng thắng hỷ.
Đông y quan niệm: những chức năng hoạt động của ngũ tạng (Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận) cùng với ngũ chí tương ứng (Nộ, Hỉ, Tư, Ưu, Khủng) tuân theo các quy luật tương sinh, tương khắc và chế hóa của ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy). Do đó, khi chữa bệnh do thất tình bị rối loạn, nếu biết khéo vận dụng các quy luật đó, sẽ đem lại hiệu quả.

Lương y ĐINH CÔNG BẢY

Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015

ÐÔI ÐIỀU VỀ Y HỌC DÂN GIAN


Con nấc mẹ dán ngọn trầu không.
Ðến nay hẳn không ai phủ nhận y học dân gian là một trong những bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền y học cổ truyền nước nhà.
Nhưng thế nào là y học dân gian? Ðặc trưng của nó là gì? Vai trò xu hướng phát triển ra sao?... Những vấn đề này, ngay cả trong giới chuyên ngành, không phải ai cũng đã tường tận. Bởi vậy, tình trạng hoặc nhấn mạnh một cách quá đáng hoặc quá coi thường một bộ phận trong kho tàng kinh nghiệm chữa bệnh quý báu của cha ông âu cũng là điều dễ hiểu. Trong bài viết này, chúng tôi xin được mạnh dạn trình bày một số vấn đề cơ bản để bạn đọc có thể tham khảo và bàn luận.
Y học dân gian là gì?
Có thể hiểu y học dân gian (folk-medicine) là toàn bộ những kinh nghiệm phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe có tính tập thể và truyền miệng của nhân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các thời kỳ phát triển lâu dài trong những chế độ xã hội có giai cấp và tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay.
Y học dân gian còn được gọi là kinh nghiệm dân gian, y học bình dân (để phân biệt với y học bác học), y học truyền khẩu (để phân biệt với y học thành văn)... Những khái niệm này xuất hiện từ khi nào không rõ, nhưng có lẽ sớm nhất cũng chỉ từ đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, khái niệm y học dân gian rất ít được sử dụng, mà chủ yếu là dùng các cụm từ "kinh nghiệm chữa bệnh dân gian", "môn thuốc dân gian", hay chìm lẫn trong các khái niệm y học dân tộc, y học cổ truyền, Ðông y...
 
Y học dân gian ra đời và phát triển như thế nào?
Ngay từ thuở nguyên sơ, khi còn ở thời đại đồ đá, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, bệnh tật bảo vệ cuộc sống, người xưa đã biết dùng cây cỏ quanh mình để làm thuốc và biết sáng tạo ra những cách chữa bệnh không dùng thuốc. Ví dụ, ban đầu củ gừng, củ tỏi... chỉ được dùng với mục đích nấu nướng để làm thay đổi và đa dạng hóa mùi vị, tạo ra những thức ăn ngon miệng, nhưng dần dần về sau người ta nhận thấy chúng còn có khả năng làm ấm bụng và dễ tiêu, làm hết đi lỏng do ăn phải những đồ sống lạnh..., và thế là bắt đầu một cuộc hành trình dài - từ trong lòng đất - củ gừng và củ tỏi đã theo con người lên bàn ăn, đi vào tủ thuốc của từng gia đình, đồng thời công dụng chữa bệnh của chúng được thử thách qua thời gian và lưu truyền từ đời này sang đời khác.
 
Theo đà phát triển của lịch sử, kho tàng kinh nghiệm dân gian phòng chống bệnh tật ngày càng phong phú và đa dạng. Cùng với sự ra đời của chữ viết, người xưa đã biết ghi chép, tổng hợp và đúc rút ra những quy luật về mối quan hệ giữa cơ thể con người và bệnh tật cùng phương thức sử dụng kho tàng kinh nghiệm chữa bệnh đã có, từ đó dần dần hình thành nên nền y học thành văn mang đậm tính bác học và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nền y học dân gian không còn đất để phát triển mà ngược lại, như một dòng nước ngầm chảy âm thầm trong lòng đất, nó vẫn tiếp tục có sức sống mãnh liệt, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử, không ngừng phục vụ nhân dân và đắp bồi cho nền y học thành văn.
 
Y học dân gian có đặc điểm gì?
Trước hết, y học dân gian luôn mang đậm tính thực tiễn và có mối quan hệ hết sức mật thiết với đời sống sinh hoạt của nhân dân lao động. Bởi lẽ, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó là do nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và lưu giữ từ đời này sang đời khác. Dường như nền y học này tham gia vào đời sống sinh hoạt thường ngày của nhân dân lao động với tư cách như là một thành phần, một nhân tố cấu thành của những sinh hoạt đó. Hai chữ "dân gian" (trong dân) trong tên gọi của nó cũng đã đủ nói rõ điều này.
Thứ hai, đó là tính truyền miệng (truyền khẩu) hay nói cách khác truyền miệng là phương thức tồn tại chủ yếu của y học dân gian, khi chưa có chữ viết thì đó là phương thức duy nhất, nhưng ngay cả khi văn tự đã xuất hiện và nền kinh tế rất phát triển thì phương thức truyền khẩu vẫn là chủ yếu với tư cách là một trong những phương thức sáng tạo của hoạt động khoa học không chuyên gắn liền với hoạt động thực tiễn.
 Thứ ba, y học dân gian mang đậm tính văn hóa vì nó chính là một bộ phận không thể thiếu của kho tàng văn hóa dân tộc, nhất là nền văn học Việt cổ, so với y học thành văn nó dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa hơn. Xét về mặt nguồn gốc thì ở bất cứ dân tộc nào, y học dân gian cũng mang bản sắc đậm đà của nền văn hóa dân tộc đó.
 
