Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

BỆNH CỦA 12 KINH CHÍNH TRONG CHÂM CỨU

bệnh của 12 kinh chính trong châm cứu

Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài của thân thể và tạng phủ bên trong. Vì vậy, mỗi kinh đều bao gồm một lộ trình bên ngoài và một lộ trình bên trong.
bệnh của 12 kinh chính trong châm cứu Mr Nam

Đại cương

Mười hai kinh chính là phần chính của học thuyết Kinh lạc, gồm:
Ba kinh âm ở tay
Kinh thủ thái âm Phế.
Kinh thủ thiếu âm Tâm.
Kinh thủ quyết âm Tâm bào.
Ba kinh dương ở tay
Kinh thủ dương minh Đại trường.
Kinh thủ thiếu dương Tam tiêu.
Kinh thủ thái dương Tiểu trường.
Ba kinh âm ở chân
Kinh túc thái âm Tỳ.
Kinh túc quyết âm Can.
Kinh túc thiếu âm Thận.
Ba kinh dương ở chân
Kinh túc thái dương Bàng quang.
Kinh túc thiếu dương Đởm.
Kinh túc dương minh Vị.
Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài của thân thể và tạng phủ bên trong. Vì vậy, mỗi kinh đều bao gồm một lộ trình bên ngoài và một lộ trình bên trong.
Mỗi kinh đều có sự liên lạc giữa tạng và phủ có quan hệ biểu (ngoài nông) – lý (trong sâu), cho nên mỗi đường kinh đều có những phân nhánh để nối liền với kinh có quan hệ biểu lý với nó (ví dụ nối giữa phế và đại trường, giữa can và đởm…
Chức năng sinh lý của đường kinh
Về chức năng, kinh mạch là nơi tuần hoàn của khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân để duy trì hoạt động bình thường của cơ thể, làm trơn khớp, nhuận gân xương (Linh khu – Bản tạng luận). “Kinh mạch giả, sở dĩ hành huyết khí nhi dinh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dã”.
Đồng thời, kinh mạch cũng là con đường mà tà khí bệnh tật theo đó xâm nhập vào trong cũng như là con đường mà bệnh tật dùng để biểu hiện ra ngoài khi công năng của tạng phủ tương ứng bị rối loạn.
Tác dụng của 12 kinh chính rất quan trọng. Thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu: “Tác dụng của kinh mạch một mặt nói lên chức năng sinh lý bình thường, sự thay đổi bệnh lý của cơ thể; mặt khác có thể dựa vào đó để quyết đoán sự sống chết, để chẩn đoán mọi bệnh, còn dùng nó để điều hòa hư thực, làm quy tắc chỉ đạo lâm sàng cho nên kinh mạch không thể không thông được”. “Kinh mạch giả, sở dĩ năng quyết tử sinh, xử bách bệnh, điều hư thực, bất khả bất thông”.
Đường tuần hoàn của 12 kinh chính
Một cách tổng quát, đường tuần hoàn khí huyết trong 12 kinh chính như sau
Ba kinh âm ở tay: đi từ bên trong ra bàn tay.
Ba kinh dương ở tay: đi từ bàn tay vào trong và lên đầu.
Ba kinh dương ở chân: đi từ đầu xuống bàn chân.
Ba kinh âm ở chân: đi từ bàn chân lên bụng ngực.
Chiều của các đường kinh được xác định dựa vào 2 lý thuyết
Lý thuyết âm thăng (đi lên trên) dương giáng (đi xuống).
Lý thuyết con người hòa hợp với vũ trụ: Thiên – Địa – Nhân.
Khí huyết vận hành trong kinh mạch, kinh sau tiếp kinh trước và tạo thành một đường tuần hoàn kín đi khắp cơ thể.
Khí huyết trong các đường kinh
Khí huyết trong các đường kinh không giống nhau
Kinh thái dương, kinh quyết âm: huyết nhiều, ít khí.
Kinh thiếu dương, kinh thiếu âm, kinh thái âm: huyết ít, khí nhiều.
Kinh dương minh: huyết nhiều, khí nhiều.
Khí huyết trong các đường kinh thay đổi trong ngày
Trương Cảnh Nhạc dẫn lời của Cao Võ (khi bàn luận về thủ thuật châm cứu) nói rằng: “Nghênh có nghĩa là gặp lúc khí lai (đến) (ví dụ: dần thời, khí lai chú vào phế; mão thời, khí lai chú vào đại trường). Bấy giờ là lúc mà khí của phế và đại trường vừa thịnh, phải dùng lúc đoạt để châm tả…”.
Sự thịnh suy của khí huyết trong từng đường kinh trong ngày:
Từ 3 giờ đến 5 giờ: giờ dần (giờ của Phế).
Từ 5 giờ đến 7 giờ: giờ mão (giờ của Đại trường).
Từ 7 giờ đến 9 giờ: giờ thìn (giờ của Vị).
Từ 9 giờ đến 11 giờ: giờ tỵ (giờ của Tỳ).
Từ 11 giờ đến 13 giờ: giờ ngọ (giờ của Tâm).
Từ 13 giờ đến 15 giờ: giờ mùi (giờ của Tiểu trường).
Từ 15 giờ đến 17 giờ: giờ thân (giờ của Bàng quang).
Từ 17 giờ đến 19 giờ: giờ dậu (giờ của Thận).
Từ 19 giờ đến 21 giờ: giờ tuất (giờ của Tâm bào).
Từ 21 giờ đến 23 giờ: giờ hợi (giờ của Tam tiêu).
Từ 23 giờ đến 1 giờ: giờ tý (giờ của Đởm).
Từ 1 giờ đến 3 giờ: giờ sửu (giờ của Can).
Mười hai kinh chính
Kinh thủ thái âm phế
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ trung tiêu (vị) vòng xuống đại trường, vòng lên dạ dày (môn vị, tâm vị), xuyên qua cách mô lên Phế. Từ Phế tiếp tục lên khí quản, thanh quản, họng, rẽ ngang xuống để xuất hiện ngoài mặt da tại giao điểm khe liên sườn 2 và rãnh delta – ngực, rồi đi ở mặt trước ngoài cánh tay, xuống khuỷu ở bờ ngoài tấm gân cơ nhị đầu, tiếp tục đi ở mặt trước cẳng tay đến rãnh động mạch quay (ở bờ trong trước đầu dưới xương quay). Tiếp tục xuống bờ ngoài ngón tay cái (ngư tế) và tận cùng ở góc ngoài móng tay cái.
Phân nhánh: từ huyệt Liệt khuyết tách ra một nhánh đi ở phía lưng bàn tay đến góc ngoài góc móng tay trỏ để nối với kinh đại trường.
Các huyệt trên đường kinh Phế:
Có tất cả 11 huyệt của đường kinh phế. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Trung phủ2. Vân môn.
Thiên phủ4. Hiệp bạch.
Xích trạch6. Khổng tối.
Liệt khuyết8. Kinh cừ.
Thái uyên 10. Ngư tế.
Thiếu thương.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 2, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho phế bị trướng mãn, ngực căng ứ lên thành suyễn, ho; giữa Khuyết bồn bị đau, nếu đau nặng thì 2 tay phải bắt chéo nhau mà cảm thấy phiền loạn, ta gọi đây là chứng tý quyết. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh của phế sẽ gây thành bệnh ho, thượng khí, suyễn, hơi thở thô, phiền tâm, ngực bị đầy thống quyết ở mép trước phía trong từ cánh tay đến cẳng tay, trong lòng bàn tay bị nhiệt. Khí thịnh hữu dư thì vai và lưng bị thống; bị phong hàn, mồ hôi ra; trúng phong, đi tiểu nhiều lần mà ít. Khí hư thì vai và lưng bị thống hàn, thiểu khí đến không đủ để thở; màu nước tiểu bị biến…”.
“Thị động tắc bệnh phế trướng mãn bành bành nhi suyễn khái. Khuyết bồn trung thống thậm tắc giao lưỡng thủ nhi mậu. Thử vi tý quyết. Thị chủ Phế sở sinh bệnh giả. Khái thương khí suyễn khát, phiền tâm hung mãn, nao tý nội tiền liêm thống quyết chưởng trung nhiệt. Khí thịnh hữu dư tắc kiên bối thống, phong hàn hạn xuất, trúng phong tiểu tiện sổ nhi khiếm, khí hư tắc kiên bối thống, hàn thiểu khí bất túc dĩ tức niệu sắc biến vi thử chư bệnh”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Ngực đầy trướng.
Ho và khó thở.
Đau nhiều ở hố thượng đòn.
Trong trường hợp nặng: bệnh nhân ôm lấy ngực (với 2 tay chéo nhau), người phiền loạn (tý quyết).
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Ho và khó thở.
Khí nghịch.
Khát nước, lo lắng.
Đau mặt trong cánh tay.
Cảm giác nóng trong lòng bàn tay.
Bệnh thực:
Đau vai lưng.
Phát sốt.
Sợ lạnh, ra mồ hôi (phong hàn).
Tiểu nhiều lần mà ít (trúng phong).
Đau đầu, nghẹt mũi, đau hố trên đòn, đau ngực hoặc bả vai, cánh tay lạnh nhức.
Bệnh hư:
Đau vai lưng, lạnh đau tăng.
Sợ lạnh.
Ho suyễn, đoản hơi.
Nước tiểu trong.
Kinh (thủ dương minh) đại trường
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng trỏ, chạy dọc theo bờ ngón trỏ, đi qua kẽ giữa 2 xương bàn tay 1 và 2 (Hợp cốc), chạy tiếp vào hố tam giác. Đi dọc bờ ngoài cẳng ngoài nếp khuỷu (Khúc trì). Đến phía trước mỏm vai (Kiên ngung) đi theo bờ sau vai giao hội với kinh (Thái dương) Tiểu trường ở huyệt Bỉnh phong và với Đốc mạch ở huyệt Đại chùy. Trở lại hố trên đòn, tiếp tục đi lên cổ, lên mặt vào chân răng hàm dưới rồi vòng môi trên. Hai kinh giao nhau ở nhân trung và kinh bên phải tận cùng ở cạnh cánh mũi bên trái, kinh bên trái tận cùng ở cạnh cánh mũi bên phải.
Từ hố thượng đòn, có nhánh ngầm đi vào trong liên lạc với Phế, qua cơ hoành đến Đại trường.
Các huyệt trên đường kinh Đại trường:
Có tất cả 20 huyệt trên đường kinh Đại trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Thương dương.
Nhị gian.
Tam gian.
Hợp cốc.
Dương khê.
Thiên lịch.
Ôn lưu.
Hạ liêm.
Thượng liêm.
Thủ tam lý.
Khúc trì.
Trửu liêu.
Thủ ngũ lý.
Tý nhu.
Kiên ngung.
Cự cốt.
Thiên đảnh.
Phù đột.
Hòa liêu.
Nghinh hương.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 3, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho đau răng, cổ sưng thũng. Vì là chủ tân dịch cho nên nếu bệnh thuộc Sở sinh sẽ làm cho mắt vàng, miệng khô, chảy máu mũi, cổ họng (hầu) bị tý, cánh tay trước vai bị đau nhức, ngón cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được. Khi nào khí hữu dư, thì những nơi mà mạch đi qua sẽ bị nhiệt và sưng thũng. Khi nào khí hư sẽ làm cho bị hàn run lên, không ấm trở lại được.
“Thị độngtắc bệnh xỉ thống, cảnh thũng. Thị chủ tân dịch Sở sinh bệnh giả, mục hoàng khẩu can, cừu nục, hầu tý, kiên tiền nao thống, đại chỉ thứ chỉ thống. Khí hữu dư tắc dương mạch sở quá giả nhiệt thũng. Hư hắc hàn lật, bất phục…”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đau nhức răng.
Viêm đau nướu răng.
