Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Tinh thần và bệnh tật

Tinh thần và bệnh tật



Một tạp chí Y khoa của trường Đại học Sorbone (Pháp) thuật lại câu chuyện người vợ sau khi xung đột mãnh liệt với chồng, liền cho con bú và đứa bé phải được đưa đi cấp cứu vì ngộ độc bởi những độc tố tiết ra trong sữa do cơn giận của người mẹ.
Câu chuyện trên là minh chứng đầy sức thuyết phục về sự liên quan mật thiết giữa tinh thần và thể xác. Điều đó cũng đã được xác nhận bởi nhiều nhà y học Đông Tây xưa nay. Do hệ thần kinh làm môi giới tinh thần, ảnh hưởng trực tiếp đến thể xác trong quá trình sống. Nhiều công trình nghiên cứu cho biết hầu hết các bệnh đều ít nhiều có nguyên nhân sâu xa ở tinh thần, sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng, ghen tuông ... đã tạo ra ; những trạng thái tinh thần tích cực như: tự tin, lạc quan, yêu đời, thanh thản ... ảnh hưởng tốt đẹp đến chức năng tạng phủ, bảo đảm duy trì được sức khỏe bền vững.
Y học phương Đông quy chúng thuộc phạm vi sang chấn tinh thần do thất tình (bảy yếu tố tinh thần) gây ra. Tây y cho chúng là những chấn thương tâm lý do căng thẳng (stress). Một điều đáng chú ý là những stress càng ngày càng tăng theo nhịp sống khẩn trương trong thời đại công nghiệp hóa. Nếu những tiến bộ y học đã đẩy lùi hàng loạt bệnh tật để kéo dài tuổi thọ cho con người thì nó lại phải đối đầu với một số bệnh phức tạp hơn, bắt nguồn từ nguyên nhân tinh thần. Theo công trình nghiên cứu thực nghiệm của các chuyên gia y học Anh, Pháp, Nhật và Mỹ, một số tổn thương tinh thần gây các bệnh sau : Nóng giận làm tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, xuất huyết ;  ưu phiền quá độ gây viêm niêm dịch, giảm sức đề kháng cơ thể. Rối loạn cảm xúc mảnh liệt gây liệt toàn thân; buồn bã và ân hận gây sỏi mật, thận, sút cân, lao phổi; khiếp đảm đột ngột gây ỉa chảy, trụy tim mạch, liệt dương. Thất vọng, tuyệt vọng gây loét dạ dày, tá tràng. Mừng quá độ gây rối loạn tuần hoàn. Lo nghĩ quá độ gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu. Bất mãn thường nhật gây hen suyễn.
Xét theo quan điểm Đông y, những khám phá trên có nhiều điểm tương đồng. Y lý cổ truyền cho rằng : mừng quá hại tâm, lo nghĩ quá hại tỳ vị, nóng giận quá hại can, sợ quá hại thận, buồn quá hại phế. Ta thấy Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận có quan hệ mật thiết (quan hệ biểu lý) với mật, dạ dày, đại trường, tiểu trường, bàng quang và căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc của chúng trên phương diện ngũ hành, từ đó chúng ta thấy tuy bệnh danh có khác, nhưng xét tính chất và nguồn xuất phát thì không khác nhau mấy. Mặt khác, tinh thần cũng cần những thực phẩm bổ dưỡng trong lành. Vì thế, món ăn tinh thần mà ta “ăn” hàng ngày thông qua sách vở, báo chí, phim ảnh, giao tiếp ... cũng là điều rất quan trọng để phòng bệnh và góp phần chữa bệnh cho chúng ta.

Phan Hồng Long 

Học thuyết Thuỷ Hoả và bài “Lục vị – Bát vị”




Học thuyết Thuỷ Hoả luôn đi với bài “Lục vị – Bát vị”. Từ khi nó ra đời đến nay đã 300 năm được nhiều danh y ca ngợi, thành phẩm cũng được bào chế khắp nơi. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng và hiệu quả của các vị thuốc trong bài này, còn nhiều vấn đề phải bàn bạc. chúng tôi xin có vài nhận xét về việc sử dụng bài thuốc trên thị trường hiện nay.

