Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Cấp cứu đột quỵ bằng y học cổ truyền


Trong các chứng tai biến mạch não, việc  xử lý cấp cứu có tác dụng ngăn chặn xuất huyết và phục hồi nhanh dòng máu lưu thông đến não có ý nghĩa quyết định  trong  điều trị và phục hồi hoàn toàn căn bệnh này.
Tai biến mạch não là một thể rối loạn tuần hoàn não cấp, dễ dẫn đến tử vong do việc cung cấp máu lên một phần não bị gián đoạn.  Việc gián đoạn dòng máu lên não có thể do vỡ mạch máu não, hoặc do hình thành một cục máu đông, hay do xơ vữa làm nghẽn mạch máu não.  Bệnh thường xảy ra khi người bệnh trải qua một sự thay đổi không khí đột ngột từ nóng sang lạnh, bị gió lùa, sau một nỗ lực gắng sức, sau khi uống rượu hoặc bị một xúc động mạnh.
Nhận dạng nguy cơ tai biến mạch máu não
Các triệu chứng thường xảy ra đột ngột nên còn gọi là đột quỵ.  Triệu chứng thần kinh xảy ra tương ứng với khu vực não không được cung cấp máu.  Người bệnh có thể bị tê, yếu hoặc liệt hẳn ở một bên tay hoặc chân, đột nhiên giảm thị lực hoặc nói năng khó khăn, giảm khả năng phán đoán…  Có thể nhức đầu hoặc không.  Một số người có thể có một số dấu hiệu báo trước vài giờ hoặc vài ngày trước khi tai biến xảy ra.  Dấu hiệu này có thể làbuồn nôn, chóng mặt, tê bì một bên tay hay chân hoặc một thoáng mất ý thức. Qua nghiên cứu và tổng hợp những triệu chứng thường gặp nhất, người ta đưa ra một phương pháp trắc nghiệm nhanh dựa trên 3 tiêu chuẩn STR để nhận dạng một người đang có nguy cơ bị đột quỵ cần phải xử lý.  STR là các ký tự đầu của 3 từ Smile (mỉm cười), Talk (nói) và Raise (nâng lên).  Do đó, cần xử lý cấp cứu và chuyển viện ngay nếu một người  đột nhiên xảy ra một trong 3 triệu chứng:
Smile.  Hãy thử mỉm cười.  Người này không thể mỉm cười được.
Talk.  Yêu cầu người đó nói một câu đơn giản. Ví dụ: Hôm nay trời đẹp.  Người này không thể nói hoặc nói ngọng, nói không tròn tiếng.
Raise.  Hãy yêu cầu người đó nâng hai cánh tay hoặc hai bàn tay lên thì  họ không thể nâng được hai cánh tay, hoặc yếu hay liệt hẳn một bên.

Tại sao cần xử lý cấp cứu tại chỗ ?

Thống kê cho thấy khoảng phân nửa số người đột quỵ bị tử vong là do không được cứu chữa kịp thời trong vòng 3 giờ đầu tiên kể từ khi triệu chứng xảy ra.  Nghiên cứu của Bác sĩ Jeffrey L. Saver tại trường Đại học California, Hoa Kỳ cho biết cứ mỗi phút trôi qua mà chưa được điều trị não sẽ mất đi 1,9 triệu tế bào thần kinhdẫn đến mất đi 14 tỉ synap (chỗ nối thần kinh) và khoảng 7,5 dặm các sợi thần kinh!  Do đó, cần phải nhanh chóng giải toả chỗ bế tắc để phục hồi việc tưới máu lên não.  Điều khó khăn là việc tiếp cận kịp thời một cơ sở y tế chuyên môn có đủ phương tiện và điều kiện để giải quyết những trường hợp đột quỵ thường nằm ngoài tầm tay của nhiều người.  Không kể những người bệnh ở những nơi hẻo lánh, xa thầy xa thuốc, ở nhiều vùng đô thị, việc đưa đến các cơ sở đa khoa và các phòng mạch thông thường chỉ được làm chậm trễ và tuột khỏi cơ hội cứu sống người bệnh.
Ngoài ra, nếu chưa được xử lý thích hợp, việc di chuyển, xê dịch người bệnh còn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng xuất huyết.  Ngược lại, một số biện pháp xử lý nhanh của y học dân gian nhằm khu phong hoá ứ và kích hoạt lưu thông khí huyết ở vùng đầu thường  tỏ ra khá hữu dụng trong những trường hợp này.
Xử lý cấp cứu
Khi nhận ra một người đang có dấu hiệu đột quỵ, dù người đó đang còn ngồi, đứng hay đã quỵ xuống, đã hôn mê hay còn ý thức, người bên cạnh hãy bình tĩnh và thực hành lần lượt các bước sau đây trước khi chuyển họ đến cơ sở chuyên môn cần thiết.
Đặt bệnh nhân nằm xuống nhẹ nhàng.  Tránh tối đa việc xê dịch người bệnh để không làm trầm trọng thêm tình trạng xuất huyết.
Tìm ngay một cây kim khâu.  Hơ đầu kim vào lửa để sát trùng.
Lần lượt chích lễ 10 đầu ngón tay của người bệnh.  Dùng bàn tay trái giữ lấy lóng cuối chỗ gần đầu ngón tay người bệnh, dùng 3 ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải cầm kim chích nhanh vào chỗ cao nhất của đầu ngón tay người bệnh.  Rút kim ra và nặn nhẹ từ chỗ đã chích ra một hay hai giọt máu.  Những đầu ngón tay là vị trí của huyệt Thập tuyên, nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh rất nhạy cảm.  Theo thuyết phản xạ thần kinh cũng như thuyết toàn đồ, đầu ngón tay tương ứng với phần đầu của cơ thể và đỉnh nhọn của ngón tay ứng với huyệt Bách hội ở đỉnh đầu.  Ngoài ra, động tác chích lễ lại có tính “tả” và kích thích rất mạnh.  Do đó, có thể nói chích lể các đầu ngón tay là biện pháp đặc hiệu để kích thích tỉnh thần và khu phong hoá ứ ở khu vực đầu cũng như não bộ.  Động tác này vừa có thể ngăn chặn đột quỵ hoặc phục hồi não từ tình trạng hôn mê lại vừa có thể loại bỏ tức thời yếu tố “phong”, nguyên nhân trực tiếp gây ra tai biến.  Mặt khác, tác động vào các đầu ngón tay cũng là gián tiếp tác động vào huyệtBách hội nên có ý nghĩa kích hoạt sự thăng giáng của các đường kinh dẫn đến thông kinh hoạt lạc, tiêu trệ hoá ứ, giúp giải quyết việc ứ huyết và điều hoà kinh khí toàn thân. Đợi vài phút sau người bệnh sẽ tỉnh lại. Nếu miệng hoặc mắt người bệnh còn méo lệch sang một bên, hãy dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ của hai bàn tay vuốt cùng lúc cả hai vành tai người bệnh.  Vuốt từ trên xuống dưới.  Vuốt nhẹ và vuốt liên tục nhiều lần cho đến khi hai vành tai hồng đỏ lên. Dùng bàn tay trái bóp nhẹ vào phần trên của vành tai người bệnh và chích vào chỗ cao nhất của vành tai (huyệt Nhĩ tiêm). Nặn ra một vài giọt máu. Đến đây chúng ta có thể an tâm chuyển người bệnh đến cơ sở chuyên môn để được kiểm soát và chăm sóc các bước tiếp theo để ổn định sức khoẻ lâu dài.  Hầu hết các trường hợp tai biến não được xử lý cấp cứu kịp thời theo phương pháp này đều hồi phục tốt.  Vấn đề còn lại là tuân thủ một chế độ sinh hoạt, ăn uống và luyện tập hợp lý để tăng cường sức đề kháng và kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể gây ra đột quỵ như cao huyết áp, cholesterol máu cao, béo phì, tiểu đường.
VÕ HÀ (CTQ số 114)

THẬP NHỊ ĐOẠN CẨM – “Bài thuốc” quý!