Cổ họng sưng đau.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Mắt vàng.
Họng khô.
Chảy máu mũi.
Sưng đau họng (hầu).
Đau mặt trước vai, cánh tay, ngón cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được.
Bệnh thực:
Phát sốt.
Cảm giác nóng vùng mà đường kính đi qua.
Bệnh hư:
Sợ lạnh, lạnh run.
Kinh (túc dương minh) vị
Lộ trình đường kinh:
Khởi đầu từ chỗ lõm ở hai bên sống mũi lên khóe mắt trong (giao với kinh Bàng quang ở huyệtTình minh), chạy tiếp đến dưới hố mắt (đoạn này đường kinh đi chìm). Đoạn nổi bắt đầu từ giữa dưới hố mắt, đi dọc theo ngoài mũi, vào hàm trên, quanh môi, giao chéo xuống hàm dưới giữa cằm, đi dọc theo dưới má đến góc hàm (Giáp xa). Tại đây chia hai nhánh:
Một nhánh qua trước tai, qua chân tóc lên đỉnh trán (Đầu duy).
Một nhánh đi xuống cổ đến hố thượng đòn. Từ hố thượng đòn đường kinh lại chia làm hai nhánh nhỏ (chìm và nổi).
Nhánh chìm: đi vào trong đến Tỳ Vị, rồi xuống bẹn để nối với nhánh đi nổi bên ngoài.
Nhánh nổi: đi thẳng xuống ngực theo đường trung đòn. Đến đoạn ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa bụng 2 thốn và đến nếp bẹn.
Hai nhánh nhỏ này hợp lại ở nếp bẹn, đường kinh chạy xuống theo bờ ngoài đùi, đến bờ ngoài xương bánh chè. Chạy xuống dọc bờ ngoài cẳng chân đến cổ chân (Giải khê), chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 2 và 3 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng ngón 2.
Các huyệt trên đường kinh vị:
Có tất cả 45 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Thừa khấp.
Tứ bạch.
Cự liêu.
Địa thương.
Đại nghinh.
Giáp xa.
Hạ quan.
Đầu duy.
Nhân nghinh.
Thủy đột.
Khí xá.
Khuyết bồn.
Khí hộ.
Khố phòng.
Ốc ế.
Ưng song.
Nhũ trung.
Nhũ căn.
Bất dung.
Thừa mãn.
Lương môn.
Quan môn.
Thái ất.
Hoạt nhục môn.
Thiên xu.
Ngoại lăng.
Đại cự.
Thủy đạo.
Quy lai.
Khí xung.
Bễ quan.
Phục thỏ.
Âm thị.
Lương khâu.
Độc tỵ.
Túc tam lý.
Thượng cự hư.
Điều khẩu.
Hạ cự hư
Phong long.
Giải khê.
Xung dương.
Hãm cốc.
Nội đình.
Lệ đoài.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 4, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ bị chấn hàn một cách ngấm ngầm, hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần, sắc mặt đen. Khi bệnh đến thì ngại gặp người và lửa, mỗi lần nghe tiếng động của mộc (gỗ) sẽ bị kinh sợ, tâm muốn đập mạnh, muốn đóng kín cửa lớn và cửa sổ lại để ngồi một mình. Khi nào bệnh nặng thì bệnh nhân muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong. Trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên. Ta gọi đây là chứng cán quyết. Vì là chủ huyết nên nếu là bệnh thuộc Sở sinh sẽ bị chứng cuồng ngược, ôn khí quá dâm (nhiều) sẽ làm cho mồ hôi ra, chảy máu mũi, miệng méo, môi lở, cổ sưng thũng, cuống họng bị tý, phần đại phúc (bụng trên) bị thủy thũng, đầu gối bị sưng thũng, đau nhức. Suốt đường đi từ ngực vú xuống tới huyệt khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa không cử động được. Nếu khí thịnh thì phía trước thân đều bị nhiệt. Khi khí hữu dư ở vị làm tiêu cốc khí, dễ bị đói, nước tiểu màu vàng. Nếu khí bất túc thì phía trước thân đều lạnh. Nếu trong vị bị hàn thì sẽ bị trướng mãn.
“Thị động tắc bệnh sái chấn hàn, thiện thân, sổ khiếm, nhan hắc; bệnh chí tắc ố nhân, dữ hỏa, văn mộc thanh tắc dịch nhiên nhi kinh tâm, dục động, độc bế hộ, tắc dũ nhi xử, thậm tắc dục thướng cao nhi ca, khí y nhi tẩu, bí hưởng, phúc trướng, thị vị cán quyết. Thị chủ huyết Sở sinh bệnh giả cuồng ngược, ôn dâm, hạn xuất, cừu nục, khẩu oa, thần chẩn, cảnh thũng, hầu tý, đại phúc thủy thũng, tất tẫn thủy thống, tuần ưng nhũ khí nhai cổ phục thỏ, cán ngoại liêm túc phụ thượng giai thống, trung chỉ bất dụng. Khí thịnh tắc thân dĩ tiền giai nhiệt. Kỳ hữu dư vu vị tắc tiêu cốc thiện cơ, niệu sắc hoàng. Khí bất túc tắc thân dĩ tiền giai hàn lật. Vị trung hàn tắc trướng mãn…”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Lạnh run.
Hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần.
Sắc mặt đen.
Ngại gặp người và lửa.
Nghe tiếng động của gỗ sẽ bị kinh sợ, tim đập mạnh. Muốn đóng kín cửa lớn, cửa sổ lại để ngồi một mình.
Trong những trường hợp bệnh nặng: bệnh nhân muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong, trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên.
Ta gọi đây là chứng cán quyết.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Sốt cao, ra mồ hôi.
Phát cuồng, nói sảng.
Đau mắt, mũi khô, chảy máu cam, lở môi miệng, đau họng sưng cổ, méo miệng, đau ngực, viêm tuyến vú, tắc tia sữa.
Bụng trên bị sưng trướng.
Đầu gối bị sưng thũng, đau nhức.
Đau dọc đường kinh đi: suốt đường kinh đi từ ngực vú xuống tới huyệt Khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa không cảm giác.
Bệnh thực:
Thường xuyên có cảm giác đói.
Nước tiểu vàng.
Bệnh hư:
Cảm giác lạnh phần trước thân.
Trướng bụng, đầy hơi, khó tiêu (khi vị có hàn).
Kinh (túc thái âm) tỳ
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng chân cái, chạy dọc theo đường nối da mu bàn chân và da gan bàn chân đến trước mắt cá trong, lên cẳng chân dọc theo bờ sau xương chày, lên mặt trong khớp gối, chạy tiếp ở mặt trong đùi. Lộ trình ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa bụng 4 thốn. Lộ trình ở ngực, đường kinh chạy theo đường nách trước rồi đến tận cùng ở liên sườn 6 đường nách giữa (Đại bao).
Đường kinh Tỳ có nhánh liên lạc với mạch Nhâm (đường giữa bụng) ở bụng dưới (ở huyệt Trung cực, Quan nguyên) và ở bụng trên (Hạ quản).
Đoạn đường kinh ở bụng trên có nhánh chìm đến Tỳ Vị, xuyên qua cơ hoành đến Tâm, tiếp tục đi lên dọc hai bên thanh quản đến phân bố ở dưới lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Tỳ:
Có tất cả 21 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Ẩn bạch 2. Đại đô3. Thái bạch.
Công tôn5. Thương khâu 6. Tam âm giao.
Lậu cốc8. Địa cơ9. Âm lăng tuyền.
Huyết hải11. Kỳ môn12. Xung môn.
Phủ xá14. Phúc kết15. Đại hoành.
Phúc ai17. Thực độc18. Thiên khê.
Hung hương 20. Chu vinh21. Đại bao.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 5, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng cuống lưỡi cứng, ăn vào thì ói ra. Vị hoãn đau, bụng bị trướng, hay ợ, mỗi lần đại tiện thì đồng thời chuyển cảkhí ra theo phân. Sau đó thân người tiến tới suy kiệt rất nhanh chóng, thân thể đều nặng nề. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh của Tỳ sẽ làm cho cuống lưỡi bị đau, thân thể không lay động được, ăn không xuống, phiền tâm. Tâm hạ bị cấp thống, chứng đường hà tiết, thủy bế, hoàng đản, không nằm được, ráng đứng lâu bị nội thũng và quyết ở đùi vế, ngón chân cái không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh thiệt bản cường, thực tắc ẩu, vị hoãn thống, phúc trướng, thiện ái, đắc hậu dữ khí tắc khoái nhiên như suy, thân thể giai trọng. Thị chủ tỳ Sở sinh bệnh, thiệt bản thống, thể bất năng động dao, thực bất há, phiền tâm. Tâm hạ cấp thống, đường hà tiết, thủy bế, hoàng đản, bất năng ngọa cưỡng lập, cổ tất nội thũng quyết, túc đại chỉ bất dụng”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cứng lưỡi.
Ói mửa sau khi ăn.
Đau vùng thực quản, bụng trướng hơi, hay ợ.
Trung tiện nhiều khi đi cầu.
Thân thể nặng nề và đau nhức.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Đau ở cuống lưỡi, người có cảm giác cứng khó cử động.
Ăn kém, cảm giác thức ăn bị chặn, ăn không xuống.
Đau thượng vị, tiêu chảy hoặc muốn đi cầu mà không đi được (giống như lỵ).
Hoàng đản.
Không nằm được, đứng lâu bị phù và có cảm giác lạnh ở mặt trong đùi.
Ngón chân cái không cử động được.
Kinh (thủ thiếu âm) tâm
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ Tâm phân làm 3 nhánh:
Một nhánh qua cơ hoành liên lạc với Tiểu trường.
Một nhánh dọc cạnh thanh quản, cổ họng thẳng lên mắt.
Một nhánh đi ngang ra đáy hố nách để xuất hiện ngoài mặt da (Cực tuyền). Đi xuống dọc bờ trong mặttrước cánh tay đến nếp gấp trong nếp khuỷu (Thiếu hải). Dọc theo mặt trong cẳng tay, dọc mặt lòng bàn tay giữa xương bàn ngón 4 và 5. ở cổ tay, đường kinh đi ở bờ ngoài gân cơ trụ trước. Kinh Tâm đến tận cùng ở góc ngoài gốc móng tay thứ 5 (Thiếu xung).
Các huyệt trên đường kinh Tâm:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Cực tuyền.
Thanh linh.
Thiếu hải.
Linh đạo.
Thông lý.
Âm khích.
Thần môn.
Thiếu phủ.
Thiếu xung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 6, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho cổ họng bị khô, tâm thống, khát muốn uống nước, gọi đây là chứng tý quyết. Nếu là bệnh Sở sinh do Tâm làm chủ sẽ làm cho mắt vàng, hông sườn thống; mép sau phía trong của cánh tay và cẳng tay bị thống, quyết; giữa gan bàn tay bị nhiệt, thống.
“Thị động tắc bệnh ách can, tâm thống, khát nhi dục ẩm, thị vi tý quyết. Thị chủ tâm Sở sinh bệnh giả, mục hoàng, hiếp thống, nao tý nội hậu liêm thống quyết, chưởng trung nhiệt thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cổ họng khô.