Đôi nét về học thuyết Thuỷ Hoả và bài Lục vị - Bát vị

Học thuyết Thuỷ Hoả được Phùng Triệu Trương, hiệu Sở Chiêm (1617 – 1700) ở Tô Châu, tỉnh Triết Giang, khởi xướng và phát triển từ học thuyết Mệnh môn, trong bộ “Phùng Thị Cẩm Nang” 50 quyển, in năm 1702 đời nhà Thanh và chuyên sử dụng Lục Vị, Bát Vị.
Học thuyết Thuỷ Hoả quan niệm: Lúc có thai thì hai quả thận hình thành đầu tiên. Thận là gốc của tiên thiên, gồm cả Thuỷ lẫn Hoả và Thận chi phối đến sức khoẻ, cuộc sống con người. Thận trái là Thận âm, chủ thuỷ, sinh huyết, sinh tinh, sinh tinh dịch, đàm ẩm. Thận bên phải là Thận dương, chủ hoả là chánh khí. Âm Thuỷ – Dương Hoả lưu hành trong con người phải cân bằng nhau thì con người mới khoẻ mạnh. Nếu bên tả Thận âm suy thì dẫn đến các chứng thuỷ khô, huyết táo, làm cho hoả động sinh nóng rát, đỏ mặt ho hen, khó ngủ… phải dùng thang Lục vị để bổ thuỷ cho bằng với Hoả. Nếu Dương Hoả hư do Âm Thuỷ mạnh lên, gấy mất cân bằng, làm Thận Hoả không yên, long hoả bốc lên, gây chứng phong hoả như nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi… phải dùng thang Bát vị để bổ Hoả, bổ dương khí, làm ấm Thận Dương, đưa phù du hoả trở về Thận.
Bài "Lục vị" được Tiền ất (1032 – 1113) ở Sơn Đông, lấy bài “Kim Quỹ Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh (145 – 208), bỏ vị Quế chi, Phụ tử mà thành; Chuyên dùng để bổ chân âm cho trẻ em. Bài “Lục vị hoàn” có Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Mẫu đơn bì, Phục linh. Phùng Triệu Trương dùng bài Lục vị để bổ Thuỷ, bổ chân Âm.
Bài “Bát vị”, Phùng Triệu Trương lấy bài “Thận Khí hoàn”, thay vị Quế chi bằng Nhục quế để bổ Hoả, bổ chân Dương, chữa các chứng Thận hư, tiểu tiện không thông lợi (Bát vị tức Lục vị thêm Phụ tử, Nhục quế).
Thật ra bài “Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh đã được Thôi Tri Đệ (615 – 685) thay vị Quế chi bằng vị Quế tâm, gọi là “Thôi Thị Bát Vị hoàn”, để chữa các chứng cước khí làm bụng dưới tê cứng. Trương Cảnh Nhạc (1583 – 1640) cũng lấy bài “Thận khí hoàn”, bỏ Trạch tả, Đơn bì, Phục linh và thêm vào các vị bổ Dương: Câu kỷ tử, Chích thảo, Đỗ trọng, thay Quế chi bằng Nhục quế; Thành bài “Hữu quy ẩm” để bổ Thận Dương, Cảnh nhạc cũng dùng bài Lục vị, bỏ Trạch tả, Đơn bì, thêm vào Kỷ tử, Chích thảo thành bài “Tả Quy ẩm” để tư âm chủ trị thận âm bất túc, làm đau lưng, mỏi gối, di tinh, đạo hãn, miệng khô, họng ráo…
Lê Hữu Trác (1920 – 1791), trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” và danh y Hoàng Nguyên Cát (1702 – 1779) trong “Quỳ viên gia học” rất tâm đắc học thuyết Thuỷ Hoả và sử dụng bài Lục Vị, Bát Vị.
Hãy thận trọng với chất lượng thuốc trong bài Lục Vị, Bát Vị
Bài Lục Vị, Bát Vị đã được nhiều thế hệ lương y tâm đắc, nhưng hiện nay nhiều người sử dụng chẳng những không có hiệu quả, mà còn có dấu hiệu không an toàn. Chúng ta hãy xem lại tính vị của hai phương thuốc này và tìm hiểu tình hình các vị thuốc có trên thị trường hiện nay.
Thục địa (Rhemannia glutinosa)
Thục địa được nấu từ Sinh địa hoàng, cây di thực vào nước ta từ năm 1958 và trồng thực nghiệm ở Trại dược liệu Văn Điển. Cây phát triển tốt và sau đó được trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt…nhưng năng suất thấp. Đến nay ta phải nhập nên đắt (30000 – 40000đ/kg Sinh địa).
Trong củ Địa hoàng có chứa nhiều glucosit như: Rehmaniosit, rehmapicrosit, axit amin… Địa hoàng có vị ngọt, đắng, tính lạnh, có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, sinh huyết, cầm máu. Dùng chữa âm hư, sốt âm, khát nước, đái tháo đường, thiếu máu, bổ huyết, băng huyết, chảy máu cam, kinh nguyệt không đều, động thai, ban chẩn, viêm họng, tân dịch khô, tâm thận không yên, phiền táo, mất ngủ. Thục địa tư âm dưỡng huyết, bổ thận; chữa âm hư, huyết suy, sốt âm, ho suyễn, điều kinh, bổ huyết, di tinh, viêm thận. Liều dùng từ 10g – 30g dạng thuốc sắc.
Sơn thù du (Cornus officinadis)
Sơn thù du phải nhập từ Trung Quốc. Việt Nam cũng có ở Chư Yan Sin, Sa Pa, Ba Vì...nhưng thuộc chi khác. Khi dùng bỏ hạt gọi là Táo nhục. Sơn thù chống loạn nhịp tim, kháng khuẩn đối với trực khuẩn thương hàn, lỵ… Sơn thù du có vị chua, tính bình. Bổ can thận, sáp tinh, thông khiếu, cầm mồ hôi. Dùng tán phong hàn, chữa đau đầu, đau thắt lưng, gối mỏi, ù tai, thận suy, đa niệu, di tinh, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm. Liều dùng 6 – 12g, dạng thuốc sắc.
Hoài sơn (Pioscorea persimilis)Còn có tên là Củ mài, Sơn dược. Hoài sơn có nhiều ở nước ta. Là loại củ dễ trồng, cho năng xuất cao. Hoài sơn chứa nhiều tinh bột, mucrin (protein nhớt). Allantoin, các axít amin, arginin, cholin và men maltaza… Hoài sơn vị ngọt, tính bình vào kinh phế, tỳ, vị, thận. Có công dụng bổ tỳ vị hư nhược, sinh tân dịch, ích phế, bổ thận, chỉ khát, chữa viêm ruột kinh niên, tiêu chảy lâu ngày, phế hư, ho hen, bệnh đái tháo đường, di tinh, bạch đới...
Phục linh (Poria cocos Wolf) Họ Nấm lỗ
Là loại nấm ký sinh trên rễ cây Thông. Nấm có hình khối, to nhỏ không đều nhau từ bằng nắm tay đến khoảng 5 kg. Có ở Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Việt Nam. Loại có mặt cắt bên trong màu trắng gọi là Bạch linh, loại có màu hồng xám gọi là Xích linh, loại có rễ Thông xuyên qua gọi là Phục thần.
- Phục linh có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng tăng cường miễn dịch, an thần, chống viêm loét dạ dày, hạ đường huyết, bảo vệ gan, lợi thuỷ…
- Bạch linh lợi thuỷ, trừ thấp, tiêu thũng, chống phù, bổ tỳ, chữa bụng đầy trướng, chữa tiêu chảy, suy nhược, di tinh, chóng mặt, an thần.
Mẫu đơn bì hay Đơn bì (Paeonia moutan Suns. Họ Hoàng liên)
Mẫu đơn là loại hoa quý, được trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Việt Nam đã di thực về trồng ở Sa Pa, nhưng hiện đã bị mất giống. Rễ đơn bì có tác dụng chống co thắt, chống viêm, giảm đau, an thần, ức chế sự sinh sôi của E coli, Baccillus subtilis, staphylococcus aureus…  Mẫu đơn bì vị cay, đắng, mùi thơm, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, hạ sốt, tan máu ứ, giảm đau, dùng thuốc trấn kinh, chữa sốt âm kéo dài, chữa đau đầu, viêm rễ thần kinh, các bệnh kèm co giật, phòng và trị bệnh tắc mạch do huyết khối, đau ngực, chống đông máu, viêm da dị ứng, mụn nhọn, lở loét, viêm phổi, sốt xuất huyết, chữa nhiễm khuẩn, chữa viêm gan cấp…
Liều dùng từ 6 – 12g.
Trạch tả (Alisma plantage aquatica L.) còn có tên là Mã đề nước.
Có nhiều loại làm Trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng lợi thuỷ, thẩm thấp, thanh nhiệt. Dùng chữa bệnh thuỷ thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó, đái ra máu, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, đái tháo đường, cao huyết áp, gan nhiễm mỡ. Liều dùng từ 10 – 20 gam thuốc sắc.
Nhục quế (Cinnamomum cassia Blume)
Việt Nam là nơi có Quế nổi tiếng từ lâu đời như Quế ở Thanh Hoá, Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Quế có chứa tinh dầu cinnamaldehyt có tác dụng diệt khuẩn, chống đái tháo đường… Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng. Có tác dụng bổ hoả, hồi dương, ấm thận, tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích. Quế dùng làm thuốc cấp cứu do bị trúng hàn như lạnh chân tay, mạch chậm-nhỏ, hôn mê, đau bụng, trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hoá kém, tả lỵ, bí tiểu tiện, kinh bế, ung thư.
Phụ tử
Việt Nam có trồng ở Sa Pa, Mù Cang Chải. Phụ tử là củ rễ nhánh của Ô đầu. Từ củ Phụ tử chế biến ra Bạch phụ tử, Hắc phụ tử, Diêm phụ.
Phụ tử có Alcaloit là Aconitin, chất rất độc đối với tim nên phải được chế kỹ lưỡng và khi dùng phải thận trọng về liều lượng. Phụ tử có tác dụng hạ huyết áp, giảm đau, kích thích thần kinh, chống viêm. Phụ tử vị cay, ngọt, tính nhiệt, có độc mạnh. Phụ tử có tác dụng hồi dương cứu nghịch (lạnh chân tay, ra mồ hôi lạnh), trục phong hàn, tà thấp, bổ hoả. Dùng từ 1 – 10g (chế kỹ).
Qua phân tích trên, ta thấy học thuyết Thuỷ Hoả và thang Lục vị, Bát vị gia giảm được tiền nhân cấu tạo rất khoa học. Nhưng hiện nay nhiều vị lương y khi sử dụng tỏ ra nghi ngờ hiệu quả bài thuốc này. Có người cho rằng, có lẽ bệnh của thời naykhác với bệnh thời trước chăng? Theo chúng tôi thì nguyên nhân có thể do chất lượng các vị thuốc.
Hiện nay trên thị trường các vị thuốc này đều không đảm bảo: Thục địa được nấu sơ sài, không sấy khô, còn ẩm ướt, không thơm, không đảm bảo chất lượng. Sơn thù nhiều khi chỉ là vỏ và hạt, không có thịt. Hoài sơn làm từ củ khoai mì (củ sắn) được tẩy trắng, một số được làm từ khoai mỡ, khoai từ. Vị Phục linh, theo cố GS, L/Y Lê Minh Xuân, nguyên Viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc TP Hồ Chí Minh thì “trên thị trường phần lớn Phục linh chế sẵn là giả, được làm từ gạo ủ, không phải là nấm lỗ của cây Thông”. Mẫu đơn bì không biết được làm từ vỏ cây gì, được ướp hương liệu hoá chất cho thơm (ester), nhưng có độc. Nhục quế được lấy từ vỏ cành cây Quế nên ít tinh dầu, kém ngọt, thơm. Phụ tử rất độc nên việc bào chế và liều lượng khó kiểm soát.
Bài Lục vị có 6 vị, mà thuốc giả, thuốc kém chất lượng đã 3 – 4 vị rồi, thì còn đâu là bài thuốc bổ Thuỷ, bổ chân âm nữa. Nên thuốc uống vào thường gây nhiều phản ứng phụ như nóng xót, tiêu chảy, buồn nôn, mệt… Có cả hiện tượng của ngộ độc thuốc.
Khi sử dụng bài Lục vị, Bát vị gia giảm, chúng ta nên chú ý đến chất lượng và liều lượng của bài thuốc. Chất lượng bảo đảm thì hãy dùng, còn không thì nên thay vị thuốc khác thoả đáng hơn.