Thứ tư, y học dân gian rất gần gũi với tự nhiên và dễ phù hợp với sinh lý tự nhiên của cơ thể con người. Phương thức dùng thuốc và không dùng thuốc của nó rất gần gũi với những sinh hoạt hàng ngày, thậm chí nhiều khi rất khó phân biệt đâu là phần can thiệp của y học và đâu là phần hoạt động sống thường nhật.
 
Cuối cùng, y học dân gian là một nền y học mang đậm tính đại chúng, tính phổ biến. Hầu hết các kinh nghiệm dân gian đều rất dễ dùng, dễ kiếm, đơn giản và rẻ tiền. Vì tính chuyên môn hóa không cao nên mọi người đều có thể nhận thức và vận dụng một cách dễ dàng.
 
Nội dung của y học dân gian?
Có thể nói, y học dân gian là cả một kho tàng kinh nghiệm hết sức phong phú, nhưng nội dung chủ yếu vẫn không ngoài hai vấn đề lớn có quan hệ hữu cơ với nhau: dưỡng sinh và trị liệu, hay nói đầy đủ là phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Khó có thể kể hết các biện pháp mà y học dân gian sử dụng nhưng tựu trung cũng không ngoài hai nhóm lớn: dược vật liệu pháp (dùng thuốc) và phi dược vật liệu pháp (không dùng thuốc). Dược vật liệu pháp bao gồm nhiều dạng thuốc như thang, cao, đơn, hoàn, tán, tửu dược, trà dược... và nhiều phương thức sử dụng như uống, bôi, xông, xoa, đắp, dán... Phi dược vật liệu pháp cũng là cả một kho tàng kinh nghiệm hết sức phong phú, từ những thủ thuật cụ thể như châm cứu, xoa bóp, cạo gió, giác hơi... đến các phương pháp tập luyện như khí công, dưỡng sinh... và những kinh nghiệm trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm gội, ngủ nghỉ, chọn nơi ở, dưỡng thai, sinh hoạt tình dục...
 
Vai trò của y học dân gian
Ra đời do yêu cầu bức thiết của thực tiễn cuộc sống và được lưu truyền giữ gìn trong nhân dân nên y học dân gian có một vai trò rất đặc biệt trong việc phòng chống bệnh tật và bảo vệ sức khỏe cho con người. Ngay cả khi nền y học thành văn đã hình thành và phát triển, y học dân gian vẫn lặng lẽ tồn tại và được sử dụng khá rộng rãi trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần đắc lực vào công cuộc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cá nhân và cộng đồng.
 
Ở làng xã Việt Nam, hầu như nhà nào cũng trồng dăm ba "cây nhà lá vườn" vừa để làm rau ăn, gia vị hàng ngày, vừa để dùng làm thuốc khi đau ốm, hầu như người nào cũng biết một vài bài thuốc đơn giản hoặc đôi ba môn đánh gió, cạo gió, xông, chườm, tẩm quất, day bấm huyệt..., hầu như bà nội trợ nào cũng biết cách nấu, cách dùng một số món ăn - bài thuốc theo kinh nghiệm cổ xưa truyền khẩu... Ðiều đó cho thấy, y học dân gian có một vị thế không nhỏ trong đời sống thường nhật của nhân dân ta, nhất là trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.
 
Hơn nữa, y học dân gian còn có một vị trí quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền y học thành văn, mà trước hết nó là một bộ phận cấu thành không thể thiếu và là cơ sở của nền y học cổ truyền nói chung. Không ít những kinh nghiệm chữa bệnh dân gian đã được phân tích, chứng minh, chỉnh lý và nâng cao dưới ánh sáng của khoa học kỹ thuật hiện đại và được áp dụng một cách rộng rãi, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng một nền y học hiện đại.
 
Cho đến nay, ở nước ta, y học dân gian đã được quan tâm phát hiện, bảo tồn và khai thác, nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục giải quyết, thậm chí là khá cấp bách như: thống nhất quan điểm, đấu tranh khắc phục một số quan niệm cực đoan (hoặc quá coi thường y học dân gian do hiểu biết còn nông cạn, hoặc quá nệ cổ mà đề cao nền y học này một cách quá đáng); Khẩn trương phát hiện, sưu tầm và bảo tồn kho tàng tri thức y học dân gian, tránh nguy cơ thất truyền đang có xu hướng tăng cao, nhất là ở cộng đồng các dân tộc thiểu số; Tích cực tổ chức nghiên cứu chứng minh, thẩm định các kinh nghiệm dân gian trên cơ sở khoa học và không làm mất đi bản sắc của chúng... Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng: Con người khó lòng biết hết được kho tàng kinh nghiệm từ hàng ngàn năm dồn lại và ngày nay vẫn đang tích lũy thêm lên. Khoa học dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể giải mã hết được những bí mật của tạo hóa. Vì vậy, bên cạnh khoa học bao giờ cũng tồn tại kinh nghiệm sống của con người được tạo nên bởi bề dày của sự tiến hóa và bề dày của lịch sử từng dân tộc, trong đó không thể thiếu vắng nền y học dân gian.
 
 
Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN