Hiển thị các bài đăng có nhãn KHÍ CÔNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn KHÍ CÔNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2020

Tập thở phục hồi, cải thiện thông khí trong các bệnh phổi

Tập thở phục hồi, cải thiện thông khí trong các bệnh phổi

Tập thở trị liệu giúp người bệnh tống thải được các chất tiết dịch ra ngoài để sự thông khí được diễn ra dễ dàng, kiểm soát được nhịp thở và tạo thư giãn trong cơn khó thở.

Thông khí là 1 trong 4 giai đoạn của quá trìnhhô hấpbao gồm: thông khí, khuếch tán, vận chuyển oxy và hô hấp tế bào. Thông khí được định nghĩa là sự trao đổi luồng khí giữaphổivà môi trường bên ngoài để làm mới nguồn cung oxy cho cơ thể. Rối loạn thông khí chính là những rối loạn dẫn tới giảm sự trao đổi đó.

Các triệu chứng của bệnh

Rối loạn thông khí được chia làm 3 loại: rối loạn thông khí hạn chế, rối loạn thông khí tắc nghẽn, rối loạn thông khí hỗn hợp.

Rối loạn thông khí tắc nghẽn thường gặp ở bệnh nhân hen phế quản, bệnh phổitắc nghẽnmạn tính, giãn phế quản, xơ hóa kén, viêm tiểu phế quản tận.

Rối loạn thông khí hạn chế do tổn thương nhu mô phổi, xơ phổi vô căn, bệnh phổi kẽ do thuốc và tia xạ, bệnh bụi phổi.

Cách đánh giá rối loạn thông khí bằng hô hấp ký được chỉ định trên lâm sàng nhằm đánh giá các thể và các mức độ rối loạn thông khí phổi. Đo hô hấp ký thu được các trị số thể tích và lưu lượng của phổi thường không giúp xác định bệnh căn mà góp phần đánh giá hiệu lực bộ máy thông khí qua xác định 2 hội chứng chính là hạn chế và tắc nghẽn.

VC (dung tích sống): thể tích khí hít vào hết sức và thở ra hết sức. VC tăng nhờ luyện tập, giảm nhiều ở một số bệnh phổi hoặc bệnh của lồng ngực như: tràn dịch màng phổi, u phổi, gù vẹo cột sống... Trong thăm dò chức năng thông khí phổi, VC giảm 20% so với chỉ số lý thuyết trở nên được coi là giảm VC bệnh lý.

Hội chứng rối loạn thông khí tắc nghẽn: là hội chứng rối loạn thông khí tắc nghẽn khi và chỉ khi tắc nghẽn cả 3 phế quản nhỏ, vừa và lớn.

- Nguyên nhân: thường gặp khi có trở ngại đường dẫn khi do cơ trơn PQ hoặc do nguyên nhân khác (có vật cản trong lòng ống thở, rối loạn tính đàn hồi của phổi...). Các bệnh thường gặp là hen phế quản, viêm phế quản, u phế quản, tăng tiết đường dẫn khí...

Hội chứng rối loạn thông khí hạn chế:

- Nguyên nhân: gặp trong giảm sức chứa của phổi như tràn dịch, tràn khí màng phổi, u phổi, lao phổi (xơ hang), gù vẹo cột sống, suy tim ứ máu phổi...

Hội chứng rối loạn thông khí hỗn hợp: bệnh nhân có cả hội chứng rối loạn thông khí hạn chế và hội chứng rối loạn thông khí tắc nghẽn.

Tập thở phục hồi, cải thiện thông khí trong các bệnh phổi

Các bài tập thở

Tập thở tùy mục đích tập luyện để tăng cường sức khỏe hoặc phục hồi, cải thiện các bệnh lý hô hấp. Tập thở trị liệu thường được chỉ định ở bệnh lý phổi với rối loạn hạn chế, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và thể hỗn hợp, mục đích để phục hồi cải thiện chức năng hô hấp. Tập thở trị liệu ngày càng được sử dụng rộng rãi với mục đích làm gia tăng dung tích hô hấp nhưng không bị gia tăng sự tiêu thụ oxy, nghĩa là không gây mệt đối với người bệnh.

Về các bệnh hô hấp mạn tính (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính- COPD, giãn phế quản, hen phế quản, khí phế thũng phổi...) Tập thở trị liệu có vai trò vô cùng quan trọng. Do tác động trên các yếu tố sinh lý và cơ học của chức năng hô hấp, tập thở trị liệu giúp người bệnh tống thải được các chất tiết dịch ra ngoài để sự thông khí được diễn ra dễ dàng, kiểm soát được nhịp thở và tạo thư giãn trong cơn khó thở, gia tăng sự trao đổi khí bằng cách tập thở có hiệu quả và tập cho lồng ngực giãn nở tối đa. Đồng thời, nó giúp duy trì tầm vận động bình thường của cột sống và khớp vai, tránh được những biến dạng do tư thế xấu, giúp làm tăng tiến mức độ hoạt động của người bệnh. Muốn đạt được kết quả trên, người bệnh cần tập thở đúng cách và vận động cơ hoành để có hiệu quả nhất, đồng thời tập luyện cho các cơ hô hấp phụ ít hiệu năng được thư giãn.

Y học cổ truyền có phương pháp tập thở trị liệu giúp người bệnh phục hồi sức thở trong các bệnh phổi có rối loạn thông khí, với các tác dụng như trên. Một số động tác thường được sử dụng là thở bốn thời có kê mông và giơ chân; ngồi hoa sen, co tay rút ra phía sau, xem xa xem gần….

Động tác thở 4 thời có kê mông và giơ chân: Thở 4 thời có kê mông và giơ chân là để luyện tổng hợp về thần kinh, khí và huyết, trọng tâm là luyện thần kinh, chủ động về ức chế và hưng phấn nhằm mục đích thở tốt, đồng thời cũng làm cho khí huyết lưu thông.Thở 4 thời là kỹ thuật cơ bản của yoga khí công, là bí quyết của thành công trong luyện thở. Thực hành: nằm ngửa, kê gối ở mông, nằm nơi yên tĩnh.

Thời 1: hít vào, đều, sâu, tối đa, ngực nở, bụng phình và cứng. Thời gian ¼ hơi thở “hít ngực bụng nở” 4 giây hoặc 6 giây, “hít vào, ngực nở, bụng căng”.

Thời 2: giữ hơi, cơ hoành và các cơ lồng ngực đều co thắt tối đa, thanh quản mở, giơ chân. Thời gian ¼ hơi thở, rồi để chân xuống “giữ hơi hít thêm”. 4 giây hoặc 6 giây, “giữ hơi cố gắng hít thêm”.

Thời 3: thở ra thoải mái tự nhiên, không kìm, không thúc; thời gian ¼ hơi thở “Thở không kìm thúc” 4 giây hoặc 6 giây; “thở ra, không kìm, không thúc”.

Thời 4: thư giãn hoàn toàn, có cảm giác nặng và ấm. Tự kỷ ám thị: tay chân tôi nặng và ấm, toàn thân tôi nặng và ấm. Thời gian ¼ hơi thở “nghỉ thời nặng ấm” 4 giây hoặc 6 giây; “nghỉ thời; nặng, ấm tay chân”.

Phân tích tác dụng của các thời:

Thời 1: hít vào, đều, sâu, tối đa để chủ động về lưu lượng thở cho đều và bảo đảm hơi vào sâu tối đa đến tận cùng các phế nang ở các vùng đáy phổi ngực nở tối đa, bụng phình tối đa song phải bảo đảm cứng, nghĩa là các cơ bụng, cơ hông cơ đáy chậu phản ứng trở lại cơ hoành để kìm tạng phủ không sa. Áp suất dương ở bụng và âm ở khoang màng phổi, máu chạy về tim dễ dàng.

Thời 2: giữ hơi là thời khó nhất và phức tạp nhất vì nó tăng hiệu suất của hơi thở, hoàn chỉnh việc trao đổi O2 và CO2 tăng cường sức chủ động của cơ thể. Thanh quản phải mở: muốn làm được điều đó sau thời 1 ta có hít thêm tối đa, các cơ thở đã co thắt thì tiếp tục co thắt thêm nữa. Thanh quản đã sẵn mở tiếp tục giữ cho mở, trái cổ bị kéo xuống, các hõm ở cổ cũng vẫn hõm như trước. Mặt không đổi sắc, không đỏ, hõm cổ không phình ra, áp suất không tăng trong phổi, không chóng mặt, không nhức đầu, không tức ngực, khác hẳn với trường hợp nhốt hơi, nín hơi.

Thời này có giơ chân lên độ 20cm (cao bằng bàn chân) và dao động bàn chân để tăng cường co thắt cơ bụng, cơ hông và cơ đáy chậu, làm cho bụng cứng hơn, cơ hoành sẽ co thắt thêm, hít thêm 1 chút hơi nữa để bụng căng cứng. Hết thời gian 1/4 hơi thở thì để chân xuống để bắt đầu thời 3.

Trong thời gian này còn 1 cái khó nữa là tập ức chế phân biệt hay thư giãn phân biệt: trong thời 1 và 2 các cơ thở co thắt tới mức tối đa, thường xảy ra hiện tượng hưng phấn lan tỏa ra các cơ khác như cơ tay, cơ chân, cơ hàm dưới, cơ miệng. Cần tập ức tập trung điều khiển cơ thở (hít vô tối đa) mà thôi, không cho lan tỏa ra các cơ khác. Cơ nào cần thở thì sẽ hưng phấn, cơ nào không cần thở thì sẽ ức chế, như vậy không phí sức.

Thời 3: thở ra, không kìm, không thúc: tất cả các cơ hoàn toàn buông xuôi. Thở ra là nhờ sức nặng và tính giãn của lồng ngực và bụng làm cho xẹp xuống, nên chỉ thở ra đến mức gần tối đa (không ép bụng và ép ngực để thở ra được nhiều hơn).

Thời 4: nghỉ, thư giãn hoàn toàn để cơ thể có cảm giác nặng và ấm. Ta tự kỷ ám thị thêm “tay chân tôi nặng và ấm, toàn thân tôi nặng và ấm”.

Tư thế kê mông: Kê mông phải ban đầu thấp sau cao dần thì cơ hoành mới đẩy tạng phủ xuống, hơi mới vô trong phổi được. Kê mông giúp cơ hoành càng ngày càng khỏe lên. Cơ hoành mạnh lên sức thở của ta sẽ tăng lên, ta làm chủ được hơi thở, làm chủ được cơ thể. Tập ngày 2 lần, sáng 10 - 20 hơi thở, chiều tối tập 10 - 20 hơi thở. Kiên trì tập hàng tháng, hàng năm. Giúp tăng sức thở cân bằng âm dương.

Tập thở phục hồi, cải thiện thông khí trong các bệnh phổi

Động tác ngồi hoa sen: Xếp bằng kéo 2 bàn chân bắt chéo ở phía trên. Kiểu này khó nhưng tác dụng hiệu quả, lúc đầu đau, tê chân; song tập quen thì khí huyết hoạt động tốt trong bất cứ tư thế nào.

Hai bàn tay để lên 2 đầu gối, lưng thật thẳng rồi bắt đầu thở: hít vô, thắt lưng ưỡn càng tốt; giữ hơi, dao động qua lại, càng hít vô thêm 2-6 cái; thở ra bằng cách vặn chéo thân mình ngó ra phía sau bên này, đuổi hết khí trọc trong phổi ra. Rồi về tư thế ban đầu, bắt đầu một hơi thở thứ nhì: hít vô, giữ hơi và dao động 2-6 cái; thở ra bằng cách vặn chéo người ngó ra sau bên kia. Làm như vậy 2-4 hơi thở. tập cột sống thẳng, có lợi cho hô hấp. Ở tư thế này dễ luyện tập trung tinh thần.

Tay co lại rút ra phía sau: ngồi hoa sen. Tay co lại, rút ra phía sau, đầu bật ngửa và ưỡn cổ. Hít vô tối đa, giữ hơi và dao động qua lại từ 2-6 cái; thở ra triệt để. Làm động tác như vậy từ 3 - 5 hơi thở.

Động tác xem xa xem gần: ngồi hoa sen. Ngón tay của 2 bàn tay đan chéo nhau và đưa lật ra trên trời, đầu bật ra sau, mắt nhìn lên bàn tay ở 1 điểm cố định của 1 ngón tay để thấy rõ từng nét.

Hít vô tối đa, giữ hơi và dao động tay, đầu thân qua lại từ 2-6 cái, mắt vẫn nhìn theo điểm cố định, thở ra triệt để, đồng thời đưa tay lại gần mặt độ 5cm mà vẫn cố nhìn rõ điểm cố định. Làm 3 - 5 hơi thở...

Đưa tay sau gáy: ngồi hoa sen. Hai tay chéo nhau, đưa tay sau gáy và hết sức kéo ra sau, đầu bật ra sau. Hít vô tối đa, giữ hơi và dao động từ trước ra sau từ 2 - 6 cái; thở ra triệt để. Làm như thế từ 3 -5 hơi thở.

Các động tác trên là luyện dương tăng cường thông khí giúp cải thiện, phục hồi chức năng hô hấp. 5 động tác trên tập ngày 2 lần: sáng 30 phút, chiều tối 30 phút. Không cần tập nhiều chỉ cần tập đều là đạt hiệu quả.

Các động tác tập thở của y học cổ truyền cải thiện hô hấp rất tốt. Tuy nhiên, người bệnh cần được thăm khám, chẩn đoán phù hợp bằng lâm sàng và cận lâm sàng chủ yếu đánh giá bằng hô hấp ký, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện động tác để đảm bảo tập đủ và đúng thì mới có hiệu quả. Phương pháp này cần có sự kiên trì với thời gian tập luyện lâu dài giúp tăng cường trao đổi khí, bớt mệt mỏi, ngủ ngon, bớt căng thẳng hơn và tăng sức thở; từng bước hạn chế suy giảm hô hấp, góp phần cải thiện và phục hồi chức năng hô hấp do bệnh lý phổi gây ra.

Các động tác tập thở của y học cổ truyền cải thiện hô hấp rất tốt. Tuy nhiên người bệnh cần được thăm khám, chẩn đoán phù hợp bằng lâm sàng và cận lâm sàng chủ yếu đánh giá bằng hô hấp ký, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện động tác để đảm bảo tập đủ và đúng thì mới có hiệu quả.Phương pháp này cần có sự kiên trì với thời gian tập luyện lâu dài giúp tăng cường trao đổi khí, bớt mệt mỏi, ngủ ngon, bớt căng thẳng hơn và tăng sức thở từng bước hạn chế suy giảm hô hấp góp phần cải thiện và phục hồi chức năng hô hấp do bệnh lý phổi gây ra.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ


Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

Bài thuốc trị chóng mặt

Chóng mặt Đông y gọi là chứng huyễn vựng, biểu hiện là mắt hoa, đầu váng. Người nhẹ triệu chứng đó đến một lát rồi qua ngay, người bị nặng mọi vật trước mặt quay cuồng có khi đứng không vững, còn kèm theo nôn ọe, vã mồ hôi, chân tay bủn rủn, sắc mặt trắng bệch... Chóng mặt là một bệnh thường gặp và rất dễ sinh ra với người béo phì, người thể chất kém và tuổi già.
Nguyên nhân là do ngoại cảm tà khí xâm nhập vào các thanh khiếu vùng đầu mặt làm bế tắc vận hành kinh mạch gây huyễn vựng. Do đàm thấp, do can thận âm hư, do tâm huyết và tỳ khí suy yếu lâu ngày, do mệnh môn hỏa suy... các kinh dương không được nuôi dưỡng sinh ra huyễn vựng.
Bài thuốc trị chóng mặt
Bán hạ.
Tùy theo từng nguyên nhân mà dùng bài thuốc phù hợp sau đây:
Chóng mặt do đàm thấp:
Biểu hiện: đầu choáng, mắt hoa, lồng ngực đầy tức, nôn ọe không muốn ăn, người ậm ạch, béo phì, mệt mỏi, ngủ nhiều, rêu lưỡi trắng nhợt. Mạch hoạt.

Phương pháp điều trị: Bổ tỳ tiêu đàm thấp.
Chóng mặt do can thận âm hư:
Biểu hiện: đau đầu, choáng váng, hoa mắt, căng cắn buốt hai thái dương, lưng đau, ù tai, phiền khát, ít ngủ, ra mồ hôi trộm, miệng đắng. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch tế sác.
Phương pháp điều trị: Bình can tiềm dương .
Chóng mặt do tâm huyết và tỳ khí hư:
Biểu hiện: hoa mắt, chóng mặt, choáng váng, chân tay bủn rủn, sắc mặt trắng bệnh, môi nhợt, ăn kém, ngại nói, thở ngắn, tim hồi hộp, tiểu tiện sẻn, đại tiện lỏng, nặng thì choáng ngất. Rêu lưỡi trắng, chất lưỡi bệu.
Phương pháp điều trị: bổ khí huyết, an thần.
Chóng mặt do mệnh môn hỏa suy:
Biểu hiện: đầu choáng, hoa mắt, đau đầu từng cơn, chân tay lạnh, đầu nóng, mặt nóng bừng bừng, ăn uống kém, sôi bụng. Nặng thì choáng váng có thể ngã ngất kèm theo ngũ canh tiết tả, chất lưỡi bệu. Mạch trầm tế vô lực.
Phương pháp điều trị: Bổ thận dương dẫn hỏa quy nguyên.


Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Chứng can huyết hư trong Đông y

Chứng can huyết hư trước hết là do mất huyết quá nhiều, hoặc nguồn sinh hóa ra huyết kém, hoặc do ốm đau lâu ngày can huyết bị hao thương, khi can huyết bất túc, cân mạch mất đi sự nuôi dưỡng, dẫn đến cân mạch co rút, mắt kém, móng tay, móng chân giòn dễ gãy, chất lưỡi nhợt, mạch huyền tế... Chứng can huyết hư thường gặp trong các bệnh như: hư lao, bất mị (ngủ kém), huyễn vựng, tước manh, ma mộc, đối với phụ nữ thì thống kinh, kinh nguyệt không đều...
Triệu chứng lâm sàng
Chứng can huyết hư trong Đông y
Cây và quả mộc qua.
Đối với chứng can huyết hư sắc mặt thường xanh bợt, hoặc vàng bủng, cơ thể gầy còm, hai mắt khô, hay quáng gà, hoặc nhìn lờ mờ không thấy rõ, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại, cân mạch co rút, móng tay, móng chân không tươi nhuận. Đối với phụ nữ thì kinh nguyệt lượng ít, huyết nhạt, bế kinh, miệng môi, chất lưỡi trắng nhợt, mạch tế hoặc huyền tế...
Chứng can huyết hư thường gặp trong nhiều loại bệnh chứng, trên lâm sàng triệu chứng cũng không giống nhau.
Chứng can huyết hư là nói đến sự bất túc vì can chứa huyết, chủ về xơ tiết, can lấy huyết làm gốc, thể âm mà dụng dương, nếu huyết đầy đủ thì can có chỗ chứa, chức năng xơ tiết của can mới được bình thường, nếu can huyết bất túc, can mất đi sự nuôi dưỡng, sự xơ tiết của can kém đi từ đó xuất hiện các chứng như: ngực sườn trướng đầy hay xuất hiện ấm ức, không vui, có khi rầu rĩ, tự nhiên muốn khóc, đó là do can khí uất kết. Do huyết hư dương không đứng vững, hư nhiệt từ trong sinh ra, dẫn đến can dương thượng cang, tính tình nóng nảy, hay giận dữ, thường xuyên mất ngủ, khi ngủ hay mê, hoa mắt chóng mặt, đầu trướng đau.
Mặt khác can tàng huyết, thận chứa tinh, tinh và huyết sinh ra cùng một nguồn. Do chứng can huyết hư lâu ngày thường dẫn đến thận tinh hư suy xuất hiện các chứng như: lưng gối mềm yếu, chóng mặt ù tai, rụng tóc, răng lồi lên. Nam giới thì sinh dục kém, nữ giới thì không thụ thai, đó là chứng can thận hư tổn.
Khi can huyết hư, khí cơ không thông sướng, huyết đi sáp trệ dẫn đến khí trệ huyết ứ mà xuất hiện các triệu chứng như: mạng sườn đau nhói cố định, da nổi vảy, ria lưỡi ứ huyết, làm cho bệnh kéo dài khó điều trị.
Phương pháp điều trị
Chứng can huyết hư trong bệnh kinh nguyệt không đều của phụ nữ
Nguyên nhân: Do can huyết bất túc, huyết hải trống không, huyết không đầy đủ để ra đúng kỳ kinh.
Triệu chứng lâm sàng: Kỳ kinh ra muộn, lượng kinh ít, chất loãng, có trường hợp bế kinh.
Phương pháp điều trị: Bổ can, dưỡng huyết, điều kinh.
Do can huyết hư sinh ra chứng thống kinh
Nguyên nhân bệnh: Do can huyết bất túc làm tổn thương thận tinh, hai mạch xung nhâm đều hư, bào mạch mất đi sự nuôi dưỡng mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Trong khi hành kinh hoặc sau kỳ kinh bụng dưới đau âm ỉ, thích xoa bóp, chóng mặt, ù tai, lưng gối đau mỏi, mạch trầm huyền mà tế.
Phương pháp điều trị: Điều bổ can thận.
Do can huyết hư sinh ra chứng hư lao
Nguyên nhân bệnh: Do can huyết bất túc, cân mạch không được nuôi dưỡng mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Thể trạng gầy còm, sắc mặt không tươi tỉnh, tay chân mình mẩy tê dại, gân mạch co rút, móng tay, móng chân khô giòn, biến dạng.
Phương pháp điều trị: Bổ huyết dưỡng can.
Do can huyết hư mà sinh ra chứng tước manh (quáng gà)
Sách Bút hoa y kinh viết: Can bị hư là do thận thủy không hàm được mộc dẫn đến thiếu huyết, mạch ở tả quan tất phải mạch nhược, hoặc đại mà rỗng không, xuất hiện chứng hiếp thống, chóng mặt, mắt khô, đau vùng xương quầng mắt.
Nguyên nhân bệnh: Do can huyết bất túc, thanh khiếu không được nuôi dưỡng mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Khi nhìn vào mắt thường tối sầm lại, chập tối bị quáng gà, hai tròng mắt bị khô sáp mà đau lan toả đến xương quầng mắt.
Phương pháp điều trị: Tư can dưỡng huyết.
Do can huyết hư sinh ra chứng bất mỵ
Nguyên nhân bệnh: Do can huyết bất túc, thần thức không được nuôi dưỡng, hồn không có chỗ ẩn náu mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Mất ngủ, hay mê, dễ sợ hãi, chóng mặt, hoa mắt, mạch huyền tế.
Phương pháp điều trị: Dưỡng huyết, bổ can, an thần.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ II)

Tác dụng của cường tráng công chủ yếu xác định cách ngồi, cách nằm làm cho các cơ nhục, các khớp ở tay, chân, thân thể và tạo thành một tư thế nhất định, kết hợp với phép thở, tập trung ý thức nhằm nâng cao sinh khí trong cơ thể, từ đó mà có hiệu quả trong chữa một số tật bệnh và nâng cao sức khỏe cho cơ thể.
Tư thế
Cách ngồi:
- Ngồi xếp bằng đơn (hình 1):
Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ II)
Cách ngồi xếp bằng đơn.
Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ II)
Cách ngồi xếp bằng kép.
Ngồi lưng thẳng tạo thành một góc vuông với nền sàn, chân xếp bằng tròn, đùi bên trái gác lên đùi bên phải, hoặc đùi bên phải gác lên đùi bên trái, có thể tùy thói quen của từng người sao cho thuận lợi và thoải mái.
- Ngồi xếp bằng kép (hình 2):
Ngồi lưng thẳng tạo thành một góc vuông với nền sàn, chân bên trái đặt lên đùi bên phải, lại lấy chân bên phải đặt lên đùi bên trái, hai lòng bàn chân ngửa lên.
- Ngồi xếp bằng tự nhiên:
Hai đùi giao chéo nhau, xòe ra như chữ bát, tùy ý đặt đùi cho bằng, ngồi một cách tự nhiên thoải mái.
3 phương pháp trên, ngoài những điểm đã kể ra, đều cần phải có đủ những chỗ chung nhau như: mông ngồi ngay thẳng yên ổn, hơi đưa ra phía sau một chút, để cho đốt xương sống không co lại, ngực hơi cúi về phía trước, tạo thành tư thế xuôi vai xuống, khép ngực lại, hai tay nhè nhẹ nắm chắp lại đặt lên trước bụng dưới, lấy 4 ngón tay bên này nắm nhẹ 4 ngón tay bên kia, hai ngón tay cái giao chéo với nhau, hai tay nắm nhau, phải trái tùy ý; hoặc hai tay bỏ ra hai bên, nhè nhẹ đặt lên hai đùi, bàn tay úp xuống bằng phẳng một cách tự nhiên; đầu ngay thẳng, hơi cúi về phía trước một chút, tập để cho tai như không nghe gì, hai mắt hơi nhắm lại, để lộ ra một ít tia sáng, mắt nhìn xuống đầu sống mũi, miệng mím lại cho tự nhiên, chú ý vào đan điền, thở ra hít vào bằng mũi.
Cách nằm:
Cũng giống như cách nằm của phép Nội dưỡng công.
Phương pháp
Cách thở phổ thông:
Dùng mũi để thở ra hít vào cho tự nhiên không nên để ý về hơi thở làm cho hơi thở hòa hoãn, dần kéo dài hơi thở, cong đầu lưỡi thúc lên hàm trên, làm cho nước bọt trong miệng chảy ra càng nhiều càng tốt và có thể từ từ nuốt xuống. Phép này thường dùng cho những người mới bắt đầu luyện công, tuổi già sức yếu, bệnh tật nghiêm trọng.
Cách thở sâu:
Khi thở cần êm, nhỏ, sâu, dài, mục đích không nghe tiếng thở là được. Thời gian thở ra và hít hơi vào bằng nhau, không cần cách khoảng, khi mới luyện phải tự nhiên, kiên trì, từ từ tiến hành thở.
Cách này thích ứng cho những người tinh thần không tập trung mà sức khỏe đang còn dồi dào, bị tăng huyết áp, hoặc người hay bị đại tiện táo kết.
Cách thở ngực:
Khi hít hơi vào làm cho ngực nở lên, bụng dưới thu xẹp lại, khi thở ra làm cho dưới bụng phình lên, ngực thu xẹp lại. Thở ra hít vào phải đạt được 5 điểm yêu cầu: yên ổn, nhẹ, sâu, dài và lặng, để cho tự nhiên, tuyệt đối không nên miễn cưỡng, khoảng giữa khi thở ra hít vào không nên nín thở.
Phép này chỉ dùng cho người thân thể to mập nhanh nhẹn, cần luyện công để chữa bệnh hoặc nâng cao sức khỏe.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ I)

Nội dưỡng công và cường tráng công là một phương pháp khí côngkhá đơn giản, dễ tập luyện mà hiệu quả cao. Nội dưỡng công, cường tráng công thuộc thể loại tĩnh công, nghĩa là khi luyện công cơ thể hoàn toàn bất động. Tuy vậy tạng phủ kinh lạc lại vận động rất mạnh mẽ, cho nên tĩnh công trên thực tế là ngoại tĩnh nội động. Bài viết này xin giới thiệu phương pháp tập luyện nội dưỡng công và cường tráng công để bạn đọc tham khảo và áp dụng.
Nội dưỡng công
Tác dụng của nội dưỡng công chủ yếu xác định cách thư giãn toàn bộ các cơ nhục ở tay, chân, thân thể và tạo thành một tư thế nhất định, kết hợp với phép thở, nhẩm một câu chú để tập trung ý thức (ý thủ) nhằm nâng cao sinh khí trong cơ thể từ đó mà có hiệu quả trong chữa bệnh.
Tư thế
Cách nằm :
Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ I)
Trước khi nằm, cần chuẩn bị một cái giường bằng gỗ cứng trải đệm cho bằng phẳng, để cho tư thế chính xác, gối đầu cần đặt cho vừa, khi trời lạnh nên lấy vải hay chăn đắp chân, nằm nghiêng (nằm nghiêng bên nào cũng được), đầu hơi thấp về phía trước, gối đầu lên gối cho bằng phẳng, hai mắt nhắm lại, để hơi lộ ra một tia sáng nhỏ, mắt nhìn vào đầu sống mũi, tập trung ý thức vào đan điền (ở dưới rốn 1 thốn 5 phân), tập cho tai lãng quên như không nghe thấy gì, miệng ngậm lại tự nhiên, thở đều nhẹ nhàng bằng mũi, cánh tay phía trên duỗi ra một cách rất tự nhiên, úp bàn tay xuống đùi, tay phía dưới để lên cái gối, mở ra tự nhiên, để ngửa bàn tay lên, cách xa đầu khoảng 2 thốn, lưng hơi uốn ra phía trước, đùi bên dưới duỗi ra hơi cong cong một cách tự nhiên, đùi bên phải co lại 1200, chồng lên trên đùi bên dưới. Xếp đặt tư thế xong, thì bắt đầu tập trung ý thức vào đan điền, rồi tiến hành phép hô hấp (Hình vẽ 1).
Cách ngồi :
Trước khi ngồi chuẩn bị một chiếc ghế đẩu vuông, bằng phẳng rộng, sau khi ngồi xuống, đầu gối co lại 900, bàn chân không được bỏ thõng (nếu thấy không vừa thì dưới bàn chân có thể dùng miếng gỗ hay viên gạch kê), người ngồi ngay thẳng yên ổn trên ghế, cố định tư thế cho tốt, không nên đưa người về phía trước, phía sau và hai bên, đầu hơi cúi về phía trước, đặt mông ngồi bằng phẳng thân mình với hai đùi trên làm thành góc 90o, hai đùi mở ra, hai chân và hai vai rộng ngang nhau, người béo thì hai đùi cách nhau rộng hơn, đầu gối co lại 900, hai ống chân không nên co về phía sau hay phía trước, hai bàn chân để cho bằng nhau sát đất, hai tay đặt lên trên hai đùi, bàn tay úp xuống cho bằng phẳng tự nhiên, nửa người trên không ưỡn ra phía sau, xuôi vai xuống ép ngực lại. Khi ấy tập trung vào đan điền rồi bắt đầu thở còn tư thế của tai, mắt, miệng, mũi cũng như cách nằm.
Nằm ngửa :
Nội dưỡng công và cường tráng công trong đông y (Kỳ I)