Trần Sỹ 

Ngày xuân, nói chuyện cứu để sống thọ




Con người sống trong thế gian không thể không già, lại càng không thể sống mãi. Người xưa có câu : “Sinh chi hữu trưởng, trưởng chi hữu lão, lão chi hữu tử, nhược tứ thời chi đại tạ hĩ”, ý nói người ta sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết tựa như sự xoay vần của bốn mùa vậy. Xem ra, chuyện sinh tử của con người cũng là một quy luật bất khả kháng của tạo hoá.
Nhưng, liệu con người có thể làm chậm quá trình lão hoá được không ? Có thể kéo dài tuổi thọ để sống cho hết “tuổi trời cho” được hay không ? Câu trả lời được khẳng định là hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là ở chỗ phải làm như thế nào để sống khoẻ và sống lâu một cách có hiệu quả. Thật khó có thể kể hết những quan niệm, những biện pháp mà loài người đã lý giải và tìm ra nhằm đạt mục đích này. Song điều đáng nói là có những biện pháp rất cũ, rất tự nhiên, rất dễ làm và cũng rất rẻ tiền, nhưng dường như rất ít được chú ý đến. Đó là những phương pháp dưỡng sinh trường thọ giản dị mà độc đáo của y học cổ truyền, trong đó không thể không kể đến liệu pháp cứu một số huyệt vị nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, phòng chống bệnh tật, làm chậm quá trình lão hoá và kéo dài tuổi thọ cho con người.


Liệu pháp cứu để sống thọ là gì ?
Cứu để sống thọ là phương pháp dùng sức nóng tác động lên huyệt vị châm cứu để điều hoà âm dương khí huyết, ôn thông kinh lạc, phù chính khu tà nhằm đạt được mục đích bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, phòng chống bệnh tật và chống lão hoá và kéo dài tuổi thọ.
Cứu thường dùng lá ngải cứu khô chế thành ngải nhung rồi làm mồi ngải hay điếu ngải để cứu. Cách chế : lấy lá ngải cứu phơi khô trong bóng râm rồi đem vò hay giã nát để loại bỏ cuống và gân lá, sản phẩm thu được có màu vàng nhạt, mềm mại, sờ mịn như nhung nên gọi là ngải nhung. Sau đó dùng giấy mỏng (giấy bản hoặc giấy cuốn thuốc lá) cắt thành miếng dài 20 cm, rộng 4 cm, rải ngải nhung lên, cuốn thành điếu tròn như điếu thuốc lá to, gọi là điếu ngải hoặc dùng 3 ngón tay nhúm một ít ngải nhung đặt lên khay men, ép thành hình chóp nón, to bằng từ hạt đỗ đến hơn hạt ngô to, gọi là mồi ngải. Hiện nay, người ta thường dùng điếu ngải hơn mồi ngải, có thể mua điếu ngải chế sẵn tại các hiệu thuốc đông y.
Có 3 cách cứu điếu ngải : (1) Đốt điếu ngải rồi hơ trên huyệt, cách da chừng 2 cm, khi thấy nóng thì để cách xa dần, đến mức thấy nóng ấm, dễ chịu thì giữ nguyên khoảng cách đó cho đến khi thấy da hồng lên là được, cứu chứng 10 - 15 phút ; (2) Đặt điếu ngải cách da một khoảng đủ thấy nóng ấm rồi từ từ di chuyển điếu ngải theo vòng tròn, từ hẹp đến rộng, khi cảm thấy nóng đều vùng định cứu là được, cứu trong 20 - 30 phút ; (3) Đưa đầu điếu ngải lại gần sát da cho có cảm giác nóng rát rồi lại kéo ra xa, làm như thế nhiều lần như chim sẻ mổ thóc, thường cứu trong 2 - 5 phút.

Cơ chế tác dụng của phép cứu để sống thọ ra sao ?
Như trên đã nói, theo y học cổ truyền, cứu huyệt có tác dụng điều tiết và lập lại cân bằng âm dương, bổ dưỡng và điều hoà khí huyết, làm ấm và lưu thông kinh mạch, duy trì và cải thiện công năng các tạng phủ (hiệp điều tạng phủ), bảo vệ và nâng cao sức đề kháng của cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh (phù chính khứ tà). Sách Biển Thước tâm thư đã viết: “Người lúc không bệnh, thường cứu các huyệt Quan nguyên, Khí hải, Mệnh quan, Trung quản, … tuy không được trường sinh, cũng có thể sống thọ dư trăm tuổi”.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu ngải có tác dụng điều chỉnh và tăng cường công năng miễn dịch ; kháng khuẩn, tiêu viêm, giảm đau và chống dị ứng; thúc đẩy quá trình tạo máu và chống đông máu; làm hạ mỡ máu, điều tiết đường máu và giảm béo ; cải thiện vi tuần hoàn, thúc đẩy huyết dịch lưu thông và điều hoà huyết áp ; điều tiết chức năng hệ tiêu hoá, hệ thần kinh, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống tuyến yên - tuyến thượng thận và các tuyến nội tiết khác; tăng cường khả năng chống lạnh cho cơ thể ; chống ung thư và làm chậm quá trình lão hoá... Những nghiên cứu gần đây còn cho thấy, cứu ngải có tác dụng cải thiện công năng hoạt động của màng tế bào, thúc đẩy quá trình hồi phục hệ thống men trong nội bào. Nhờ những tác dụng này mà liệu pháp cứu huyệt có khả năng phòng bệnh, tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.