Đau vùng tim, khát muốn uống nước.
Tý quyết (xem kinh Phế).
Bệnh do nội nhân gây nên:
Vàng mắt.
Đau vùng hông sườn.
Đau và có cảm giác lạnh ở mặt trong cánh tay, cẳng tay.
Nóng lòng bàn tay.
Kinh (thú thái dương) tiểu trường
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 5, chạy dọc theo đường nối da lưng và da lòng bàn tay, lên cổ tay đi qua mỏm trâm trụ, chạy dọc theo mặt trong cẳng tay đến rãnh ròng rọc, tiếp tục đi ở bờ trong mặt sau cánh tay đến nếp nách sau, lên mặt sau khớp vai đi ngoằn ngoèo ở trên và dưới gai xương bả vai (có đoạn nối với kinh Bàng quang và mạch Đốc), đi vào hố trên đòn rồi dọc theo cổ lên má. Tại đây chia thành 2 nhánh:
Một nhánh đến đuôi mắt rồi đến hõm trước nắp bình tai.
Một nhánh đến khóe mắt trong (Tình minh) rồi xuốngtận cùng ở gò má (Quyền liêu).
Đoạn đường kinh chìm: từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào trong đến tâm, qua cơ hoành đến vị rồi liên lạc với tiểu trường.
Các huyệt trên đường kinh Tiểu trường:
Có tất cả 19 huyệt trên đường kinh Tiểu trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Thiếu trạch.
Tiền cốc.
Hậu khê.
Uyển cốt.
Dương cốc.
Dưỡng lão.
Chi chính.
Tiểu hải.
Kiên trinh.
Nhu du.
Thiên tông.
Bỉnh phong.
Khúc viên.
Kiên ngoại du.
Kiên trung du.
Thiên song.
Thiên dung.
Quyền liêu.
Thính cung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 7, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đau cổ, hàm sưng thũng, không ngoái lại sau được, vai đau như nhổ rời, cánh tay đau như gãy ra. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh vì chủ về dịch sẽ làm cho tai bị điếc, mắt vàng, má sưng, cổ, hàm, vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau phía ngoài cẳng tay, tất cả đều đau.
“Thị động tắc bệnh ách thống, hàm thũng bất khả dĩ cố kiên tự bạt, nao tự chiết. Thị chủ dịch Sở sinh bệnh giả, nhĩ lung, mục hoàng, giáp thũng, cảnh, hàm, kiên, nao, trửu, tý ngoại hậu liêm thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Đau cổ, không ngoái lại phía sau được.
Hàm sưng.
Đau mặt sau vai và cánh tay như bị gãy.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Điếc tai, vàng mắt.
Su8ng má và góc hàm.
Đau cổ, hàm, mặt sau vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau trong cẳng tay.
Kinh (túc thái dương) bàng quang
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ khóe mắt trong (Tình minh), chạy lên trán, vòng từ trước trán ra sau gáy (ở đoạn này đường kinh có nhánh giao hội với Đốc mạch ở đầu, tách một nhánh ngang đi từ đỉnh đầu đến mỏm tai và một nhánh vào não). Từ đấy chia làm 2 nhánh:
Nhánh 1 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 1,5 thốn, chạy tiếp xuống mông, mặt sau đùi rồi vào giữa khoeo chân.
Nhánh 2 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 3 thốn, chạy tiếp ở phía ngoài mặt sau đùi đến hợp với nhánh thứ 1 ở giữa khoeo chân (Ủy trung).
Đường kinh tiếp tục chạy xuống mặt sau cẳng chân, xuống phía sau mắt cá ngoài (tại huyệt Côn lôn) rồi chạy dọc bờ ngoài mu bàn chân đến tận cùng ở góc ngoài gốc móng chân thứ 5.
Đường kinh Bàng quang ở vùng thắt lưng có nhánh ngầm đi vào thận rồi đến Bàng quang.
Các huyệt trên đường kinh Bàng quang:
Có tất cả 67 huyệt trên đường kinh Bàng quang. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Tình minh.
Toản trúc.
Mi xung.
Khúc sai.
Ngũ xứ.
Thừa quan.
Thông thiên.
Lạc khước.
Ngọc chẩm.
Thiên trụ.
Đại trữ.
Phong môn.
Phế du.
Quyết âm du.
Tâm du.
Đốc du.
Cách du.
Can du.
Đởm du.
Tỳ du.
Vị du.
Tam tiêu du.
Thận du.
Khí hải du.
Đại trường du.
Quan nguyên du.
Tiểu trường du.
Bàng quang du.
Trung lữ du.
Bạch hoàn du.
Thượng liêu.
Thứ liêu.
Trung liêu.
Hạ liêu.
Hội dương.
Thừa phù.
Ân môn.
Phù khích.
Ủy dương.
Ủy trung.
Phụ phân.
Phách hộ.
Cao hoang.
Thần đường.
Y hy.
Cách quan.
Hồn môn.
Dương cương.
Ý xá.
Vị thương.
Hoang môn.
Chí thất.
Bào hoang.
Trật biên.
Hợp dương.
Thừa cân.
Thừa sơn.
Phi dương.
Phụ dương.
Côn lôn.
Bộc tham.
Thân mạch.
Kim môn.
Kinh cốt.
Thúc cốt.
Thông cốt.
Chí âm.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 8, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng “xung đầu thống”, mắt đau như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy như bị gãy rời ra, cột sống bị đau, thắt lưng như gãy, mấu chuyển lớn không thể co lại được, khoeo chân như kết lại, bắp chuối như nứt ra, ta gọi đây là chứng “khỏa quyết”. Đây là chứng “Sở sinh bệnh” chủ về cân: trĩ ngược, cuồng điên tật, giữa đỉnh đầu bị đau nhức, mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam; tất cả từ cổ, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều đau nhức; ngón út không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh xung đầu thống, mục tự thoát hạng như bạt, tích thống, yêu tự chiết, bễ bất khả dĩ khúc, quắc như kết thuyện như liệt. Thị vi Khỏa quyết. Thị chủ cân Sở sinh bệnh giả trĩ ngược cuồng điên tật, đầu tín đỉnh thống, mục hoàng, lệ xuất, cừu nục, hạng bối yêu cừu quắc thuyện cước giai thống, tiểu chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài: cảm giác như khí thượng nghịch gây nên đau đầu, mắt đau như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy như bị gãy rời ra, bị xoay vặn, đau cột sống, thắt lưng đau như bị gãy, không gập được gối, đau như bị đè nén ở hố nhượng chân, đau bắp chân như bị nứt, xé.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong: trĩ, sốt và lạnh run, điên cuồng, giữa đỉnh đầu bị đau nhức, mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam. Tất cả từ cổ, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều đau nhức, không cử động được ngón chân út.
Kinh (túc thế âm) thận
Lộ trình đường kinh: 
Bắt đầu từ lòng bàn chân (Dũng tuyền), đi dọc dưới xương thuyền phía trong bàn chân (Nhiên cốc) đến sau mắt cá trong rồi ngược lên bắp chân đến khoeo chân giữa gân cơ bán gân và gân cơ bán màng (Âm cốc). Đi tiếp lên mặt trong đùi. Ở bụng, đường kinh Thận chạy cách đường giữa 1/2 thốn, ở ngực chạy cách đường giữa 2 thốn và tận cùng ở dưới xương đòn (Du phủ).
Từ nếp bẹn, kinh Thận có nhánh ngầm vào cột sống đoạn thắt lưng, đến Thận rồi đến Bàng quang. Từ Thận chạy tiếp đến Can, qua cơ hoành lên Phế dồn vào Tâm, chạy tiếp theo họng, thanh quản và tận cùng ở cuống lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Thận:
Có tất cả 27 huyệt trên đường kinh Thận. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Dũng tuyền.
Nhiên cốc.
Thái khê.
Đại chung.
Thủy tuyền.
Chiếu hải.
Phục lưu.
Giao tín.
Trúc tân.
Âm cốc.
Hoành cốt.
Đại hách.
Khí huyệt.
Tứ mãn.
Trung chú.
Hoang du.
Thương khúc.
Thạch quan.
Âm đô.
Thông cốc.
U môn.
Bộ lang.
Thần phong.
Linh khu.
Thần tàng.
Hoắc trung.
Du phủ.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 9, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò khè, ngồi xuống lại muốn đứng lên, mắt lờ mờ như không thấy gì. Tâm như bị treo lên, lúc nào cũng như đang bị đói. Khi nào khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt …Tâm như hồi hộp, như sợcó người đang đến để bắt mình, ta gọi đây là chứng cốt quyết. Nếu bị bệnh Sở sinh chủ về Thận thì sẽ làm cho miệng bị nhiệt, lưỡi bị khô, yết bị sưng thũng, bị chướng khí, cổ họng bị khô và đau nhức, bị phiền tâm, tâm bị thống, bị hoàng đản, trường phích, mép sau của vế trong và cột sống bị đau, chứng nuy quyết, thích nằm, dưới chân bị nhiệt và thống”.
“Thị động tắc bệnh cơ bất dụng thực, diện như tất sài, khái thóa tắc hữu huyết, ới ới nhi suyễn, tọa nhi dục khởi, mục hoang hoang như vô sở kiến. Tâm như huyền, nhược cơ trạng. Khí bất túc tắc thiện khủng. Tâm dịch dịch như nhân tương bộ chi. Thị vi cốt quyết. Thị chủ Thận Sở sinh bệnh giả, khẩu nhiệt thiệt can, yết thũng thướng khí ách can cập thống, phiền tâm, tâm thống, hoàng đản, trường phích, tích cổ nội hậu liêm thống, nuy quyết, thị ngọa, túc hạ nhiệt nhi thống”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, ho nhổ nước bọt thấy có máu, thở nhanh, khò khè, ngồi xuống lại muốn đứng lên, mắt mờ. Nếu Thận khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt, hồi hộp, trống ngực … Ta gọi đây là chứng cốt quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Họng nóng, khô lưỡi, đau họng.
Lo lắng, đau vùng tim, hoàng đản, lỵ.
Đau lưng, đau mặt trong đùi.
Chứng nuy quyết (chi bị liệt và lạnh).
Thích nằm, lòng bàn chân nóng và đau.
Kinh (thú quyết âm) bào
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ tâm bào xuyên qua cơ hoành đến liên lạc với tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu). Từ Tâm bào đi ra cạnh sườn đến xuất hiện ngoài mặt da dưới nếp nách 3 thốn (tại huyệt Thiên trì: liên sườn 4, từ đường giữa ra5 thốn), chạy vòng lên nách, chạy xuống theo mặt trước cánh tay giữa 2 kinh Phế và Tâm, đến bờ trong tấm gân cơ 2 đầu ở nếp khuỷu tay (Khúc trạch), chạy xuống cẳng tay giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé, chạy trong lòng bàn tay giữa xương bàn ngón 3 và 4 và đến tận cùng ở đầu ngón tay giữa.
Các huyệt trên đường kinh Tâm bào:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm bào. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Thiên trì.
Thiên tuyền.
Khúc trạch.
Khích môn.
Giản sử.
Nội quan.
Đại lăng.
Lao cung.
Trung xung.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 10, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho lòng bàn tay bị nhiệt, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, nách bị sưng. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho ngực và hông sườn bị tức đầy, trong tâm đập thình thịch, mặt đỏ, mắt vàng, mừng vui cười không thôi. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về mạch sẽ làm cho bị phiền tâm, tâm bị thống, giữa gan bàn tay bị nhiệt.”.
“Thị động tắc bệnh thủ tâm nhiệt, tý trửu luyến cấp, dịch thũng, thậm tắc hung hiếp chi mãn. Tâm trung đạm đạm đại động, diện xích, mục hoàng, hỉ tiếu bất hưu. Thị chủ mạch sở sinh bệnh giả, phiền tâm, tâm thống, chưởng trung nhiệt”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Lòng bàn tay nóng, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, vùng nách bị sưng.
Trường hợp bệnh nặng: đau tức ngực và hông sườn, trống ngực, mặt đỏ, mắt vàng, hay cười không thôi.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong: lo lắng, đau vùng trước tim, lòng bàn tay nóng.
Kinh (thú thiếu dương) tam tiêu
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 4, đi dọc lên lưng bàn tay giữa xương bàn ngón tay 4 và 5 lên cổ tay, đi giữa hai xương quay và trụ lên cùi chỏ, đi dọc mặt sau ngoài cánh tay lên vai rồi vào hố trên đòn. Từ hố trên đòn lên gáy đến sau tai, vòng dọc theo rìa tai từ sau ra trước tai rồi đến tận cùng ở đuôi lông mày (Ty trúc không).
Từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào Tâm bào và liên lạc với Tam tiêu. Từ sau tai có nhánh ngầm đi vào trong tai rồi ra trước tai.
Các huyệt trên đường kinh Tam tiêu:
Có tất cả 23 huyệt trên đường kinh Tam tiêu. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Quan xung.
Dịch môn.
Trung chữ.
Dương trì.
Ngoại quan.
Chi câu.
Hội tông.
Tam dương lạc.
Tứ độc.
Thiên tỉnh.
Thanh lãnh uyên.
Tiêu lạc.
Nhu hội.
Thiên liêu.
Kiên liêu.
Thiên dũ.
Ế phong.
Khế mạch.
Lư tức.
Giác tôn.
Nhĩ môn.
Hòa liêu.
Ty trúc không.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 11, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho tai điếc một cách ù ù, cổ họng sưng (thực quản), cổ họng tý (thanh quản). Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về khí sẽ làm cho bệnh đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, phía sau tai, vai, cánh tay, khuỷutay, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức. Ngón tay áp út, phía ngón út không cảm giác”.
“Thị động tắc bệnh nhĩ lung, hồn hồn thuần thuần, ách thũng, hầu tý. Thị chủ khí Sở sinh, mục nhuệ tý thống, giáp thống, nhĩ hậu, kiên, nao, trửu tý ngoại giai thống, tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Ù tai, điếc tai, sưng đau họng.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Hay đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, đau ở góc hàm.
Phía sau tai, vai, cánh tay, cùi chỏ, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức.
Khó cử động ngón tay áp út và ngón út.
Kinh (túc thiếu dương) đởm
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ đuôi mắt, lên góc trán vòng xuống sau tai, vòng từ sau đầu ra trước trán, vòng trở lại gáy đi dọc cổ xuống mặt trước vai vào hố trên đòn rồi xuống nách, chạy xuống theo vùng hông sườn đến mấu chuyển lớn, tiếp tục đi xuống theo mặt ngoài đùi, đến bờ ngoài khớp gối, xuống cẳng chân chạy trước ngoài xương mác, trước mắt cá ngoài, chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 4 và 5 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng thứ 4.
Từ đuôi mắt có nhánh ngầm đi xuống hố thượng đòn, vào trong ngực liên lạc với Can – Đởm rồi xuống tiếp vùng bẹn để đến nối với nhánh bên ngoài ở mấu chuyển lớn.
Các huyệt trên đường kinh Đởm:
Có tất cả 44 huyệt trên đường kinh Đởm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Đồng tử liêu.
Thính hội.
Thượng quan.
Hàm yến.
Huyền lư.
Huyền ly.
Khúc tân.
Suất cốc.
Thiên xung.
Phù bạch.
Khiếu âm.
Hoàn cốt.
Bản thần.
Dương bạch.
Đầu lâm khấp.
Mục song.
Chính doanh.
Thừa linh.
Não không.
Phong trì.
Kiên tỉnh.
Uyên dịch.
Trấp cân.
Nhật nguyệt.
Kinh môn.
Đới mạch.
Ngũ xu.
Duy đạo.
Cự liêu.
Hoàn khiêu.
Phong thị.
Trung độc.
Tất dương quan.
Dương lăng tuyền.
Dương giao.
Ngoại khâu.
Quang minh.
Dương phụ.
Tuyệt cốt.
Khâu khư.
Túc lâm khấp.
Địa ngũ hội.
Hiệp khê.
Túc khiếu âm.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 12, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho miệng đắng, thường hay thở mạnh, tâm và hông sườn đau, khó xoay trở. Nếu bệnh nặng hơn thì mặt như đóng lớp bụi mỏng, thân thể không nhuận trơn, phía ngoài bàn chân lại nóng. Đây gọi là chứng dương quyết. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh chủ về cốt sẽ làm cho đầu nhức, hàm nhức, khoé mắt ngoài nhức, vùng khuyết bồn bị sưng thũng và đau nhức, dưới nách bị sưng thũng, chứng ung thư mã hiệp anh, mồ hôi ra, sốt rét, chấn hàn; ngực hông sườn, mấu chuyển lớn, phía ngoài đầu gối cho đến cẳng chân, phía ngoài xương tuyệt cốt, mắt cá ngoài và các đốt xương, tất cả đều bị đau nhức. Ngón chân áp út không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh khẩu thổ, thiện thái tức. Tâm hiếp thống, bất năng chuyển trắc, thậm tắc diện vi hữu trần, thể vô cao trạch, túc ngoại phản nhiệt, thị vi dương quyết. Thị chủ cốt Sở sinh bệnh giả, đầu thống, hàm thống, mục nhuệ tý thống, khuyết bồn trung thũng thống, dịch hạ thũng, mã đao hiệp anh, hạn xuất chấn hàn ngược, hung hiếp lặc bễ tất ngoại chí hình tuyệt cốt ngoại khỏa tiền cập chư tiết giai thống. Tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng’’.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Miệng đắng, thường hay thở dài.
Vùng ngực và hông sườn đau, khó xoay trở.
Trường hợp bệnh nặng: mặt như đóng lớp bụi mỏng, da khô mất nước, thân thể không nhuận trơn, cảm giác nóng ở mặt ngoài chân, đây gọi là chứng dương quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Đau đầu nhức, đau vùng dưới cằm, đau khoé mắt ngoài, hố trên đòn sưng và đau nhức, vùng dưới nách sưng đau, hạch nách.
Hay ra mồ hôi, sốt rét.
Đau vùng ngực, hông sườn.
Đau ở mấu chuyển lớn xương đùi, đau phía ngoài đầu gối cho đến phía ngoài cẳng chân, đau mắt cá ngoài.
Không cử động được ngón chân áp út.
Kinh (túc quyết âm) can
Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng chân cái, chạy dọc trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 1 và 2 rồi đến trước mắt cá trong, lên mặt trong cẳng chân giao với kinh Tỳ rồi bắt chéo ra sau kinh này, lên mặt trong khoeo chân bên ngoài gân cơ bán màng, chạy tiếp lên mặt trong đùi đến nếp bẹn, vòng quanh bộ sinh dục ngoài lên bụng dưới và tận cùng ở hông sườn (Kỳ môn).
Từ đây có nhánh ngầm đi vào trong đến Can Đởm rồi vào Phế, xuyên cơ hoành lên phân bố ở cạnh sườn, đi dọc theo sau khí quản, thanh quản rồi lên vòm họng, lên nối với quanh mắt rồi chia làm 2 nhánh:
Một nhánh lên hội với Đốc mạch ở giữa đỉnh đầu (Bách hội).
Một nhánh xuống má vào vòng trong môi.
Các huyệt trên đường kinh Can:
Có tất cả 14 huyệt trên đường kinh Can. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.
Đại đôn.
Hành gian.
Thái xung.
Trung phong.
Lãi câu.
Trung đô.
Tất quan.
Khúc tuyền.
Âm bao.
Túc ngũ lý.
Âm liêm.
Cấp mạch.
Chương môn.
Kỳ môn.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 13, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho đau lưng đến không cúi ngửa ra được. Ở đàn ông sẽ có chứng đồi sán; ở đàn bà sẽ có chứng thiếu phúc bị sưng thũng. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho cổ họng bị khô, mặt như đóng lớp bụi và thất sắc. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh thuộc can sẽ làm cho ngực bị đầy, ói nghịch, xôn tiết, hồ sán, đái dầm, bí đái”.
“Thị động tắc bệnh yêu thống, bất khả dĩ phủ ngưỡng. Trượng phu đồi sán, phụ nhân thiếu phúc thũng, thậm tắc ách can, diện trần thoát sắc. Thị can Sở sinh bệnh giả, hung mãn ẩu nghịch, xôn tiết, hồ sán, di niệu, bế lung”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đau lưng không cúi ngửa được, đàn ông sẽ có chứng đồi sán (co thụt và sa bìu); đàn bà sẽ có chứng bụng dưới bị sưng thũng.
Trường hợp bệnh nặng: cổ họng khô, mặt như đóng lớp bụi và thất sắc.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Ngực bị tức đầy, ói mửa, cảm giác như khí nghịch lên trên.
Tiêu chảy, đầy bụng, khó tiêu.
Co thụt và sa bìu.
Đái dầm, bí đái, đái khó.

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Cấp cứu đột quỵ bằng y học cổ truyền


Trong các chứng tai biến mạch não, việc  xử lý cấp cứu có tác dụng ngăn chặn xuất huyết và phục hồi nhanh dòng máu lưu thông đến não có ý nghĩa quyết định  trong  điều trị và phục hồi hoàn toàn căn bệnh này.
Tai biến mạch não là một thể rối loạn tuần hoàn não cấp, dễ dẫn đến tử vong do việc cung cấp máu lên một phần não bị gián đoạn.  Việc gián đoạn dòng máu lên não có thể do vỡ mạch máu não, hoặc do hình thành một cục máu đông, hay do xơ vữa làm nghẽn mạch máu não.  Bệnh thường xảy ra khi người bệnh trải qua một sự thay đổi không khí đột ngột từ nóng sang lạnh, bị gió lùa, sau một nỗ lực gắng sức, sau khi uống rượu hoặc bị một xúc động mạnh.
Nhận dạng nguy cơ tai biến mạch máu não
Các triệu chứng thường xảy ra đột ngột nên còn gọi là đột quỵ.  Triệu chứng thần kinh xảy ra tương ứng với khu vực não không được cung cấp máu.  Người bệnh có thể bị tê, yếu hoặc liệt hẳn ở một bên tay hoặc chân, đột nhiên giảm thị lực hoặc nói năng khó khăn, giảm khả năng phán đoán…  Có thể nhức đầu hoặc không.  Một số người có thể có một số dấu hiệu báo trước vài giờ hoặc vài ngày trước khi tai biến xảy ra.  Dấu hiệu này có thể làbuồn nôn, chóng mặt, tê bì một bên tay hay chân hoặc một thoáng mất ý thức. Qua nghiên cứu và tổng hợp những triệu chứng thường gặp nhất, người ta đưa ra một phương pháp trắc nghiệm nhanh dựa trên 3 tiêu chuẩn STR để nhận dạng một người đang có nguy cơ bị đột quỵ cần phải xử lý.  STR là các ký tự đầu của 3 từ Smile (mỉm cười), Talk (nói) và Raise (nâng lên).  Do đó, cần xử lý cấp cứu và chuyển viện ngay nếu một người  đột nhiên xảy ra một trong 3 triệu chứng:
Smile.  Hãy thử mỉm cười.  Người này không thể mỉm cười được.
Talk.  Yêu cầu người đó nói một câu đơn giản. Ví dụ: Hôm nay trời đẹp.  Người này không thể nói hoặc nói ngọng, nói không tròn tiếng.
Raise.  Hãy yêu cầu người đó nâng hai cánh tay hoặc hai bàn tay lên thì  họ không thể nâng được hai cánh tay, hoặc yếu hay liệt hẳn một bên.

Tại sao cần xử lý cấp cứu tại chỗ ?

Thống kê cho thấy khoảng phân nửa số người đột quỵ bị tử vong là do không được cứu chữa kịp thời trong vòng 3 giờ đầu tiên kể từ khi triệu chứng xảy ra.  Nghiên cứu của Bác sĩ Jeffrey L. Saver tại trường Đại học California, Hoa Kỳ cho biết cứ mỗi phút trôi qua mà chưa được điều trị não sẽ mất đi 1,9 triệu tế bào thần kinhdẫn đến mất đi 14 tỉ synap (chỗ nối thần kinh) và khoảng 7,5 dặm các sợi thần kinh!  Do đó, cần phải nhanh chóng giải toả chỗ bế tắc để phục hồi việc tưới máu lên não.  Điều khó khăn là việc tiếp cận kịp thời một cơ sở y tế chuyên môn có đủ phương tiện và điều kiện để giải quyết những trường hợp đột quỵ thường nằm ngoài tầm tay của nhiều người.  Không kể những người bệnh ở những nơi hẻo lánh, xa thầy xa thuốc, ở nhiều vùng đô thị, việc đưa đến các cơ sở đa khoa và các phòng mạch thông thường chỉ được làm chậm trễ và tuột khỏi cơ hội cứu sống người bệnh.
Ngoài ra, nếu chưa được xử lý thích hợp, việc di chuyển, xê dịch người bệnh còn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng xuất huyết.  Ngược lại, một số biện pháp xử lý nhanh của y học dân gian nhằm khu phong hoá ứ và kích hoạt lưu thông khí huyết ở vùng đầu thường  tỏ ra khá hữu dụng trong những trường hợp này.
Xử lý cấp cứu
Khi nhận ra một người đang có dấu hiệu đột quỵ, dù người đó đang còn ngồi, đứng hay đã quỵ xuống, đã hôn mê hay còn ý thức, người bên cạnh hãy bình tĩnh và thực hành lần lượt các bước sau đây trước khi chuyển họ đến cơ sở chuyên môn cần thiết.
Đặt bệnh nhân nằm xuống nhẹ nhàng.  Tránh tối đa việc xê dịch người bệnh để không làm trầm trọng thêm tình trạng xuất huyết.
Tìm ngay một cây kim khâu.  Hơ đầu kim vào lửa để sát trùng.
Lần lượt chích lễ 10 đầu ngón tay của người bệnh.  Dùng bàn tay trái giữ lấy lóng cuối chỗ gần đầu ngón tay người bệnh, dùng 3 ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải cầm kim chích nhanh vào chỗ cao nhất của đầu ngón tay người bệnh.  Rút kim ra và nặn nhẹ từ chỗ đã chích ra một hay hai giọt máu.  Những đầu ngón tay là vị trí của huyệt Thập tuyên, nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh rất nhạy cảm.  Theo thuyết phản xạ thần kinh cũng như thuyết toàn đồ, đầu ngón tay tương ứng với phần đầu của cơ thể và đỉnh nhọn của ngón tay ứng với huyệt Bách hội ở đỉnh đầu.  Ngoài ra, động tác chích lễ lại có tính “tả” và kích thích rất mạnh.  Do đó, có thể nói chích lể các đầu ngón tay là biện pháp đặc hiệu để kích thích tỉnh thần và khu phong hoá ứ ở khu vực đầu cũng như não bộ.  Động tác này vừa có thể ngăn chặn đột quỵ hoặc phục hồi não từ tình trạng hôn mê lại vừa có thể loại bỏ tức thời yếu tố “phong”, nguyên nhân trực tiếp gây ra tai biến.  Mặt khác, tác động vào các đầu ngón tay cũng là gián tiếp tác động vào huyệtBách hội nên có ý nghĩa kích hoạt sự thăng giáng của các đường kinh dẫn đến thông kinh hoạt lạc, tiêu trệ hoá ứ, giúp giải quyết việc ứ huyết và điều hoà kinh khí toàn thân. Đợi vài phút sau người bệnh sẽ tỉnh lại. Nếu miệng hoặc mắt người bệnh còn méo lệch sang một bên, hãy dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ của hai bàn tay vuốt cùng lúc cả hai vành tai người bệnh.  Vuốt từ trên xuống dưới.  Vuốt nhẹ và vuốt liên tục nhiều lần cho đến khi hai vành tai hồng đỏ lên. Dùng bàn tay trái bóp nhẹ vào phần trên của vành tai người bệnh và chích vào chỗ cao nhất của vành tai (huyệt Nhĩ tiêm). Nặn ra một vài giọt máu. Đến đây chúng ta có thể an tâm chuyển người bệnh đến cơ sở chuyên môn để được kiểm soát và chăm sóc các bước tiếp theo để ổn định sức khoẻ lâu dài.  Hầu hết các trường hợp tai biến não được xử lý cấp cứu kịp thời theo phương pháp này đều hồi phục tốt.  Vấn đề còn lại là tuân thủ một chế độ sinh hoạt, ăn uống và luyện tập hợp lý để tăng cường sức đề kháng và kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể gây ra đột quỵ như cao huyết áp, cholesterol máu cao, béo phì, tiểu đường.
VÕ HÀ (CTQ số 114)

THẬP NHỊ ĐOẠN CẨM – “Bài thuốc” quý!

1) Cắn răng: Hai hàm răng nhẹ nhẹ cắn vào nhau 36 lần.
2) Nuốt nước bọt: Trong lòng thanh thản, lấy đầu lưỡi ngoáy trong mồm để nước bọt ra đầy mồm, rồi súc miệng 36 lần, nuốt nước bọt làm 3 lần và dùng ý niệm đưa nước bọt xuống Đan điền (Vùng dưới rốn khoảng 2cm, sâu bên trong khoảng 1cm).
Hai động tác 1) và 2) trên, nếu thực hiện đều đặn sẽ rất có hiệu quả cho hệ tiêu hóa (dạ dày, đại tràng, tiểu tràng).
3) Rửa mặt: Hai tay xoa vào nhau cho nóng lên, rồi xoa lên mặt từ 2 khóe miệng lên cánh mũi ra 2 bên má, lên 2 bên thái dương, lại kéo xuống cằm. Làm đi làm lại nhiều lần, xoa đến khi mặt nóng lên là được.
Nếu có thời gian, có thể thêm:
a) Day mắt: Mắt nhắm, dùng 2 ngón tay giữa vuốt nhẹ 2 mắt từ khóe mắt ra đuôi mắt 36 lần. Sau đó, mỗi bên dùng 2 ngón trỏ và ngón giữa miết nhẹ từ đầu lông mày lên trên sát lông mày ra tới đuôi lông mày rồi vòng xuống dưới mắt kéo sang khóe mắt 36 lần.
Tiếp theo, dùng ngón trỏ day các huyệt: Tình minh (ở đầu khóe mắt, sát mũi), Toản trúc (ở đầu lông mày, chỗ lõm), Ngư yêu (ở giữa lông mày, chỗ lõm), Ty trúc không (ở sát đuôi lông mày, chỗ lõm), Đồng tử liêu (ở sát đuôi mắt, chỗ lõm), mỗi huyệt 50 lần.
Chú ý: Khi day, phải có cảm giác căng, tức mới là đúng huyệt và có hiệu quả.
(Sau khoảng thời gian 5 – 6 tháng, day các huyệt về mắt trên, khi đọc sách, báo tôi không cần đeo kính lão, trừ trường hợp chữ quá nhỏ! – Nguyễn Chu Công).
b) Day huyệt Ấn đường (ở giữa hai đầu lông mày, thẳng sống mũi lên) 50 lần, và huyệt Thái dương (ở chỗ lõm phía ngoài huyệt Đồng tử liêu 0,5 thốn – tức khoảng 1cm), mỗi huyệt 50 lần. Sau đó dùng những ngón tay trỏ, giữa, áp út miết trán từ huyệt Ấn đường ra 2 bên Thái dương 36 lần, xoa 2 bên Thái dương theo chiều lên, xuống 36 lần, rồi dùng bàn tay xoa trán theo chiều từ phải sang trái và ngược lại 36 lần.
c) Day huyệt Nghênh hương (ở sát gần 2  cánh mũi) 36 lần, rồi dùng 2 ngón trỏ và giữa miết 2 bên miết 2 bên mũi từ huyệt Tình minh trở xuống đến Nghênh hương 36 lần.
d) Xoa huyệt Nhân trung (điểm 1/3 trên và 2/3 dưới của rãnh Nhân trung dưới sống mũi) dùng ngón trỏ bàn tay phải xoa ngang từ phải sang trái và ngược lại 36 lần; Đồng thời xoa huyệt Thừa tương (chỗ lõm giữa rãnh môi và cằm), dùng ngón trỏ bàn tay trái xoa như trên 36 lần.
4) Gõ trống trời: Kẹp 2 vành tai bằng ngón trỏ và ngón giữa, xoa nhẹ theo chiều lên xuống 36 lần. Sau đó, hai tay bịt tai, ngón trỏ đặt lên ngón giữa rồi bật mạnh xuống gáy 24 lần.
5) Động huyệt Cao hoang: (Tức huyệt Cao hoang du, dưới đốt sống thứ bốn ngang ra mỗi bên 3 thốn (khoảng 6,5 cm). Có tác dụng chữa lao phổi, hen suyễn, ho ra máu, di mộng tinh, tiêu hóa kém, suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, thiếu máu, tỳ vị hư nhược – Ghi chú của tác giả bài này): Đứng thẳng người, hơi cúi phía trước, 2 tay xuôi xuống hơi đưa ra phía trước, hai vai quay sang trái để mắt nhìn thấy gót chân phải rồi ngược lại 36 lần.
6) Đỡ trời: Nắm 2 tay, sau khi hít, nín thở, đồng thời tay trái xòe ra hướng lên trời, sau đó từ từ bỏ xuống, làm 3 lần, rồi chuyển sang tay phải, làm như bên 3 lần.
7) Bắn cung phải, trái: Nín thở, tay trái đưa thắng ra phía trước, tay phải làm động tác kéo dây cung. Tay phải, tay trái đổi động tác cho nhau, mỗi bên 3 lần.
8) Xoa Đan điền: Xoa 2 bàn tay cho nóng lên, rồi tay trái để vào chỗ thận trái, tay phải xoa Đan điền theo chiều trái – phải. Hai tay thay đổi nhau, mỗi tay 36 lần.
9) Xoa huyệt Nội thận: Nín thở, hai tay xoa cho nóng, tay trái áp vào Đan điền, tay phải xoa huyệt Mệnh môn (chính giữa thắt lưng, dưới đốt sống thắt lưng thứ 2. Tác dụng: Đau vùng thắt lưng, cứng hay yếu thắt lưng, đau đầu, chân hỏa hư, lạnh từ đầu gối trở xuống, di mộng tinh, khí hư, bế kinh, đái đục, sốt không ra mồ hôi, trẻ em lên cơn co giật uốn ván – Ghi chú của tác giả bài này) 36 lần.
10) Xoa huyệt Dũng tuyền: Tay trái cầm bàn chân trái lên, tay phải xoa vào lòng bàn chân trái 36 lần, lại đổi sang chân phải. (Khi xoa cần ấn mạnh vào chỗ lõm, điểm 1/3 trên và 2/3 dưới của đoạn thẳng nối đầu ngón chân thứ 2 – sát ngón chân cái với điểm giữa bờ sau gót chân. Huyệt này có tác dụng chữa đỉnh đầu đau, hội chứng tiền đình, bệnh thận, mặt đen xạm, mắt hoa, viêm họng, viêm amidan, lưỡi khô, trẻ em kinh phong, điên cuồng, cơ thể suy nhược, gan bàn chân nóng, chứng âm hư hỏa vượng - Ghi chú của tác giả bài này).
11) Xoa huyệt Hiệp tích: Xoa khe xương ngực giữa số 3 và số 4: 36 lần (tức hai huyệt Linh khư và Ưng song đều có tác dụng chữa ho suyễn, đau tức sườn ngực, đau vú, nôn, không muốn ăn - Ghi chú của tác giả bài này).
12) Vẩy chân: Chân trái đứng yên, chân phải nhấc lên, vẩy 7 lần, lại đổi sang chân trái, vẩy 7 lần (có tác dụng đối với các khớp gối và khớp cổ chân).
Nguyễn Chu Công

Học thuyết Thuỷ Hoả và bài “Lục vị – Bát vị”

Học thuyết Thuỷ Hoả và bài “Lục vị – Bát vị”  



Học thuyết Thuỷ Hoả luôn đi với bài “Lục vị – Bát vị”. Từ khi nó ra đời đến nay đã 300 năm được nhiều danh y ca ngợi, thành phẩm cũng được bào chế khắp nơi. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng và hiệu quả của các vị thuốc trong bài này, còn nhiều vấn đề phải bàn bạc. chúng tôi xin có vài nhận xét về việc sử dụng bài thuốc trên thị trường hiện nay.

Đôi nét về học thuyết Thuỷ Hoả và bài Lục vị - Bát vị

Học thuyết Thuỷ Hoả được Phùng Triệu Trương, hiệu Sở Chiêm (1617 – 1700) ở Tô Châu, tỉnh Triết Giang, khởi xướng và phát triển từ học thuyết Mệnh môn, trong bộ “Phùng Thị Cẩm Nang” 50 quyển, in năm 1702 đời nhà Thanh và chuyên sử dụng Lục Vị, Bát Vị.
Học thuyết Thuỷ Hoả quan niệm: Lúc có thai thì hai quả thận hình thành đầu tiên. Thận là gốc của tiên thiên, gồm cả Thuỷ lẫn Hoả và Thận chi phối đến sức khoẻ, cuộc sống con người. Thận trái là Thận âm, chủ thuỷ, sinh huyết, sinh tinh, sinh tinh dịch, đàm ẩm. Thận bên phải là Thận dương, chủ hoả là chánh khí. Âm Thuỷ – Dương Hoả lưu hành trong con người phải cân bằng nhau thì con người mới khoẻ mạnh. Nếu bên tả Thận âm suy thì dẫn đến các chứng thuỷ khô, huyết táo, làm cho hoả động sinh nóng rát, đỏ mặt ho hen, khó ngủ… phải dùng thang Lục vị để bổ thuỷ cho bằng với Hoả. Nếu Dương Hoả hư do Âm Thuỷ mạnh lên, gấy mất cân bằng, làm Thận Hoả không yên, long hoả bốc lên, gây chứng phong hoả như nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi… phải dùng thang Bát vị để bổ Hoả, bổ dương khí, làm ấm Thận Dương, đưa phù du hoả trở về Thận.
Bài "Lục vị" được Tiền ất (1032 – 1113) ở Sơn Đông, lấy bài “Kim Quỹ Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh (145 – 208), bỏ vị Quế chi, Phụ tử mà thành; Chuyên dùng để bổ chân âm cho trẻ em. Bài “Lục vị hoàn” có Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Mẫu đơn bì, Phục linh. Phùng Triệu Trương dùng bài Lục vị để bổ Thuỷ, bổ chân Âm.
Bài “Bát vị”, Phùng Triệu Trương lấy bài “Thận Khí hoàn”, thay vị Quế chi bằng Nhục quế để bổ Hoả, bổ chân Dương, chữa các chứng Thận hư, tiểu tiện không thông lợi (Bát vị tức Lục vị thêm Phụ tử, Nhục quế).
Thật ra bài “Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh đã được Thôi Tri Đệ (615 – 685) thay vị Quế chi bằng vị Quế tâm, gọi là “Thôi Thị Bát Vị hoàn”, để chữa các chứng cước khí làm bụng dưới tê cứng. Trương Cảnh Nhạc (1583 – 1640) cũng lấy bài “Thận khí hoàn”, bỏ Trạch tả, Đơn bì, Phục linh và thêm vào các vị bổ Dương: Câu kỷ tử, Chích thảo, Đỗ trọng, thay Quế chi bằng Nhục quế; Thành bài “Hữu quy ẩm” để bổ Thận Dương, Cảnh nhạc cũng dùng bài Lục vị, bỏ Trạch tả, Đơn bì, thêm vào Kỷ tử, Chích thảo thành bài “Tả Quy ẩm” để tư âm chủ trị thận âm bất túc, làm đau lưng, mỏi gối, di tinh, đạo hãn, miệng khô, họng ráo…
Lê Hữu Trác (1920 – 1791), trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” và danh y Hoàng Nguyên Cát (1702 – 1779) trong “Quỳ viên gia học” rất tâm đắc học thuyết Thuỷ Hoả và sử dụng bài Lục Vị, Bát Vị.
Hãy thận trọng với chất lượng thuốc trong bài Lục Vị, Bát Vị
Bài Lục Vị, Bát Vị đã được nhiều thế hệ lương y tâm đắc, nhưng hiện nay nhiều người sử dụng chẳng những không có hiệu quả, mà còn có dấu hiệu không an toàn. Chúng ta hãy xem lại tính vị của hai phương thuốc này và tìm hiểu tình hình các vị thuốc có trên thị trường hiện nay.
Thục địa (Rhemannia glutinosa)
Thục địa được nấu từ Sinh địa hoàng, cây di thực vào nước ta từ năm 1958 và trồng thực nghiệm ở Trại dược liệu Văn Điển. Cây phát triển tốt và sau đó được trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt…nhưng năng suất thấp. Đến nay ta phải nhập nên đắt (30000 – 40000đ/kg Sinh địa).
Trong củ Địa hoàng có chứa nhiều glucosit như: Rehmaniosit, rehmapicrosit, axit amin… Địa hoàng có vị ngọt, đắng, tính lạnh, có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, sinh huyết, cầm máu. Dùng chữa âm hư, sốt âm, khát nước, đái tháo đường, thiếu máu, bổ huyết, băng huyết, chảy máu cam, kinh nguyệt không đều, động thai, ban chẩn, viêm họng, tân dịch khô, tâm thận không yên, phiền táo, mất ngủ. Thục địa tư âm dưỡng huyết, bổ thận; chữa âm hư, huyết suy, sốt âm, ho suyễn, điều kinh, bổ huyết, di tinh, viêm thận. Liều dùng từ 10g – 30g dạng thuốc sắc.
Sơn thù du (Cornus officinadis)
Sơn thù du phải nhập từ Trung Quốc. Việt Nam cũng có ở Chư Yan Sin, Sa Pa, Ba Vì...nhưng thuộc chi khác. Khi dùng bỏ hạt gọi là Táo nhục. Sơn thù chống loạn nhịp tim, kháng khuẩn đối với trực khuẩn thương hàn, lỵ… Sơn thù du có vị chua, tính bình. Bổ can thận, sáp tinh, thông khiếu, cầm mồ hôi. Dùng tán phong hàn, chữa đau đầu, đau thắt lưng, gối mỏi, ù tai, thận suy, đa niệu, di tinh, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm. Liều dùng 6 – 12g, dạng thuốc sắc.
Hoài sơn (Pioscorea persimilis)Còn có tên là Củ mài, Sơn dược. Hoài sơn có nhiều ở nước ta. Là loại củ dễ trồng, cho năng xuất cao. Hoài sơn chứa nhiều tinh bột, mucrin (protein nhớt). Allantoin, các axít amin, arginin, cholin và men maltaza… Hoài sơn vị ngọt, tính bình vào kinh phế, tỳ, vị, thận. Có công dụng bổ tỳ vị hư nhược, sinh tân dịch, ích phế, bổ thận, chỉ khát, chữa viêm ruột kinh niên, tiêu chảy lâu ngày, phế hư, ho hen, bệnh đái tháo đường, di tinh, bạch đới...
Phục linh (Poria cocos Wolf) Họ Nấm lỗ
Là loại nấm ký sinh trên rễ cây Thông. Nấm có hình khối, to nhỏ không đều nhau từ bằng nắm tay đến khoảng 5 kg. Có ở Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Việt Nam. Loại có mặt cắt bên trong màu trắng gọi là Bạch linh, loại có màu hồng xám gọi là Xích linh, loại có rễ Thông xuyên qua gọi là Phục thần.
- Phục linh có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng tăng cường miễn dịch, an thần, chống viêm loét dạ dày, hạ đường huyết, bảo vệ gan, lợi thuỷ…
- Bạch linh lợi thuỷ, trừ thấp, tiêu thũng, chống phù, bổ tỳ, chữa bụng đầy trướng, chữa tiêu chảy, suy nhược, di tinh, chóng mặt, an thần.
Mẫu đơn bì hay Đơn bì (Paeonia moutan Suns. Họ Hoàng liên)
Mẫu đơn là loại hoa quý, được trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Việt Nam đã di thực về trồng ở Sa Pa, nhưng hiện đã bị mất giống. Rễ đơn bì có tác dụng chống co thắt, chống viêm, giảm đau, an thần, ức chế sự sinh sôi của E coli, Baccillus subtilis, staphylococcus aureus…  Mẫu đơn bì vị cay, đắng, mùi thơm, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, hạ sốt, tan máu ứ, giảm đau, dùng thuốc trấn kinh, chữa sốt âm kéo dài, chữa đau đầu, viêm rễ thần kinh, các bệnh kèm co giật, phòng và trị bệnh tắc mạch do huyết khối, đau ngực, chống đông máu, viêm da dị ứng, mụn nhọn, lở loét, viêm phổi, sốt xuất huyết, chữa nhiễm khuẩn, chữa viêm gan cấp…
Liều dùng từ 6 – 12g.
Trạch tả (Alisma plantage aquatica L.) còn có tên là Mã đề nước.
Có nhiều loại làm Trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng lợi thuỷ, thẩm thấp, thanh nhiệt. Dùng chữa bệnh thuỷ thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó, đái ra máu, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, đái tháo đường, cao huyết áp, gan nhiễm mỡ. Liều dùng từ 10 – 20 gam thuốc sắc.
Nhục quế (Cinnamomum cassia Blume)
Việt Nam là nơi có Quế nổi tiếng từ lâu đời như Quế ở Thanh Hoá, Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Quế có chứa tinh dầu cinnamaldehyt có tác dụng diệt khuẩn, chống đái tháo đường… Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng. Có tác dụng bổ hoả, hồi dương, ấm thận, tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích. Quế dùng làm thuốc cấp cứu do bị trúng hàn như lạnh chân tay, mạch chậm-nhỏ, hôn mê, đau bụng, trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hoá kém, tả lỵ, bí tiểu tiện, kinh bế, ung thư.
Phụ tử
Việt Nam có trồng ở Sa Pa, Mù Cang Chải. Phụ tử là củ rễ nhánh của Ô đầu. Từ củ Phụ tử chế biến ra Bạch phụ tử, Hắc phụ tử, Diêm phụ.
Phụ tử có Alcaloit là Aconitin, chất rất độc đối với tim nên phải được chế kỹ lưỡng và khi dùng phải thận trọng về liều lượng. Phụ tử có tác dụng hạ huyết áp, giảm đau, kích thích thần kinh, chống viêm. Phụ tử vị cay, ngọt, tính nhiệt, có độc mạnh. Phụ tử có tác dụng hồi dương cứu nghịch (lạnh chân tay, ra mồ hôi lạnh), trục phong hàn, tà thấp, bổ hoả. Dùng từ 1 – 10g (chế kỹ).
Qua phân tích trên, ta thấy học thuyết Thuỷ Hoả và thang Lục vị, Bát vị gia giảm được tiền nhân cấu tạo rất khoa học. Nhưng hiện nay nhiều vị lương y khi sử dụng tỏ ra nghi ngờ hiệu quả bài thuốc này. Có người cho rằng, có lẽ bệnh của thời naykhác với bệnh thời trước chăng? Theo chúng tôi thì nguyên nhân có thể do chất lượng các vị thuốc.
Hiện nay trên thị trường các vị thuốc này đều không đảm bảo: Thục địa được nấu sơ sài, không sấy khô, còn ẩm ướt, không thơm, không đảm bảo chất lượng. Sơn thù nhiều khi chỉ là vỏ và hạt, không có thịt. Hoài sơn làm từ củ khoai mì (củ sắn) được tẩy trắng, một số được làm từ khoai mỡ, khoai từ. Vị Phục linh, theo cố GS, L/Y Lê Minh Xuân, nguyên Viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc TP Hồ Chí Minh thì “trên thị trường phần lớn Phục linh chế sẵn là giả, được làm từ gạo ủ, không phải là nấm lỗ của cây Thông”. Mẫu đơn bì không biết được làm từ vỏ cây gì, được ướp hương liệu hoá chất cho thơm (ester), nhưng có độc. Nhục quế được lấy từ vỏ cành cây Quế nên ít tinh dầu, kém ngọt, thơm. Phụ tử rất độc nên việc bào chế và liều lượng khó kiểm soát.
Bài Lục vị có 6 vị, mà thuốc giả, thuốc kém chất lượng đã 3 – 4 vị rồi, thì còn đâu là bài thuốc bổ Thuỷ, bổ chân âm nữa. Nên thuốc uống vào thường gây nhiều phản ứng phụ như nóng xót, tiêu chảy, buồn nôn, mệt… Có cả hiện tượng của ngộ độc thuốc.
Khi sử dụng bài Lục vị, Bát vị gia giảm, chúng ta nên chú ý đến chất lượng và liều lượng của bài thuốc. Chất lượng bảo đảm thì hãy dùng, còn không thì nên thay vị thuốc khác thoả đáng hơn.

Trần Sỹ (CTQ số 98)

Tinh thần và bệnh tật



Một tạp chí Y khoa của trường Đại học Sorbone (Pháp) thuật lại câu chuyện người vợ sau khi xung đột mãnh liệt với chồng, liền cho con bú và đứa bé phải được đưa đi cấp cứu vì ngộ độc bởi những độc tố tiết ra trong sữa do cơn giận của người mẹ.
Câu chuyện trên là minh chứng đầy sức thuyết phục về sự liên quan mật thiết giữa tinh thần và thể xác. Điều đó cũng đã được xác nhận bởi nhiều nhà y học Đông Tây xưa nay. Do hệ thần kinh làm môi giới tinh thần, ảnh hưởng trực tiếp đến thể xác trong quá trình sống. Nhiều công trình nghiên cứu cho biết hầu hết các bệnh đều ít nhiều có nguyên nhân sâu xa ở tinh thần, sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng, ghen tuông ... đã tạo ra ; những trạng thái tinh thần tích cực như: tự tin, lạc quan, yêu đời, thanh thản ... ảnh hưởng tốt đẹp đến chức năng tạng phủ, bảo đảm duy trì được sức khỏe bền vững.
Y học phương Đông quy chúng thuộc phạm vi sang chấn tinh thần do thất tình (bảy yếu tố tinh thần) gây ra. Tây y cho chúng là những chấn thương tâm lý do căng thẳng (stress). Một điều đáng chú ý là những stress càng ngày càng tăng theo nhịp sống khẩn trương trong thời đại công nghiệp hóa. Nếu những tiến bộ y học đã đẩy lùi hàng loạt bệnh tật để kéo dài tuổi thọ cho con người thì nó lại phải đối đầu với một số bệnh phức tạp hơn, bắt nguồn từ nguyên nhân tinh thần. Theo công trình nghiên cứu thực nghiệm của các chuyên gia y học Anh, Pháp, Nhật và Mỹ, một số tổn thương tinh thần gây các bệnh sau : Nóng giận làm tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, xuất huyết ;  ưu phiền quá độ gây viêm niêm dịch, giảm sức đề kháng cơ thể. Rối loạn cảm xúc mảnh liệt gây liệt toàn thân; buồn bã và ân hận gây sỏi mật, thận, sút cân, lao phổi; khiếp đảm đột ngột gây ỉa chảy, trụy tim mạch, liệt dương. Thất vọng, tuyệt vọng gây loét dạ dày, tá tràng. Mừng quá độ gây rối loạn tuần hoàn. Lo nghĩ quá độ gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu. Bất mãn thường nhật gây hen suyễn. 
Xét theo quan điểm Đông y, những khám phá trên có nhiều điểm tương đồng. Y lý cổ truyền cho rằng : mừng quá hại tâm, lo nghĩ quá hại tỳ vị, nóng giận quá hại can, sợ quá hại thận, buồn quá hại phế. Ta thấy Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận có quan hệ mật thiết (quan hệ biểu lý) với mật, dạ dày, đại trường, tiểu trường, bàng quang và căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc của chúng trên phương diện ngũ hành, từ đó chúng ta thấy tuy bệnh danh có khác, nhưng xét tính chất và nguồn xuất phát thì không khác nhau mấy. Mặt khác, tinh thần cũng cần những thực phẩm bổ dưỡng trong lành. Vì thế, món ăn tinh thần mà ta “ăn” hàng ngày thông qua sách vở, báo chí, phim ảnh, giao tiếp ... cũng là điều rất quan trọng để phòng bệnh và góp phần chữa bệnh cho chúng ta.

Phan Hồng Long (CTQ số 90)

Điều trị rung tâm nhĩ bằng Đông y



LTS: Trong Tử Siêu y thoại, Lương y Nguyễn Tử Siêu có giới thiệu kinh nghiệm của bạn đồng nghiệp là L.Y Trần Cung, người miền Nam tập kết ra Bắc, công tác ở Bệnh viện Hòa Bình (Hải Phòng) có cách dùng thuốc rất táo bạo: Phụ tử có khi dùng tới 1 lạng, lạng rưỡi trong mỗi thang, có người thấy ông kê đơn đều phải lè lưỡi. Nhưng vì ông chẩn bệnh rất đúng, nên cương quyết dụng dược, không chút rụt rè… Do đó đối với loại bệnh mạn tính, người khác có khi phải chữa đến 30, 40 thang, mà đến tay ông chỉ mươi thang đã thu được kết quả. 

Bệnh án dưới đây tuy chỉ dùng đến 20g Phụ tử, nhưng CTQ tự thấy có trách nhiệm cảnh báo trước: Đây là kinh nghiệm lâm sàng dành cho đồng nghiệp tham khảo, người bệnh dù thấy triệu chứng tương tự cũng không được tự tiện y cứ theo đơn mua thuốc chữa bệnh. Muốn điều trị bệnh phải có thầy thuốc chuyên môn trực tiếp thăm khám và chỉ định cụ thể mới đảm bảo hiệu quả và an toàn.
CTQ
Rung tâm nhĩ là bệnh cảnh lâm sàng thường gặp đối với bệnh tim. Điều trị chủ yếu là thuộc loại các thuốc chẹn bê - ta, hoặc dùng sốc điện để tái lập lại các đường dẫn truyền. Nhưng kết quả thường hay tái phát, có khi tồn tại dai dẳng gây nhiều khó khăn cho thầy thuốc cũng như bệnh nhân.
Từ 1993 trở lại đây, dựa vào biện chứng luận trị, chúng tôi đã điều trị có kết quả một số ca rung nhĩ bằng thuốc đông y, xin nêu một bệnh án điển hình : 
Bệnh nhân nữ Nguyễn Thị X. 55 tuổi, cán bộ hưu trí, thường trú xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ngày 29/3/1993, bệnh nhân đến khám với lý do: nghẹn thở, khó chịu ở ngực người rất mệt mỏi, không ăn không ngủ được.Bệnh nhân khai từ nhiều tháng nay, người rất mệt mỏi, yếu sức, có những cơn nghẹn thở, trước ngực rất khó chịu, cảm giác không thể diễn tả được. Bệnh nhân thường hay bị ngất, người nhà phải cạo gió xoa dầu nóng một lát mới tỉnh lại. Thường ngày, cảm thấy đói bụng nhưng không muốn ăn, ăn vào thì mệt, đêm ngũ rất khó. Đại tiểu tiện bình thường. Có đi khám bác sĩ tư, tiêm thuốc và cho thuốc về uống nhưng không đỡ.
* Tiền sử:Thường đau yếu luôn, bác sĩ bảo bị yếu tim, ba năm nay lại bị đau thần kinh tọa vừa mới đỡ.
* Khám : Tổng trạng gầy, xanh xao, niêm mạc mắt nhạt. Lưỡi đạm, không rêu, mặt lưỡi láng bóng và mỏng. Tiếng nói yếu ớt, đi lại chậm chạp. Huyết áp: 110/70 mmHg. Mạch: 60 lần/phút. Nhịp thở 18 lần/phút.
Hiện tại không có dấu hiệu khó thở, không tím tái, nhưng phù nhẹ mặt và hai mi mắt.
• Tim: Mỏm ở liên sườn V, cách bên trái đường trung đòn phải 2cm. Nghe tim thấy có ngoại tâm thu liên tục (loạn nhịp hoàn toàn), không nghe âm thổi.
• Phổi: Ran ẩm to hạt ở hai đáy.
* Chẩn mạch: Hai bộ thốn và xích trầm vi, hai bộ quan huyền nhược (bên trái vi nhược hơn bên phải), kết đại.
* Chẩn đoán sơ bộ: Rung tâm nhĩ do suy tim toàn bộ.
Cho đi làm điện tâm đồ để xác định chẩn đoán. Kết quả điện tâm đồ: Rung tâm nhĩ, lệch dẫn truyền.
* Biện chứng đông y: Âm Dương lưỡng hư, Tâm khí bất túc, tâm huyết ứ tắc.
* Phép chữa: Bổ dương liễm âm, ích khí hoạt huyết.
* Phương thuốc: Dùng bài Nhân sâm dưỡng vinh gia 
Kiết lâm sâm   20 g
Chích kỳ   20 g
Đương quy 16 g 
Bạch truật 20 g 
Bạch thược 12 g 
Bạch linh 6 g 
Nhục quế 4 g  (Tán bột gói riêng, hòa vào thuốc sắc)
Trần bì 6 g
Viễn chí 6 g 
Xương bồ   8 g 
Hắc táo nhân 12 g 
Ngũ vị tử 4 g 
Chế phụ tử  8 g 
Đào nhân 12 g 
Hồng hoa 8 g 
Sinh khương 12 g 
Đại táo 3 quả
Bốc 4 thang, sắc uống.
Ngày 2/4/1993 tái khám: Tổng trạng bệnh nhân khá hẳn, bớt mệt, da đã có sắc hồng, cảm thấy dễ thở hơn. Nghe tim vẫn còn ngoại tâm thu nhưng những nhát bóp đều hơn, không âm thổi. Xem mạch thấy hai bộ thốn đã có mạch rõ hơn, đều hơn, nhưng bộ quan xích còn trầm vi lắm.
Chúng tôi giữ y theo thang thuốc trước, cho uống tiếp 12 thang nữa.
Ngày 14/4/1993 tái khám: Bệnh nhân khá hẳn lên, tinh thần phấn khởi. Huyết áp 110/70 mmHg, Mạch 68 lần/phút, nhưng vẫn ăn chưa ngon, khó ngũ. Nghe tim các nhát bóp rõ hơn, đều hơn... nhưng vẫn còn ngoại tâm thu nhịp 2, nhịp 3. Chẩn mạch thì lưỡng thốn tế, quan xích vẫn rất vi, gần như không có mạch.
Tiếp tục uống đến thang thứ 20, tình hình vẫn không tiến triển thêm.
Ngày 18/4/1993, chúng tôi quyết định vẫn giữ nguyên phương cũ, tăng chế phụ tử lên hai mươi gam (20 gam), và cho sắc trước, giữ sôi 30 phút, bốc từng thang một cho bệnh nhân mang về nhà sắc uống.
Uống thang thứ nhất, bệnh nhân nghe khắp thân thể đau nhừ như bị ai đánh, có cảm giác đầy nghẹn ở cổ. Khám nghe tim T1, T2 rõ, đều thỉnh thoảng mới có một nhịp ngoại tâm thu. Chẩn mạch thì hai tay ba bộ đều có mạch rõ ràng, tượng huyền, hơi sắc.
Căn cứ vào nghe tim và chẩn mạch như trên, chúng tôi giữ nguyên thang thuốc với lượng phụ tử hai mươi gam, cho uống cách nhật, đến thang thứ 5 thì xuất hiện dấu hiệu ngộ độc phụ tử:
- Bệnh nhân than mệt ngực trở lại.
- Nghe tim xuất hiện loạn nhịp nhanh, kiểu ngoại tâm thu nhịp 3 nhanh, tần số 86 lần/phút. Chẩn mạch lại thấy mạch trầm vi kết đại như lúc đầu. Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt, không buồn nôn, không nôn. Huyết áp 110/70mmHg.
Vẫn y phương cũ, khử phụ tử, gia giảm cho uống tiếp 5 thang nữa, mọi triệu chứng bệnh đều khỏi, bệnh nhân khỏe, nghe tim và chẩn mạch đều bình thường. Theo dõi đến mười năm sau, không thấy tái phát.
* Bàn luận: Nhân Sâm Dưỡng Vinh (NSDV) là bài thuốc thường dùng trên lâm sàng, để điều trị các chứng tâm hỏa hư, âm dương lưỡng hư. ở đây, dùng NSDV gia phụ tử để tăng cường sức bổ hỏa. Nhưng trong trường hợp này, nếu không tăng phụ tử lên đến liều hai mươi gam, và không uống đến ngộ độc phụ tử, thì e rằng không cắt hẳn được cơn rung nhĩ mà không bị tái phát trong thời gian lâu như vậy. (Vì uống đến thang thứ 4, nghe tim vẫn còn ngoại tâm thu. Đây là dấu chứng báo hiệu rung nhĩ sẽ tái phát).
Đến thang thứ 5, xuất hiện dấu hiệu ngộ độc Aconitine, biểu hiện trên tim là loạn nhịp ngoại tâm thu nhịp đôi, nhịp ba nhanh. Mạch cũng thấy trầm vi, kết đại. Trầm vi là hàn, kết đại là hàn cực. Phụ tử là thuốc đại ôn nhiệt, nhưng dùng quá thì lại sinh hàn. Đây là nguyên lý nhiệt cực sinh hàn, vật cực tắc phản. Từ chỗ hỏa hư nên phải bổ hỏa. Nhưng bổ hỏa cho đến cái giới hạn hơi quá một chút, khiến hỏa bị “ức chế đột ngột”, đích thực là làm cho tim bị sốc vì hỏa. Chúng tôi trộm nghĩ cơ chế cắt cơn rung nhĩ trong trường hợp này, tương tự như làm sốc điện trên tim.
Những nghiên cứu dược lý lâm sàng gần đây của Trung Quốc cũng chứng minh tác dụng cường tim của phụ tử. Phải chăng do vậy mà Phụ tử được xếp vào nhóm thuốc ĐộC BảNG A?

Phạm Ngọc Cảnh