Ngoài các vật liệu cần dùng cho cách nằm ra, lại phải dùng thêm một cái chăn bông hoặc cái đệm, kê cao đầu và ngửa người bên trên lên thành như hình cái bục dốc, đầu kê cao 25 phân, dưới vai kê cao 5 phân, dùng cách nằm ngửa, đầu phải được ngay thẳng, không nên để lệch sang hai bên, tập trung ý thức vào đan điền, rồi bắt đầu thở, hai đùi duỗi ra một cách tự nhiên và đều nhau, đầu chót hai bàn chân ngón chân ngược lên, hai cánh tay duỗi thẳng ra cho tự nhiên, đặt vào phía ngoài hai đùi; tư thế của mặt, tai, mắt, miệng, mũi cũng như cách nằm, hai mắt cũng để hé lộ một ít để thấy tia sáng, nhìn thẳng xuống đầu chót ngón chân.
Phương pháp
Cách thở:
Môi miệng hơi mím lại, thở ra hít vào bằng mũi, miệng nhẩm câu chú, khi hít hơi vào thì đầu lưỡi uốn lên thúc vào hàm trên, sau khi đã hít hơi vào, nửa chừng nên nín hơi lại một chút, đầu lưỡi nên uốn lên thúc vào hàm trên, sau khi đã hít hơi vào, nửa chừng nên nín lại một chút, đầu lưỡi không được máy động, vẫn cứ để dính ở hàm trên, khi thở hơi ra, thì đầu lưỡi buông xuống cho hơi thở ra. Cứ như thế mà làm đi làm lại cách thở. Thời gian nín thở lâu hay chóng có thể căn cứ vào tình trạng cụ thể của bệnh mà chỉ định cho phù hợp.
Nhẩm câu chú:
Khi thở người bệnh miệng phải nhẩm câu chú, bắt đầu nhẩm câu 3 chữ, sau căn cứ vào tình trạng của người bệnh, mà thêm dần lên hay không thêm, nhiều cũng không được quá 9 chữ, phương pháp cụ thể là khi nhẩm một chữ đầu thì hít hơi vào, khi nhẩm đến chữ giữa thì nín thở, số chữ ở khoảng giữa càng nhiều, thời gian nín thở càng lâu, nhẩm đến chữ cuối cùng thì thở hơi ra. Câu chữ dùng thường là: "Ta yên tĩnh", "Ta ngồi yên tĩnh". Đến câu chữ nhiều nhất như: "Ta ngồi yên tĩnh thân thể khỏe mạnh", hoặc "Ta ngồi yên tĩnh thân thể mới khỏe mạnh".
Cách thở áp dụng trong 3 chữ "Ta yên tĩnh" tiến hành như sau: Khi bắt đầu nhẩm chữ "ta" thì đầu lưỡi uốn lên, thúc sát vào hàm trên, khi nhẩm đến chữ "yên" thì nín thở, đầu lưỡi vấn cứ dính vào hàm trên không động, khi nhẩm đến chữ "tĩnh" thì buông đầu lưỡi xuống rồi thở ra.
Tập trung ý thức vào đan điền:
Tập trung ý thức vào đan điền là làm cho người bệnh tập trung tư tưởng để chuyên tâm luyện công. Bắt đầu khi mới luyện công, chú ý tập trung giữ cho tinh thần hướng vào đan điền, khi hít hơi vào cũng phải có ý thức đưa xuống đan điền, trải qua khoảng 20 ngày, người bệnh tự thấy khi mình hít hơi đã thấu suốt đến đan điền, rồi sau đó có thể đem phép "tập trung ý thức vào đan điền" đổi sang "tập trung ý thức vào ngón chân cái", lại trải qua một thời kỳ, nếu đã cảm thấy ngón chân có hiện tượng phát nóng, tư tưởng của người bệnh đã tập trung, tâm tình đã yên tĩnh, lòng nghĩ vơ vẩn đã hết thì cũng có thể bỏ phép tập trung ý thức đi, nếu chưa đạt được như thế thì phải tập lại từ đầu cho tới khi tập trung ý thức vào ngón chân, vào đan điền theo ý muốn.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317