Những huyệt vị nào thường dùng cứu để sống thọ ?
• Huyệt Đại chuỳ:  Là huyệt hội của 6 kinh dương và mạch Đốc (chư dương chi hội) và là bể của dương mạch (dương mạch chi hải), có công dụng giải biểu sơ phong, thanh tâm định thần, kiện não, tiêu trừ mệt mỏi, tăng cường thể chất và cường tráng cơ thể. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Đại chuỳ đặc biệt có tác dụng gia tăng số lượng bạch cầu, nâng cao năng lực miễn dịch tế bào, cải thiện lưu lượng tuần hoàn não, phòng chống cảm mạo và các bệnh lý hệ hô hấp. Cách xác định huyệt: cúi đầu và quay đầu qua lại phải trái, dùng tay xác định u xương tròn cao nhất động đậy dưới ngón tay nhiều, đó là mỏm gai của đốt sống cổ thứ 7, huyệt Đại chuỳ nằm ngay dưới đầu mỏm gai này.
• Huyệt Trung quản:  Là huyệt hội của phủ, thuộc mạch Nhâm, có công dụng điều lý tràng vị, bổ khí, tiêu tích hoá trệ, lợi thấp hoà trung, giáng nghịch chỉ ẩu (trừ nôn). Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Trung quản đặc biệt có tác dụng nâng cao công năng tỳ vị, làm tăng nhu động dạ dày và ruột, thúc đẩy quá trình tiêu hoá thức ăn và hấp thu các chất dinh dưỡng, điều tiết bài tiết dịch tiêu hoá, cải thiện miễn dịch tế bào và phòng chống các bệnh lý dạ dày, ruột, túi mật và tuyến tuỵ. Cách xác định huyệt: nằm ở điểm giữa đường nối nơi gặp nhau của bờ cung xương sườn và rốn, phía trên rốn 4 thốn.
• Huyệt Quan nguyên:  Là huyệt hội của ba kinh âm và mạch Nhâm, là nơi chứa đựng nguyên khí rất cần cho sự sống, có công dụng bồi thận cố bản, bổ khí hồi dương, thông điều Xung Nhâm, thăng thanh giáng trọc, điều nguyên tán tà, bảo kiện phòng bệnh. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt quan nguyên đặc biệt có tác dụng cải thiện huyết động học, làm ổn định và gia tăng chỉ số SI và LVSWI của cơ tim, tăng cường lưu lượng tuần hoàn vành, nâng cao khă năng chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy, cải thiện và điều tiết miễn dịch. Cách xác định huyệt: nằm trên đường trục giữa cơ thể, dưới rốn 3 thốn hoặc ở điểm nối 3/5 trên và 2/5 dưới của đường nối điểm giữa bờ trên xương mu và rốn.
• Huyệt Thần khuyết :  ở trung tâm của rốn, thuộc mạch Nhâm, có công dụng ôn bổ nguyên khí, kiện vận tỳ vị, hồi dương cứu nghịch. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt Thần khuyết đặc biệt có tác dụng điều tiết và nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, bảo hộ niêm mạc và cải thiện công năng hấp thu của đường tiêu hoá. Thần khuyết thường được cứu cách muối, cách gừng hoặc cách bột thuốc. Trong dân gian lưu truyền một phương pháp cứu Thần khuyết rất độc đáo có tác dụng bảo kiện trường thọ cực tốt, có tên gọi là Thần khuyết cứu tề pháp : lấy sinh ngũ linh chi 24g, thanh diêm 15g, nhũ hương 3g, một dược 3g, dạ minh sa 6g (sao qua), mộc thông 9g, can thông đầu 6g, xạ hương một chút xíu, tất cả đem tán thành bột thật mịn. Khi cứu, lấy vài thìa bột mì hoà với nước rồi nặn thành cái vành tròn úp ngay ngắn lên lỗ rốn, lấy 6g bột thuốc đổ vào lỗ rốn rồi dùng một miếng vỏ cây hoè mà đốt bởi một nén hương, cứ bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu mồi, mỗi tháng cứu 1 lần, cứu vào giờ Ngọ là tốt nhất.
• Huyệt Túc Tam lý :  Là huyệt nằm trên đường kinh Vị, có công dụng điều lý tỳ vị, kiện vận tỳ dương, ôn trung tán hàn, bổ trung ích khí, điều hoà khí huyết, tuyên thông khí cơ, đạo khí thượng hành, phù bản cố nguyên, bổ hư cường thân. Y thư cổ có câu : “Đỗ phúc Tam lý lưu”, ý muốn nói cứu huyệt vị này có thể phòng chống các bệnh lý đường tiêu hoá. Trong dân gian Nhật bản lưu truyền câu tục ngữ : “Nhược yếu an, Tam lý mạc yếu can”, nghĩa là muốn khoẻ mạnh và sống lâu thì huyệt Túc tam lý không được để cho khô, ý là phải cứu huyệt vị này cho bỏng lở liên tục. Bởi vậy, Túc tam lý còn được gọi là Trường thọ huyệt hay Vô bệnh trường thọ huyệt. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu Túc Tam lý đặc biệt có tác dụng chống lão hóa rõ rệt thông qua việc cải thiện hàng loạt các chỉ tiêu về tuần hoàn, hô hấp, thần kinh, tiết niệu, nội tiết, miễn dịch và vận động ở người có tuổi và cao tuổi. Cách xác định huyệt : sờ bờ trước xương ống chân (mào chày) từ dưới cổ chân ngược lên, đến gần khớp gối ngón tay bị mắc lại ở đâu thì đó là lồi củ trước xương chày, từ đây đo ngang ra ngoài một khoát ngón tay là vị trí của huyệt, khi ấn có cảm giác tê tức lan xuống bàn chân.
• Huyệt Tam âm giao : Là huyệt hội của 3 kinh âm, có công dụng kiện tỳ hoà vị, sơ can lý khí, bổ thận tăng tinh, thông kinh hoạt lạc, chủ về công năng sinh dục. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, cứu huyệt vị này đặc biệt có tác dụng phòng chống các bệnh lý thuộc hệ tiết niệu sinh dục, đồng thời cũng có hiệu quả đối với các bệnh lý thần kinh, tim mạch và tiêu hoá. Cách xác định huyệt: từ đỉnh mắt cá chân trong đo lên 3 thốn, huyệt ở chỗ hõm sát bờ sau phía trong xương chày.
Ngoài ra, một số huyệt vị khác cũng được người xưa tiến hành liệu pháp cứu huyệt trường thọ như Thân trụ (dưới mỏm gai đốt sống cổ 3), Khí hải (dưới rốn 1,5 thốn), Mệnh môn (dưới mỏm gai đốt sống thắt lưng thứ 2)...Để đạt được hiệu quả, vấn đề quan trọng là phải tiến hành kiên trì, đều đặn và đúng thao tác. Có thể thực hành cứu đơn lẻ từng huyệt hoặc phối hợp cứu nhiều huyệt nhằm mục đích hiệp đồng tác dụng để nâng cao hiệu quả sống khỏe, sống thọ.

Hoàng Khánh Toàn

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG Y DƯỢC HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY



Trong khi nghiên cứu tìm hiểu để thừa kế vốn Y học cổ truyền của dân tộc, người cán bộ y dược quen với phương pháp và cách suy nghĩ làm việc theo khoa học hiện đại truyền đạt trên ghế nhà trường đại học hiện nay thường vấp phải một trở ngại. Hầu hết các sách, các kinh nghiệm chữa bệnh, chế thuốc, dùng thuốc đều viết và nói bằng những tiếng rất xa lạ đối với khoa học ngày nay như âm dương, hàn nhiệt, hư thực, biểu lý, thận thủy, thận hỏa…
Muốn tìm hiểu những tiếng xa lạ ấy đối với khoa học hiện đại, không có cách nào khác là tìm hiểu học thuyết “Âm dương ngũ hành” do một môn phái triết học phương Đông đưa ra sau khi đã quan sát lâu đời sự biến hóa của tự nhiên.
Nhưng học thuyết này trước nay lại được diễn đạt một cách rất khó hiểu, nhiều khi được bao phủ bởi một lớp vỏ đượm màu mê tín, vì học thuyết này đồng thời là cơ sở của nhiều ngành học cổ như môn địa lý, tử vi, bói toán… Cho nên nhiều người cho rằng trong lúc nghiên cứu theo phương pháp của khoa học hiện đại còn chưa đủ thời giờ thì tội gì lại đâm đầu vào tìm hiểu một vấn đề đã lạc hậu.
Sự thực thì sau khi tước bỏ lớp ngoài đượm màu mê tín, huyền bí do người đời sau thêm thắt xuyên tạc, chúng ta sẽ thấy học thuyết “Âm dương ngũ hành” chứa đựng những chân lý khách quan và giúp ta một phương pháp suy luận mới khác với những suy luận quen thuộc.
Thực vậy, theo học thuyết này vạn vật biến chuyển không ngừng, vạn vật chứa mâu thuẫn và sự sinh tồn của vạn vật là do sự ức chế và thúc đẩy lẫn nhau của hai lực lượng đối lập và gắn liền với nhau gọi là “âm” và “dương”. Sau đây gần như nguyên là lời văn của người xưa: “Vũ trụ khi mới hình thành là một khối thống nhất gọi là thái cực. Thái cực biến hóa sinh ra lưỡng nghi là âm và dương. Âm dương kết hợp với nhau để sinh ra ngũ hành làKim, Mộc, Thủy, Hỏa  Thổ. Ngũ hành (năm thứ vật chất) này lại có sự kết hợp chặt chẽ để tạo ra “Tam tài”(ba lực lượng) là Thiên (trời), Địa (đất) và Nhân (người). Trong mỗi lực lượng này lại có sự kết hợp chặt chẽ và cân bằng giữa “âm”  “dương” và “ ngũ hành”.
Âm dương không phải là một vật chất cụ thể nào, mà là thuộc tính mâu thuẫn n»m trong tất cả mọi sự vật. Nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát triển của sự vật.
Phàm cái gì hoạt động tích cực, hưng phấn, hướng lên… đều thuộc dương. Tất cả những gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, đi xuống… đều thuộc âm. Âm dương bao hàm ý nghĩa đối lập, nhưng còn bao hàm ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra; hỗ trợ, chế ước lẫn nhau mà tồn tại. Do đó, không thể chỉ có âm, hoặc chỉ có dương. Trong hình vẽ người xưa về hình tượng âm và dương, người ta vẽ hai phần bằng nhau đen và trắng và ước gọi với nhau phần trắng là dương, còn phần đen là âm. Nhưng trong phần trắng lại có một điểm đen và trong phần đen có một điểm trắng để tượng trưng trong dương có mầm mống của âm; trong âm có mầm mống của dương. Người ta còn nói: “Trong âm có âm dương và trong dương cũng có âm dương; âm đến cực độ sinh ra dương, dương đến cực độ sinh ra âm, tức là hàn đến cực độ sinh ra nhiệt, nhiệt đến cực độ sinh ra hàn”. Những lời lẽ có vẻ huyền bí khó hiểu ấy lại trở thành rất chính xác, dễ hiểu khi ta nhìn cục nam châm với hai cực Nam và Bắc. Nếu  ta bẻ đôi cục nam châm ấy ra thì lập tức ở phần cực Nam lại xuất hiện một đầu Nam và một đầu bắc; và ở cực hoàn toàn Bắc lại xuất hiện một cực Nam và một cực Bắc. Nghĩa là Nam nằm sẵn trong Bắc và Bắc cũng đã nằm sẵn trong Nam; trong Nam có Nam, Bắc và trong Bắc cũng có cả Bắc, Nam.
Thuyết “Ngũ hành” với luật sinh khắc, chế hóa cũng chỉ là một cách diễn đạt những đặc tính và sự liên quan với nhau, đối lập và nương tựa thống nhất với nhau của các sự vật. Ví dụ như người xưa tượng trưng thận (bao gồm cả tuyến thượng thận) thuộc chất “nước” (thủy); gan và mật thuộc  chất “gỗ”(mộc); tim (bao gồm cả bao tim) thuộc chất “lửa” (hỏa); dạ dày thuộc chất “đất” (thổ)… thực ra là người xưa đã diễn đạt một số tính chất và sự liên quan chặt chẽ giữa các cơ quan đó với nhau. Và khi chữa bệnh một cơ quan nào phải luôn nhớ sự liên quan đó.
Ví dụ để diễn đạt sự liên quan giữa thận, gan và tim, thuyết “Ngũ hành” nói rằng thận thuộc thủy, gan thuộc mộc và tim thuộc hỏa, trong đó “thủy” (thận) sinh ra “mộc”; “mộc” (gan) lại sinh ra “hỏa” (tim). Do đó, muốn chữa bệnh ở tim có khi người ta dùng vị thuốc tác động trực tiếp lên tim, nhưng có khi người ta lại dùng những vị thuốc tác động vào gan; hoặc hơn nữa có khi vào thận. Vì như vậy là tác động lên nguồn gốc bệnh nằm ở cơ quan trực tiếp hay xa hơn nữa đã sinh ra nó, vì tim là “con” của  gan và cháu của “thận”.
Chúng tôi có thể dẫn ra nhiều thí dụ để giới thiệu cách ông cha ta đã vận dụng thuyết “Âm dương ngũ hành” trong việc dùng thuốc chữa bệnh. Nhưng đó không phải là mục đích của bài khảo luận này.
Chúng tôi chỉ muốn nhắc lại rằng, trong khi chưa có khoa học hiện đại, ông cha ta đã nhờ những học thuyết này mà tìm thuốc chữa bệnh có kết quả. Như Hải Thượng Lãn Ông, một thầy thuốc Việt Nam nổi tiếng ở vào thế kỷ XVIII, trước khi vào nghề y đã học được thuật “âm dương”. Cho nên khi tình cờ đọc sách thuốc đã thâu nhận môn học này một cách nhanh chóng và đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết này trong chữa bệnh mà trở nên bất tử. Ai đã đọc sách của Hải Thượng đều thấy rõ trong bất kỳ trường hợp chẩn đoán nào Hải Thượng cũng tìm cho ra bệnh thuốc chứng “dương” hay chứng “âm” để rồi dùng những vị thuốc hay bài thuốc thuộc “âm” hay thuộc “dương” (như các bài lục vị, bát vị để điều hòa cơ thể trở về cái thế cân bằng của “âm dương”).
Có người hỏi học thuyết “Âm dương” có đặt ra cách đây hàng nghìn năm, một nguyên lý y học của ông cha ta hiện nay còn giúp gì cho ta trong việc nghiên cứu y dược?
Để trả lời, chúng tôi muốn kể lại kết quả của một công trình nghiên cứu của Ohsawa, một nhà khoa học Nhật Bản đã rút ra từ học thuyết “Âm dương” một phương pháp nghiên cứu vận dụng vào môn học “Khoa học về trường sinh” (Macrobiotika). Ông đã đem đến cho học thuyết “Âm dương” một nội dung hiện đại bằng cách đem so sánh thành phần hóa học của thức ăn, chia thức ăn ra hai loại thức ăn acid và thức ăn kiềm tùy theo lượng Natri hay Kali chứa trong đó. Nếu tỷ lệ giữa Kali và Natri lớn hơn 5 thì đó là thức ăn acid hay là “âm”; nếu nhỏ hơn 5 thì đó là thức ăn kiềm hay là “dương”, một số thức ăn còn được chia thêm thành “rất âm”, “rất dương”, “âm hơn”, “dương hơn”. Mệnh đề chính của thuyết “Macrobiotika” là sự mất cân bằng về âm dương trong thức ăn sẽ dẫn đến trạng thái ốm đau. Nếu như một người nào đó ăn chủ yếu những thức ăn âm (acid) thì cơ thể dễ mắc những chứng bệnh cảm cúm, chức năng của cơ thể bị phá hoại, một số bệnh mạn tính xuất hiện… Để nhằm chữa nhanh chóng bệnh này, chỉ cần lập lại sự cân bằng đã bị phá hoại do sự ăn uống không đúng bằng cách cho ăn cơm và thức ăn thuộc nhóm dương như lúa mạch, gà tây…
Chúng tôi, những người trí thức của Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi đang đi theo một khía cạnh khác của học thuyết “Âm dương ngũ hành”. Chúng tôi tìm những cặp mâu thuẫn “âm dương” đang chứa đựng ngay trong bản thân của mỗi sự vật, của mỗi vị thuốc. Đối chiếu với một số vị thuốc đã được nghiên cứu về mặt hóa học, chúng tôi thấy trong mỗi vị đều chứa hai yếu tố đối lập về tác dụng. Như trong vị thuốc “Đại hoàng”. Sự phân tích hóa học trong nhiều năm đã cho biết trong vị “Đại hoàng” có chứa những hợp chất Anthraglucosid có tác dụng tẩy, nhuận tràng; nhưng đồng thời cũng lại  chứa nhiều chất tanin có tác dụng làm săn da, gây táo bón. Khoai lang cũng vậy.
Trong mía (mía cũng là một vị thuốc gọi là Cam giá), người ta cũng phân tích có chứa chất đường; nhưng đồng thời cũng lại chứa rất nhiều men có tác dụng phân hủy chất đường. Do đó khi ta ăn mía thì đồng thời ta ăn chất đường nhưng ta lại ăn luôn chất men để tiêu hóa được chất đường. Nhưng nếu ta phơi khô mía thì trong quá trình phơi khô, chất men này lại phá hủy hết chất đường và mía phơi khô không còn tác dụng gì nữa.
Vị thuốc “Ích mẫu” là một vị thuốc dùng để chữa bệnh cho phụ nữ; khi nghiên cứu người ta cũng phát hiện ngay trong vị “Ích mẫu” hai chất có tác dụng trái ngược nhau; một số chất có tác dụng gây ức chế tử cung, một số chất lại có tác dụng gây kích thích tử cung. (Do đó lại có tác dụng trái ngược nhau là một vị thuốc có tác dụng điều kinh, đồng thời cũng là một  vị thuốc chữa băng huyết).
Đối với một số vị thuốc khác chúng tôi cũng thấy có cặp mâu thuẫn như vậy. Phải chăng đây là một quy luật có tính chất phổ biến? Nếu là một quy luật phổ biến thì phải hiểu tác dụng của những vị thuốc đó đối với cơ thể ra sao? Vì nếu chúng ta nghiên cứu thấy tính âm hay dương ở những vị thuốc khác nhau thì tùy theo bệnh thuộc âm nhiều hay dương nhiều, ta sẽ lựa chọn những vị thuốc có tính chất ngược lại cho uống để lập lại cân bằng.
Nhưng ở cặp mâu thuẫn “âm dương” ấy lại chứa đựng ngay trong một vị thuốc. Vì thế, theo ý tôi, cần phải phân tích để so sánh tỷ lệ giữa hai phần “âm”, “dương” ấy với nhau. Sau đó nghiên cứu tìm xem trong trường hợp nào thì cơ thể của người bệnh nghiêng về việc lựa chọn phần “âm” hay phần “dương” của vị thuốc. Cơ thể sẽ lựa chọn sử dụng một trong hai phần đó như thế nào? Theo chúng tôi đó là những hướng mới mà học thuyết “Âm dương ngũ hành” đã đề xuất. Chúng ta không thể chỉ lý luận mà phải thực nghiệm. Rồi từ những kết quả thực nghiệm ấy đưa vào điều trị. Có điều khuyến khích là những thí nghiệm ấy sẽ có căn cứ lâu đời từ những kết quả điều trị thực trên thân thể con người qua hàng nghìn năm kinh nghiệm.
Việc nghiên cứu ấy không thể một sớm một chiều sẽ thu được kết quả ngay. Nhưng học thuyết “Âm dương”, quy luật vạn vật chứa mâu thuẫn nhắc nhở chúng tôi không theo con đường mà nhiều đồng nghiệp phương Tây của chúng tôi vẫn làm khi nặng về phương pháp chiết xuất từng chất riêng lẻ từ cây cỏ (như chiết riêng những chất Morphin, Cafein chẳng hạn). Những đồng nghiệp này thường tinh chế và chỉ dùng những chất hoàn toàn tinh khiết không lẫn những chất khác, dù những chất đó có sẵn trong cây trong những trạng thái hỗn hợp tự nhiên.
Chúng tôi sẽ chỉ dừng lại ở mức độ thu gọn vị thuốc, làm sao cho vị thuốc trở nên tiện dùng, bảo quản được lâu dài. Còn thì chúng tôi tôn trọng tối đa sự kết cấu tự nhiên của các vị thuốc, nghĩa là dùng toàn bộ vị thuốc dưới dạng gọn nhất, công hiệu nhất, mà cũng thuận tiện nhất. Phải chăng vì đã dùng những hóa chất tác dụng theo một chiều hướng nhất định nên càng ngày nhân dân các nước phương Tây có khuynh hướng sợ dùng những thuốc hóa chất tổng hợp, và đã quay trở lại dùng những thuốc cây cỏ theo kinh nghiệm lâu năm với toàn bộ tác dụng mâu thuẫn cần thiết mà trước đây người ta chưa biết, nhưng nay lại cũng chưa thấy rõ hết nguyên nhân.

Đỗ Tất Lợi 

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”

Dân gian có câu: “Bất như ý sự thường bát cửu, như nhân chi ý nhất nhị phân”, ý nói ở đời mười điều thì có tới tám, chín điều không thuận theo ý ta, có chăng chỉ được một hai điều. Và những việc trái với ý muốn, những khó khăn, lo toan, phiền muộn, uất ức luôn khiến cho người ta rơi vào tâm trạng bị ức chế, mệt mỏi chán nản, thậm chí lâu ngày có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, là nguy cơ để phát sinh các căn bệnh như suy nhược thần kinh, mất ngủ, trầm cảm, viêm loét đường tiêu hóa, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...
Dưỡng thần bằng phương pháp “sơ tiết”
Có thể sơ tiết bằng ngòi bút.
Ở Hàn Quốc có một câu chuyện dân gian rất thú vị có tên gọi là Hoàng đế tai lừa. Một vị hoàng đế có đôi tai giống như tai con lừa, nhưng ông ta chỉ tiết lộ cho người thợ cắt tóc biết và cấm anh ta không được hé răng tiết lộ với ai, nếu không sẽ bị chém đầu. Ngày tháng dần trôi, người thợ cắt tóc cảm thấy rất khó chịu khi giữ bí mật này trong lòng, anh ta căng thẳng đến nỗi muốn phát điên, tuy nhiên vẫn không dám nói cho những người xung quanh biết vì sợ sẽ bị giết chết. Cuối cùng, anh ta nghĩ ra một cách vẹn toàn cả đôi đường là đào một cái hố thật to, hàng ngày cúi đầu xuống hố và hét lên: “Hoàng thượng có đôi tai lừa”. Thế là người thợ cắt tóc đó đã thoát khỏi sự ức chế tinh thần, trạng thái tâm lý của anh ta trở lại bình thường. Đó là một trong những ví dụ điển hình của phương pháp “sơ tiết” tinh thần của y học cổ truyền phương Đông.
“Sơ” có nghĩa là làm thưa ra, mở ra, thư giãn, thư thái, khai thông...; “tiết” có nghĩa là tiết ra, lọt ra, tiết lộ, trút bỏ...; “sơ tiết” nôm na là tìm cách cởi bỏ những sự ức chế, bế tắc để nhằm đạt được sự thư thái, bình thản về thể xác và tinh thần. Trong y học cổ truyền, những phương pháp như “sơ biểu giải tà” “sơ tán phong tà”, “sơ phong tiết nhiệt” “sơ phong hóa thấp”, “sơ can lý khí”, “sơ can giải uất” cũng nằm trong ý nghĩa trừ bỏ tà khí ra bên ngoài, làm lưu thông khí huyết và lập lại cân bằng âm dương trong hoạt động của các tạng phủ. Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta luôn gặp phải những sự việc không vui, không hài lòng, điều này khiến cho chúng ta phải chịu áp lực rất lớn về tâm lý và từ đó dễ gây nên bệnh tật. Bởi vậy, chúng ta cần thường xuyên giải phóng áp lực tâm lý, vận dụng phương pháp “sơ tiết” về tinh thần của y học cổ truyền. Phương pháp này có thể thực hiện bằng miệng hoặc bằng đầu óc chân tay.
“Sơ tiết” đường miệng có hai cách: Cách thứ nhất là độc thoại một mình. Ví dụ một người nào đó không hài lòng đối với cấp trên của mình, tuy nhiên anh ta lại không dám biểu lộ sự bực tức đó một cách công khai và trực diện, vậy thì cách giải quyết có thể là hãy mạnh dạn mua một chai rượu, rồi vừa uống một mình vừa thoải mái mắng nhiếc bề trên. Đừng nghĩ là người đó có vấn đề về tâm thần mà thực ra anh ta đang thực hiện một phương pháp rất hay để giải toả sự ức chế. Uống rượu, mắng nhiếc, uống chán mắng chán rồi ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy sẽ chẳng còn chuyện gì nữa. Tuy nhiên, không nên uống quá nhiều vì như vậy rất có hại cho sức khỏe. Cách thứ hai là thổ lộ với người khác, khi có điều gì bực bội không vui, nên tìm một người nào đó gần gũi và hiểu mình để trút bầu tâm sự, như vậy có thể giải thoát khỏi sự ức chế về tâm lý. Tuy nhiên, cần chú ý chọn đúng đối tượng có thể lắng nghe và thấu hiểu mình, bởi vì lắng nghe người khác trút giận chẳng có gì là thích thú cả, nếu không phải là một người hiểu bạn, thông cảm với bạn thì chẳng ai muốn nghe bạn nói và nếu như có nhẫn nại lắng nghe bạn nói xong thì họ cũng không thể đưa ra những lời khuyên chân tình và hiệu quả.
“Sơ tiết” bằng đầu óc chân tay cũng có hai cách: Cách thứ nhất là “sơ tiết” bằng ngòi bút. Khi bạn giận ai đó, hãy dùng bút viết thật nhiều, viết ra tất cả những gì khiến bạn giận giữ và kìm nén ức chế trong lòng mà không thể giãi bày trực tiếp với ai trên cõi đời này. Có thể viết thành một bức thư mà đối tượng nhận chính là người mà bạn đang giận. Tuy nhiên, nên nhớ một điều rằng bức thư ấy chỉ có thể viết và để đấy chứ không thể gửi cho ai cả. Cách thứ hai để “sơ tiết” là sáng tác theo khả năng của mình, có thể viết văn, làm thơ, viết kịch, sáng tác nhạc, vẽ tranh, nặn tượng... Không ít nhà văn nổi tiếng đã cho ra đời các tác phẩm kinh điển trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực, ví như Tư Mã Thiên sáng tác Sử ký sau khi ông bị kết tội tử hình; Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng Lâu Mộng trong những năm tháng ông gặp phải muôn vàn khó khăn cực nhọc.
Theo y học cổ truyền, đối với tâm lý tinh thần, vấn đề mà Đông y gọi là “thất tình” (bảy thứ tình chí là hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh), “sơ tiết” là một biện pháp rất hữu hiệu để trút bỏ sự uất ức, bực tức, buồn chán trong lòng, lập lại sự cân bằng âm dương trong đời sống tinh thần. “Sơ tiết” có thể làm giảm bớt sự mệt mỏi ức chế về tâm lý, khiến cho con người cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái trong lao động và cuộc sống. Tuy nhiên, cần nhớ một điều là “sơ tiết” cũng cần phải tuân theo nguyên tắc “tam nhân chế nghi” của y học cổ truyền phương Đông, đó là “nhân nhân chế nghi” (tùy đối tượng mà dùng), “nhân địa chế nghi” (tùy chỗ mà dùng) và “nhân thời chế nghi” (tùy lúc mà dùng).

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Ngũ vận lục khí & dưỡng sinh, phòng bệnh năm Ất Mùi

Ngũ vận lục khí, gọi tắt là “vận khí”, là khoa dự báo học cổ đại, chuyên nghiên cứu các quy luật tổng quát của thời tiết, khí hậu hàng năm cùng tác động của chúng đối với sức khỏe và tật bệnh. Trong các khoa dự báo cổ đại, vận khí học được giới khoa học thừa nhận là khoa dự báo có tính khoa học, giá trị thực tiễn cao nhất và cho đến nay vẫn có giá trị.
Thí dụ như đối với việc phòng ngừa và chữa trị các bệnh truyền nhiễm; Phát hiện nhanh chóng các vi sinh vật gây bệnh và tìm ra thuốc đặc trị để tiêu diệt chúng là một trong những thế mạnh của y học hiện đại. Thế nhưng, để ứng phó với sự biến dị nhanh chóng của chúng thì y học đang gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với các chứng bệnh nhiễm khuẩn, Đông y có một cách tiếp cận  khác. Đông y cho rằng môi trường mới là nhân tố quyết định sự tồn tại của các loại vi khuẩn, virut gây bệnh. Do coi trọng tác động của môi trường sinh thái, trong đó khí hậu đóng vai trò quyết định, nên trong dưỡng sinh cũng như trong phòng trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc cơ bản là “Nhân thời - Nhân địa - Nhân nhân”. Nghĩa là cần tính đến những đặc điểm về thời tiết khí hậu (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm của từng bệnh nhân (nhân nhân). “Nhân thời” được đặt lên hàng đầu, có vị trí quan trọng bậc nhất. Không thông hiểu vận khí sẽ không thể vận dụng được đúng chữ “thời”, do đó Lãn Ông mới nói, không thông vận khí  sẽ chẳng thể làm nổi việc gì.
Ngũ vận lục khí năm Ất Mùi
Ngũ vận lục khí: “Ngũ vận” là sự vận hành của 5 loại khí: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy; đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trên mặt đất. “Lục khí” là sự biến hóa của 6 loại khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa. Đó là những nhân tố chủ yếu, ảnh hưởng tới sự biến động của khí hậu trong không trung.
Khi các loại khí nói trên vận động và biến hóa một cách bình thường, gọi là “chính hóa” thì nói chung sẽ không gây nên bệnh, vì cơ thể con người đã quen thích nghi. Nhưng khi các loại khí nói trên biến động một cách dị thường, gọi là “tà hóa”, vượt quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể con người và biến thành tác nhân  gây bệnh gọi là “tà khí”. Chức năng chủ yếu của Ngũ vận lục khí là tính toán, dự báo những biến động dị thường của thời tiết khí hậu, để có thể tiến hành dưỡng sinh, chuẩn bị trước các biện pháp phòng trị thích hợp.
Tuế vận và tuế khí: Ngũ vận và lục khí luôn biến đổi, luân chuyển hàng năm. Mỗi năm có một vận và một khí chủ sự, gọi là “tuế vận” và “tuế khí”. Năm Ất Mùi có “thiên can” là Ất và “địa chi” là Mùi. Theo nguyên tắc “Thiên can thống vận”: Ất là can âm, thuộc hành kim, nên năm Ất Mùi có tuế vận là “Kim vận bất cập”.  Theo nguyên tắc “Địa chi thống khí”: Nửa đầu năm Ất Mùi khí tư thiên chủ sự là thái âm thấp thổ, nửa năm cuối có khí tại tuyền chủ sự là thái dương hàn thủy.
Vận khí tương lâm: Khí hậu hàng năm biến đổi một cách bình hòa hay đột ngột tùy thuộc vào quan hệ sinh khắc theo ngũ hành giữa vận và khí: vận sinh khí gọi là tiểu nghịch; vận khắc khí gọi là bất hòa; khí sinh vận gọi là thuận hóa; khí khắc vận gọi là thiên hình. Năm Ất Mùi có tuế vận là kim vận. Khí tư thiên là thái âm thấp thổ. Thổ sinh kim - khí sinh vận, do đó Ất Mùi là năm thuận hóa: khí hậu tương đối thuận hòa và tần suất phát sinh tật bệnh cũng tương đối thấp.
Tình hình bệnh tật: Xét theo ngũ vận, năm “kim vận bất cập” như sách Vận khí bí điển của Lãn Ông viết: “Kim vận bất cập, hỏa khí thừa thế vượng lên, hỏa nhiệt lan tràn”. Hỏa nhiệt thông ứng với tạng tâm nên tạng tâm dễ bị mắc bệnh; mặt khác, hỏa khắc kim phế thuộc hành kim, nên tạng phế (chức năng hô hấp) cũng dễ bị mắc bệnh.
Xét theo lục khí, nửa năm đầu thái âm thấp thổ tư thiên, khí hậu ẩm thấp. Thấp khí thông ứng với tạng tỳ nên thấp tà dễ gây tổn thương cho tạng tỳ (chức năng tiêu hóa); mặt khác, thổ khắc thủy, tạng thận thuộc hành thủy nên tạng thận cũng dễ thụ bệnh. Nửa năm cuối thái dương hàn thủy tại tuyền, khí hậu giá lạnh. Hàn thủy thông ứng với tạng thận nên tạng thận dễ bị tổn thương; mặt khác, thủy khắc hỏa, tâm thuộc hành hỏa nên tạng tâm cũng dễ thụ bệnh.
Năm Ất Mùi cần chú ý phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; mặt khác, cần chú ý dự phòng bệnh tật phát sinh ở các tạng tâm, tỳ, phế và thận.
Biện pháp dự phòng
Phòng ngừa hỏa tà: Hỏa tà là một loại dương tà, dễ gây tổn thương cho âm dịch. Người thể chất “âm hư” hữu nhiệt thường dễ bị hỏa tà khí xâm phạm và phát sinh loại bệnh ôn nhiệt. Biểu hiện chủ yếu bởi các chứng trạng: phát sốt, gai rét hoặc không sợ rét, đau đầu, vã mồ hôi, môi lưỡi khô háo, miệng khát uống nhiều, tâm phiền, ngực sườn đầy tức, tiểu tiện đỏ, đại tiện bí, đầu choáng mắt hoa, ban chẩn, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, niệu huyết...
Để dự phòng, nói chung nên ăn uống thanh đạm, không uống rượu, không lạm dụng thức ăn cay nóng kích thích. Riêng  đối với người âm hư đa hỏa, có thể dùng một số vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, tư âm lương huyết như sinh địa hoàng, huyền sâm, mạch đông, liên tâm, trúc diệp, khổ sâm, hoàng liên, chi tử, đan sâm, thủy ngưu giác (sừng trâu), kim ngân hoa, xa tiền tử, hoàng bá, đại hoàng, đan bì, bạch mao căn...
Phòng ngừa hàn tà: Hàn tà thuộc loại “âm tà” dễ làm tổn thương “dương khí” nên những người có cơ địa “dương hư” cần đặc biệt chú ý phòng các bệnh như cảm lạnh, bụng đau nôn mửa do trúng hàn, tiêu chảy do hàn tà xâm phạm vào tràng vị, tinh thần trầm uất do dương khí bị hàn tà lấn át... Hàn tà còn có tính “ngưng kết”, dễ làm cho sự vận hành của khí huyết bị ngưng trệ, dẫn tới các chứng đau nhức như đau đầu, cơ bắp và xương khớp đau nhức kịch liệt (hàn tý), tứ chi co rút...
Để dự phòng, cần tăng cường vận động thân thể; đồng thời nên sử dụng thêm các loại thuốc, thức ăn có tác dụng trợ dương tán hàn như can khương (gừng khô), nhục quế, đinh hương, cao lương khương (củ riềng), lá lốt, hồ tiêu, thịt bò, thịt dê, thịt chó...
Người tố chất tâm thận dương hư, dễ cảm mạo phong hàn với những chứng trạng như phát sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, chân tay lạnh, phiền táo, tiêu chảy, tức ngực, thở gấp, tâm loạn nhịp đập dồn từng hồi (tâm quý), môi lưỡi tím tái... Để dự phòng, có thể dùng sinh khương, thông bạch và đại táo, sắc nước uống thay trà trong ngày.
Phòng ngừa thấp tà: Thấp là loại tà khí có tính chất trọng trọc (nặng đục), dễ dẫn tới các chứng bệnh như đầu nặng đau như bị bó chặt, mình mẩy nặng nề  đau nhức (thấp tý), bụng đầy trướng, ăn không tiêu, kiết lỵ, đại tiện không thành khuôn, tiểu tiện đục, phù thũng, khí hư bạch đới...
Để dự phòng, cần sử dụng thêm những vị thuốc có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Ví dụ như, có thể dùng: bán hạ chế (tẩm gừng sao) 3g, trần bì (vỏ quýt để lâu ngày) 10g, thổ phục linh 10g, cam thảo 5g; sắc nước uống thay trà trong ngày.
Ất Mùi là một năm “thuận hóa”. Thời xưa là một năm khí hậu biến đổi tương đối bình hòa, ít phát sinh các bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng, tầng ôzôn bị thủng, trái đất đang bị nóng lên như hiện nay, trong dưỡng sinh và phòng trị bệnh tật cần tăng cường phòng ngừa hỏa tà, thấp tà và hàn tà; trong đó cần chú ý nhất là hỏa tà.  
Lương y Thái Hư

Phép luyện “thần” giúp sống thọ

học cổ truyền cho rằng “thần” là biểu hiện ra ngoài của hoạt động sống mà ta có thể cảm nhận được. Nó là tổng hòa của cảm giác, tư duy, hành vi của con người. Riêng tư duy còn có tên là thần minh và nó tương tự như hoạt động tâm thần.
Tinh của tạng phủ vượng, khí đưa vào cơ thể đủ thì thần vượng. Nếu thần thái suy tức là có sự hao tinh, tổn khí và cơ thể sẽ suy yếu. Bảo vệ được cái “thần” sẽ giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái hài hòa và sống thọ. Sau đây là liệu pháp chúng ta nên luyện tập giúp bảo vệ “thần”:
Lạc quan
Lạc là vui vẻ, quan là nhìn. Lạc quan là cách nhìn, thái độ tin tưởng ở triển vọng phát triển tốt đẹp của sự việc, của tương lai.
Y học cổ truyền cho rằng, mỗi sự vật đều có hai mặt âm dương đối lập thống nhất với nhau, dựa vào nhau để phát triển, cái nọ sinh ra cái kia và luôn giữ ở thế cân bằng động. Mặt dương đại diện cho mặt tích cực vươn lên, mặt âm đại diện cho mặt tiêu cực đi xuống, tạo cho sự vật phát triển theo quỹ đạo của nó. Hãy biết vui với cái mình đang có, hòa mình vào hiện tại, hy vọng sẽ có những việc tốt đẹp hơn để làm việc có ích cho bản thân, cho đời. Biết tự giải thoát khỏi những vấn vương để lòng thanh thản, muốn vậy, cần biết phân tích mặt xấu, mặt tốt của sự việc một cách khách quan để có cách giải quyết hiệu quả.
Nên biết rằng trong cái xấu (âm) vẫn có cái tốt (dương), trong cái vui (dương) vẫn tiềm ẩn cái đáng ghét (âm). Người có được cách nhìn đó thường có thái độ lạc quan, yêu đời.
Lấy thiện hay ác trong suy nghĩ và hành động. Thích ứng tốt với cuộc sống khi nhận thức được rằng các sự việc tốt xấu đan xen lẫn lộn, phức tạp luôn diễn ra quanh ta, từ đó tìm ra hướng phát triển, tự hình thành cho mình một thế ổn định trong cuộc sống luôn luôn biến động để tiến lên. Những kết quả đạt được bước đầu sẽ là động lực cho việc nối tiếp và làm cho mình lạc quan hơn.
Phép luyện “thần” giúp sống thọ
Sống lạc quan, vui vẻ giúp người già luôn khỏe mạnh.
Có ý chí kiên cường
Y học cổ truyền cho rằng: “Người có ý chí thì có thể chế ngự được thần, thu được hồn phách, thích ứng được hàn ôn, điều hòa được vui vẻ, giận hờn”. Có thể hiểu, có ý chí kiên cường thì có thể điều khiển được hoạt động tinh thần, điều hòa được tình chí, không cho tà khí vào cơ thể và phòng được bệnh.
Biện pháp để rèn luyện ý chí chủ yếu là được rèn luyện trong những điều kiện sống đan chen cụ thể khác nhau và tìm được cách vươn lên trong những điều kiện đó.
Tình chí phải hòa hợp
Y học cổ truyền ghi nhận 7 loại tình chí: vui vẻ, giận hờn, buồn rầu, bi ai, lo lắng, sợ hãi, suy nghĩ. Nếu 7 tình chí này mà hòa hợp thì tâm, can, tỳ, phế, thận được yên. Để tình chí hòa hợp phải luôn vui vẻ vì vui vẻ làm cho tâm hoạt động tốt, “thần” được yên. Song không nên vui quá mức hóa điên, hóa thần. “Tiếng cười làm trẻ mười năm, âu sầu làm bạc đầu sớm”. Phải nén cái giận không để bùng ra, vì giận quá làm can khí mất điều hòa. Biện pháp khống chế cái giận là từ từ uống 1 - 3 ngụm nước, thở dài ra vài cái (thời gian này làm cho yếu tố bùng ra mất đi); nhân nhượng khi tranh luận căng thẳng làm cho không khí dịu lại, mỗi người đều tĩnh tâm mới giải quyết được công việc; tạm thời quên việc đó bằng cách làm việc khác vui hơn.
Cũng cần giảm tối đa sự lo lắng bởi lo lắng là trạng thái rất không yên lòng và phải để hết tâm trí vào công việc. Y học cổ truyền cho “lo lắng làm tâm khí hỗn loạn”. Cái gốc của lo lắng là sự chờ đợi một việc sắp đến mà chưa biết kết quả tốt hay xấu. Để giảm lo lắng, nên tìm hiểu rõ vấn đề để có cơ sở tin tưởng trong chờ đợi. Trong khi chờ đợi, hãy tạo ra một trạng thái vui vẻ. Tuệ Tĩnh viết: “Vì lo mà sinh bệnh thì lấy mừng mà chữa”.
Tránh những việc khiến khiếp sợ. Khiếp sợ là trạng thái sợ hãi đến mức mất thần (ngất xỉu), y học cổ truyền cho là nó làm “khí hạ”. Vì thế không cho biết những tin đột ngột (nghe tin xấu, nhìn cảnh sợ chết khiếp); biết mình sợ cái gì thì tập tiếp xúc dần cho quen. Tuệ Tĩnh viết: “Sợ quá sinh bệnh thì lấy suy nghĩ mà chữa”.
Không tự đưa mình vào cảnh buồn, bi ai. Y học cổ truyền cho rằng, “buồn, bi làm khí tắc không hành được, làm khí tiêu”. Người mà “buồn cứ tích lại thì thần hồn cũng bị tổn thương” và “ở người 60 tuổi, tâm khí bắt suy, dễ cảm thấy buồn bi”. Do vậy, nên vui với cái mình đang có, hy vọng sẽ có cái khác mình đang thiếu, theo ý “lấy cái vui vẻ của tâm hỏa để chế ngự cái buồn bi của phế kèm” tức là dùng  hỏa để chế khắc kim.

BS. Nguyễn Phương Hoa