1) Cắn răng: Hai hàm răng nhẹ nhẹ cắn vào nhau 36 lần.
2) Nuốt nước bọt: Trong lòng thanh thản, lấy đầu lưỡi ngoáy trong mồm để nước bọt ra đầy mồm, rồi súc miệng 36 lần, nuốt nước bọt làm 3 lần và dùng ý niệm đưa nước bọt xuống Đan điền (Vùng dưới rốn khoảng 2cm, sâu bên trong khoảng 1cm).
Hai động tác 1) và 2) trên, nếu thực hiện đều đặn sẽ rất có hiệu quả cho hệ tiêu hóa (dạ dày, đại tràng, tiểu tràng).
3) Rửa mặt: Hai tay xoa vào nhau cho nóng lên, rồi xoa lên mặt từ 2 khóe miệng lên cánh mũi ra 2 bên má, lên 2 bên thái dương, lại kéo xuống cằm. Làm đi làm lại nhiều lần, xoa đến khi mặt nóng lên là được.
Nếu có thời gian, có thể thêm:
a) Day mắt: Mắt nhắm, dùng 2 ngón tay giữa vuốt nhẹ 2 mắt từ khóe mắt ra đuôi mắt 36 lần. Sau đó, mỗi bên dùng 2 ngón trỏ và ngón giữa miết nhẹ từ đầu lông mày lên trên sát lông mày ra tới đuôi lông mày rồi vòng xuống dưới mắt kéo sang khóe mắt 36 lần.
Tiếp theo, dùng ngón trỏ day các huyệt: Tình minh (ở đầu khóe mắt, sát mũi), Toản trúc (ở đầu lông mày, chỗ lõm), Ngư yêu (ở giữa lông mày, chỗ lõm), Ty trúc không (ở sát đuôi lông mày, chỗ lõm), Đồng tử liêu (ở sát đuôi mắt, chỗ lõm), mỗi huyệt 50 lần.
Chú ý: Khi day, phải có cảm giác căng, tức mới là đúng huyệt và có hiệu quả.
(Sau khoảng thời gian 5 – 6 tháng, day các huyệt về mắt trên, khi đọc sách, báo tôi không cần đeo kính lão, trừ trường hợp chữ quá nhỏ! – Nguyễn Chu Công).
b) Day huyệt Ấn đường (ở giữa hai đầu lông mày, thẳng sống mũi lên) 50 lần, và huyệt Thái dương (ở chỗ lõm phía ngoài huyệt Đồng tử liêu 0,5 thốn – tức khoảng 1cm), mỗi huyệt 50 lần. Sau đó dùng những ngón tay trỏ, giữa, áp út miết trán từ huyệt Ấn đường ra 2 bên Thái dương 36 lần, xoa 2 bên Thái dương theo chiều lên, xuống 36 lần, rồi dùng bàn tay xoa trán theo chiều từ phải sang trái và ngược lại 36 lần.
c) Day huyệt Nghênh hương (ở sát gần 2  cánh mũi) 36 lần, rồi dùng 2 ngón trỏ và giữa miết 2 bên miết 2 bên mũi từ huyệt Tình minh trở xuống đến Nghênh hương 36 lần.
d) Xoa huyệt Nhân trung (điểm 1/3 trên và 2/3 dưới của rãnh Nhân trung dưới sống mũi) dùng ngón trỏ bàn tay phải xoa ngang từ phải sang trái và ngược lại 36 lần; Đồng thời xoa huyệt Thừa tương (chỗ lõm giữa rãnh môi và cằm), dùng ngón trỏ bàn tay trái xoa như trên 36 lần.
4) Gõ trống trời: Kẹp 2 vành tai bằng ngón trỏ và ngón giữa, xoa nhẹ theo chiều lên xuống 36 lần. Sau đó, hai tay bịt tai, ngón trỏ đặt lên ngón giữa rồi bật mạnh xuống gáy 24 lần.
5) Động huyệt Cao hoang: (Tức huyệt Cao hoang du, dưới đốt sống thứ bốn ngang ra mỗi bên 3 thốn (khoảng 6,5 cm). Có tác dụng chữa lao phổi, hen suyễn, ho ra máu, di mộng tinh, tiêu hóa kém, suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, thiếu máu, tỳ vị hư nhược – Ghi chú của tác giả bài này): Đứng thẳng người, hơi cúi phía trước, 2 tay xuôi xuống hơi đưa ra phía trước, hai vai quay sang trái để mắt nhìn thấy gót chân phải rồi ngược lại 36 lần.
6) Đỡ trời: Nắm 2 tay, sau khi hít, nín thở, đồng thời tay trái xòe ra hướng lên trời, sau đó từ từ bỏ xuống, làm 3 lần, rồi chuyển sang tay phải, làm như bên 3 lần.
7) Bắn cung phải, trái: Nín thở, tay trái đưa thắng ra phía trước, tay phải làm động tác kéo dây cung. Tay phải, tay trái đổi động tác cho nhau, mỗi bên 3 lần.
8) Xoa Đan điền: Xoa 2 bàn tay cho nóng lên, rồi tay trái để vào chỗ thận trái, tay phải xoa Đan điền theo chiều trái – phải. Hai tay thay đổi nhau, mỗi tay 36 lần.
9) Xoa huyệt Nội thận: Nín thở, hai tay xoa cho nóng, tay trái áp vào Đan điền, tay phải xoa huyệt Mệnh môn (chính giữa thắt lưng, dưới đốt sống thắt lưng thứ 2. Tác dụng: Đau vùng thắt lưng, cứng hay yếu thắt lưng, đau đầu, chân hỏa hư, lạnh từ đầu gối trở xuống, di mộng tinh, khí hư, bế kinh, đái đục, sốt không ra mồ hôi, trẻ em lên cơn co giật uốn ván – Ghi chú của tác giả bài này) 36 lần.
10) Xoa huyệt Dũng tuyền: Tay trái cầm bàn chân trái lên, tay phải xoa vào lòng bàn chân trái 36 lần, lại đổi sang chân phải. (Khi xoa cần ấn mạnh vào chỗ lõm, điểm 1/3 trên và 2/3 dưới của đoạn thẳng nối đầu ngón chân thứ 2 – sát ngón chân cái với điểm giữa bờ sau gót chân. Huyệt này có tác dụng chữa đỉnh đầu đau, hội chứng tiền đình, bệnh thận, mặt đen xạm, mắt hoa, viêm họng, viêm amidan, lưỡi khô, trẻ em kinh phong, điên cuồng, cơ thể suy nhược, gan bàn chân nóng, chứng âm hư hỏa vượng - Ghi chú của tác giả bài này).
11) Xoa huyệt Hiệp tích: Xoa khe xương ngực giữa số 3 và số 4: 36 lần (tức hai huyệt Linh khư và Ưng song đều có tác dụng chữa ho suyễn, đau tức sườn ngực, đau vú, nôn, không muốn ăn - Ghi chú của tác giả bài này).
12) Vẩy chân: Chân trái đứng yên, chân phải nhấc lên, vẩy 7 lần, lại đổi sang chân trái, vẩy 7 lần (có tác dụng đối với các khớp gối và khớp cổ chân).
Nguyễn Chu Công

Học thuyết Thuỷ Hoả và bài “Lục vị – Bát vị”

Học thuyết Thuỷ Hoả và bài “Lục vị – Bát vị”  



Học thuyết Thuỷ Hoả luôn đi với bài “Lục vị – Bát vị”. Từ khi nó ra đời đến nay đã 300 năm được nhiều danh y ca ngợi, thành phẩm cũng được bào chế khắp nơi. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng và hiệu quả của các vị thuốc trong bài này, còn nhiều vấn đề phải bàn bạc. chúng tôi xin có vài nhận xét về việc sử dụng bài thuốc trên thị trường hiện nay.

Đôi nét về học thuyết Thuỷ Hoả và bài Lục vị - Bát vị

Học thuyết Thuỷ Hoả được Phùng Triệu Trương, hiệu Sở Chiêm (1617 – 1700) ở Tô Châu, tỉnh Triết Giang, khởi xướng và phát triển từ học thuyết Mệnh môn, trong bộ “Phùng Thị Cẩm Nang” 50 quyển, in năm 1702 đời nhà Thanh và chuyên sử dụng Lục Vị, Bát Vị.
Học thuyết Thuỷ Hoả quan niệm: Lúc có thai thì hai quả thận hình thành đầu tiên. Thận là gốc của tiên thiên, gồm cả Thuỷ lẫn Hoả và Thận chi phối đến sức khoẻ, cuộc sống con người. Thận trái là Thận âm, chủ thuỷ, sinh huyết, sinh tinh, sinh tinh dịch, đàm ẩm. Thận bên phải là Thận dương, chủ hoả là chánh khí. Âm Thuỷ – Dương Hoả lưu hành trong con người phải cân bằng nhau thì con người mới khoẻ mạnh. Nếu bên tả Thận âm suy thì dẫn đến các chứng thuỷ khô, huyết táo, làm cho hoả động sinh nóng rát, đỏ mặt ho hen, khó ngủ… phải dùng thang Lục vị để bổ thuỷ cho bằng với Hoả. Nếu Dương Hoả hư do Âm Thuỷ mạnh lên, gấy mất cân bằng, làm Thận Hoả không yên, long hoả bốc lên, gây chứng phong hoả như nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi… phải dùng thang Bát vị để bổ Hoả, bổ dương khí, làm ấm Thận Dương, đưa phù du hoả trở về Thận.
Bài "Lục vị" được Tiền ất (1032 – 1113) ở Sơn Đông, lấy bài “Kim Quỹ Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh (145 – 208), bỏ vị Quế chi, Phụ tử mà thành; Chuyên dùng để bổ chân âm cho trẻ em. Bài “Lục vị hoàn” có Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Mẫu đơn bì, Phục linh. Phùng Triệu Trương dùng bài Lục vị để bổ Thuỷ, bổ chân Âm.
Bài “Bát vị”, Phùng Triệu Trương lấy bài “Thận Khí hoàn”, thay vị Quế chi bằng Nhục quế để bổ Hoả, bổ chân Dương, chữa các chứng Thận hư, tiểu tiện không thông lợi (Bát vị tức Lục vị thêm Phụ tử, Nhục quế).
Thật ra bài “Thận khí hoàn” của Trương Trọng Cảnh đã được Thôi Tri Đệ (615 – 685) thay vị Quế chi bằng vị Quế tâm, gọi là “Thôi Thị Bát Vị hoàn”, để chữa các chứng cước khí làm bụng dưới tê cứng. Trương Cảnh Nhạc (1583 – 1640) cũng lấy bài “Thận khí hoàn”, bỏ Trạch tả, Đơn bì, Phục linh và thêm vào các vị bổ Dương: Câu kỷ tử, Chích thảo, Đỗ trọng, thay Quế chi bằng Nhục quế; Thành bài “Hữu quy ẩm” để bổ Thận Dương, Cảnh nhạc cũng dùng bài Lục vị, bỏ Trạch tả, Đơn bì, thêm vào Kỷ tử, Chích thảo thành bài “Tả Quy ẩm” để tư âm chủ trị thận âm bất túc, làm đau lưng, mỏi gối, di tinh, đạo hãn, miệng khô, họng ráo…
Lê Hữu Trác (1920 – 1791), trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” và danh y Hoàng Nguyên Cát (1702 – 1779) trong “Quỳ viên gia học” rất tâm đắc học thuyết Thuỷ Hoả và sử dụng bài Lục Vị, Bát Vị.
Hãy thận trọng với chất lượng thuốc trong bài Lục Vị, Bát Vị
Bài Lục Vị, Bát Vị đã được nhiều thế hệ lương y tâm đắc, nhưng hiện nay nhiều người sử dụng chẳng những không có hiệu quả, mà còn có dấu hiệu không an toàn. Chúng ta hãy xem lại tính vị của hai phương thuốc này và tìm hiểu tình hình các vị thuốc có trên thị trường hiện nay.
Thục địa (Rhemannia glutinosa)
Thục địa được nấu từ Sinh địa hoàng, cây di thực vào nước ta từ năm 1958 và trồng thực nghiệm ở Trại dược liệu Văn Điển. Cây phát triển tốt và sau đó được trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt…nhưng năng suất thấp. Đến nay ta phải nhập nên đắt (30000 – 40000đ/kg Sinh địa).
Trong củ Địa hoàng có chứa nhiều glucosit như: Rehmaniosit, rehmapicrosit, axit amin… Địa hoàng có vị ngọt, đắng, tính lạnh, có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, sinh huyết, cầm máu. Dùng chữa âm hư, sốt âm, khát nước, đái tháo đường, thiếu máu, bổ huyết, băng huyết, chảy máu cam, kinh nguyệt không đều, động thai, ban chẩn, viêm họng, tân dịch khô, tâm thận không yên, phiền táo, mất ngủ. Thục địa tư âm dưỡng huyết, bổ thận; chữa âm hư, huyết suy, sốt âm, ho suyễn, điều kinh, bổ huyết, di tinh, viêm thận. Liều dùng từ 10g – 30g dạng thuốc sắc.
Sơn thù du (Cornus officinadis)
Sơn thù du phải nhập từ Trung Quốc. Việt Nam cũng có ở Chư Yan Sin, Sa Pa, Ba Vì...nhưng thuộc chi khác. Khi dùng bỏ hạt gọi là Táo nhục. Sơn thù chống loạn nhịp tim, kháng khuẩn đối với trực khuẩn thương hàn, lỵ… Sơn thù du có vị chua, tính bình. Bổ can thận, sáp tinh, thông khiếu, cầm mồ hôi. Dùng tán phong hàn, chữa đau đầu, đau thắt lưng, gối mỏi, ù tai, thận suy, đa niệu, di tinh, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm. Liều dùng 6 – 12g, dạng thuốc sắc.
Hoài sơn (Pioscorea persimilis)Còn có tên là Củ mài, Sơn dược. Hoài sơn có nhiều ở nước ta. Là loại củ dễ trồng, cho năng xuất cao. Hoài sơn chứa nhiều tinh bột, mucrin (protein nhớt). Allantoin, các axít amin, arginin, cholin và men maltaza… Hoài sơn vị ngọt, tính bình vào kinh phế, tỳ, vị, thận. Có công dụng bổ tỳ vị hư nhược, sinh tân dịch, ích phế, bổ thận, chỉ khát, chữa viêm ruột kinh niên, tiêu chảy lâu ngày, phế hư, ho hen, bệnh đái tháo đường, di tinh, bạch đới...
Phục linh (Poria cocos Wolf) Họ Nấm lỗ
Là loại nấm ký sinh trên rễ cây Thông. Nấm có hình khối, to nhỏ không đều nhau từ bằng nắm tay đến khoảng 5 kg. Có ở Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Việt Nam. Loại có mặt cắt bên trong màu trắng gọi là Bạch linh, loại có màu hồng xám gọi là Xích linh, loại có rễ Thông xuyên qua gọi là Phục thần.
- Phục linh có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng tăng cường miễn dịch, an thần, chống viêm loét dạ dày, hạ đường huyết, bảo vệ gan, lợi thuỷ…
- Bạch linh lợi thuỷ, trừ thấp, tiêu thũng, chống phù, bổ tỳ, chữa bụng đầy trướng, chữa tiêu chảy, suy nhược, di tinh, chóng mặt, an thần.
Mẫu đơn bì hay Đơn bì (Paeonia moutan Suns. Họ Hoàng liên)
Mẫu đơn là loại hoa quý, được trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Việt Nam đã di thực về trồng ở Sa Pa, nhưng hiện đã bị mất giống. Rễ đơn bì có tác dụng chống co thắt, chống viêm, giảm đau, an thần, ức chế sự sinh sôi của E coli, Baccillus subtilis, staphylococcus aureus…  Mẫu đơn bì vị cay, đắng, mùi thơm, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, hạ sốt, tan máu ứ, giảm đau, dùng thuốc trấn kinh, chữa sốt âm kéo dài, chữa đau đầu, viêm rễ thần kinh, các bệnh kèm co giật, phòng và trị bệnh tắc mạch do huyết khối, đau ngực, chống đông máu, viêm da dị ứng, mụn nhọn, lở loét, viêm phổi, sốt xuất huyết, chữa nhiễm khuẩn, chữa viêm gan cấp…
Liều dùng từ 6 – 12g.
Trạch tả (Alisma plantage aquatica L.) còn có tên là Mã đề nước.
Có nhiều loại làm Trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng lợi thuỷ, thẩm thấp, thanh nhiệt. Dùng chữa bệnh thuỷ thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó, đái ra máu, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, đái tháo đường, cao huyết áp, gan nhiễm mỡ. Liều dùng từ 10 – 20 gam thuốc sắc.
Nhục quế (Cinnamomum cassia Blume)
Việt Nam là nơi có Quế nổi tiếng từ lâu đời như Quế ở Thanh Hoá, Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Quế có chứa tinh dầu cinnamaldehyt có tác dụng diệt khuẩn, chống đái tháo đường… Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng. Có tác dụng bổ hoả, hồi dương, ấm thận, tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích. Quế dùng làm thuốc cấp cứu do bị trúng hàn như lạnh chân tay, mạch chậm-nhỏ, hôn mê, đau bụng, trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hoá kém, tả lỵ, bí tiểu tiện, kinh bế, ung thư.
Phụ tử
Việt Nam có trồng ở Sa Pa, Mù Cang Chải. Phụ tử là củ rễ nhánh của Ô đầu. Từ củ Phụ tử chế biến ra Bạch phụ tử, Hắc phụ tử, Diêm phụ.
Phụ tử có Alcaloit là Aconitin, chất rất độc đối với tim nên phải được chế kỹ lưỡng và khi dùng phải thận trọng về liều lượng. Phụ tử có tác dụng hạ huyết áp, giảm đau, kích thích thần kinh, chống viêm. Phụ tử vị cay, ngọt, tính nhiệt, có độc mạnh. Phụ tử có tác dụng hồi dương cứu nghịch (lạnh chân tay, ra mồ hôi lạnh), trục phong hàn, tà thấp, bổ hoả. Dùng từ 1 – 10g (chế kỹ).
Qua phân tích trên, ta thấy học thuyết Thuỷ Hoả và thang Lục vị, Bát vị gia giảm được tiền nhân cấu tạo rất khoa học. Nhưng hiện nay nhiều vị lương y khi sử dụng tỏ ra nghi ngờ hiệu quả bài thuốc này. Có người cho rằng, có lẽ bệnh của thời naykhác với bệnh thời trước chăng? Theo chúng tôi thì nguyên nhân có thể do chất lượng các vị thuốc.
Hiện nay trên thị trường các vị thuốc này đều không đảm bảo: Thục địa được nấu sơ sài, không sấy khô, còn ẩm ướt, không thơm, không đảm bảo chất lượng. Sơn thù nhiều khi chỉ là vỏ và hạt, không có thịt. Hoài sơn làm từ củ khoai mì (củ sắn) được tẩy trắng, một số được làm từ khoai mỡ, khoai từ. Vị Phục linh, theo cố GS, L/Y Lê Minh Xuân, nguyên Viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc TP Hồ Chí Minh thì “trên thị trường phần lớn Phục linh chế sẵn là giả, được làm từ gạo ủ, không phải là nấm lỗ của cây Thông”. Mẫu đơn bì không biết được làm từ vỏ cây gì, được ướp hương liệu hoá chất cho thơm (ester), nhưng có độc. Nhục quế được lấy từ vỏ cành cây Quế nên ít tinh dầu, kém ngọt, thơm. Phụ tử rất độc nên việc bào chế và liều lượng khó kiểm soát.
Bài Lục vị có 6 vị, mà thuốc giả, thuốc kém chất lượng đã 3 – 4 vị rồi, thì còn đâu là bài thuốc bổ Thuỷ, bổ chân âm nữa. Nên thuốc uống vào thường gây nhiều phản ứng phụ như nóng xót, tiêu chảy, buồn nôn, mệt… Có cả hiện tượng của ngộ độc thuốc.
Khi sử dụng bài Lục vị, Bát vị gia giảm, chúng ta nên chú ý đến chất lượng và liều lượng của bài thuốc. Chất lượng bảo đảm thì hãy dùng, còn không thì nên thay vị thuốc khác thoả đáng hơn.

Trần Sỹ (CTQ số 98)

Tinh thần và bệnh tật



Một tạp chí Y khoa của trường Đại học Sorbone (Pháp) thuật lại câu chuyện người vợ sau khi xung đột mãnh liệt với chồng, liền cho con bú và đứa bé phải được đưa đi cấp cứu vì ngộ độc bởi những độc tố tiết ra trong sữa do cơn giận của người mẹ.
Câu chuyện trên là minh chứng đầy sức thuyết phục về sự liên quan mật thiết giữa tinh thần và thể xác. Điều đó cũng đã được xác nhận bởi nhiều nhà y học Đông Tây xưa nay. Do hệ thần kinh làm môi giới tinh thần, ảnh hưởng trực tiếp đến thể xác trong quá trình sống. Nhiều công trình nghiên cứu cho biết hầu hết các bệnh đều ít nhiều có nguyên nhân sâu xa ở tinh thần, sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng, ghen tuông ... đã tạo ra ; những trạng thái tinh thần tích cực như: tự tin, lạc quan, yêu đời, thanh thản ... ảnh hưởng tốt đẹp đến chức năng tạng phủ, bảo đảm duy trì được sức khỏe bền vững.
Y học phương Đông quy chúng thuộc phạm vi sang chấn tinh thần do thất tình (bảy yếu tố tinh thần) gây ra. Tây y cho chúng là những chấn thương tâm lý do căng thẳng (stress). Một điều đáng chú ý là những stress càng ngày càng tăng theo nhịp sống khẩn trương trong thời đại công nghiệp hóa. Nếu những tiến bộ y học đã đẩy lùi hàng loạt bệnh tật để kéo dài tuổi thọ cho con người thì nó lại phải đối đầu với một số bệnh phức tạp hơn, bắt nguồn từ nguyên nhân tinh thần. Theo công trình nghiên cứu thực nghiệm của các chuyên gia y học Anh, Pháp, Nhật và Mỹ, một số tổn thương tinh thần gây các bệnh sau : Nóng giận làm tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, xuất huyết ;  ưu phiền quá độ gây viêm niêm dịch, giảm sức đề kháng cơ thể. Rối loạn cảm xúc mảnh liệt gây liệt toàn thân; buồn bã và ân hận gây sỏi mật, thận, sút cân, lao phổi; khiếp đảm đột ngột gây ỉa chảy, trụy tim mạch, liệt dương. Thất vọng, tuyệt vọng gây loét dạ dày, tá tràng. Mừng quá độ gây rối loạn tuần hoàn. Lo nghĩ quá độ gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu. Bất mãn thường nhật gây hen suyễn. 
Xét theo quan điểm Đông y, những khám phá trên có nhiều điểm tương đồng. Y lý cổ truyền cho rằng : mừng quá hại tâm, lo nghĩ quá hại tỳ vị, nóng giận quá hại can, sợ quá hại thận, buồn quá hại phế. Ta thấy Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận có quan hệ mật thiết (quan hệ biểu lý) với mật, dạ dày, đại trường, tiểu trường, bàng quang và căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc của chúng trên phương diện ngũ hành, từ đó chúng ta thấy tuy bệnh danh có khác, nhưng xét tính chất và nguồn xuất phát thì không khác nhau mấy. Mặt khác, tinh thần cũng cần những thực phẩm bổ dưỡng trong lành. Vì thế, món ăn tinh thần mà ta “ăn” hàng ngày thông qua sách vở, báo chí, phim ảnh, giao tiếp ... cũng là điều rất quan trọng để phòng bệnh và góp phần chữa bệnh cho chúng ta.

Phan Hồng Long (CTQ số 90)

Điều trị rung tâm nhĩ bằng Đông y



LTS: Trong Tử Siêu y thoại, Lương y Nguyễn Tử Siêu có giới thiệu kinh nghiệm của bạn đồng nghiệp là L.Y Trần Cung, người miền Nam tập kết ra Bắc, công tác ở Bệnh viện Hòa Bình (Hải Phòng) có cách dùng thuốc rất táo bạo: Phụ tử có khi dùng tới 1 lạng, lạng rưỡi trong mỗi thang, có người thấy ông kê đơn đều phải lè lưỡi. Nhưng vì ông chẩn bệnh rất đúng, nên cương quyết dụng dược, không chút rụt rè… Do đó đối với loại bệnh mạn tính, người khác có khi phải chữa đến 30, 40 thang, mà đến tay ông chỉ mươi thang đã thu được kết quả. 

Bệnh án dưới đây tuy chỉ dùng đến 20g Phụ tử, nhưng CTQ tự thấy có trách nhiệm cảnh báo trước: Đây là kinh nghiệm lâm sàng dành cho đồng nghiệp tham khảo, người bệnh dù thấy triệu chứng tương tự cũng không được tự tiện y cứ theo đơn mua thuốc chữa bệnh. Muốn điều trị bệnh phải có thầy thuốc chuyên môn trực tiếp thăm khám và chỉ định cụ thể mới đảm bảo hiệu quả và an toàn.
CTQ
Rung tâm nhĩ là bệnh cảnh lâm sàng thường gặp đối với bệnh tim. Điều trị chủ yếu là thuộc loại các thuốc chẹn bê - ta, hoặc dùng sốc điện để tái lập lại các đường dẫn truyền. Nhưng kết quả thường hay tái phát, có khi tồn tại dai dẳng gây nhiều khó khăn cho thầy thuốc cũng như bệnh nhân.
Từ 1993 trở lại đây, dựa vào biện chứng luận trị, chúng tôi đã điều trị có kết quả một số ca rung nhĩ bằng thuốc đông y, xin nêu một bệnh án điển hình : 
Bệnh nhân nữ Nguyễn Thị X. 55 tuổi, cán bộ hưu trí, thường trú xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Ngày 29/3/1993, bệnh nhân đến khám với lý do: nghẹn thở, khó chịu ở ngực người rất mệt mỏi, không ăn không ngủ được.Bệnh nhân khai từ nhiều tháng nay, người rất mệt mỏi, yếu sức, có những cơn nghẹn thở, trước ngực rất khó chịu, cảm giác không thể diễn tả được. Bệnh nhân thường hay bị ngất, người nhà phải cạo gió xoa dầu nóng một lát mới tỉnh lại. Thường ngày, cảm thấy đói bụng nhưng không muốn ăn, ăn vào thì mệt, đêm ngũ rất khó. Đại tiểu tiện bình thường. Có đi khám bác sĩ tư, tiêm thuốc và cho thuốc về uống nhưng không đỡ.
* Tiền sử:Thường đau yếu luôn, bác sĩ bảo bị yếu tim, ba năm nay lại bị đau thần kinh tọa vừa mới đỡ.
* Khám : Tổng trạng gầy, xanh xao, niêm mạc mắt nhạt. Lưỡi đạm, không rêu, mặt lưỡi láng bóng và mỏng. Tiếng nói yếu ớt, đi lại chậm chạp. Huyết áp: 110/70 mmHg. Mạch: 60 lần/phút. Nhịp thở 18 lần/phút.
Hiện tại không có dấu hiệu khó thở, không tím tái, nhưng phù nhẹ mặt và hai mi mắt.
• Tim: Mỏm ở liên sườn V, cách bên trái đường trung đòn phải 2cm. Nghe tim thấy có ngoại tâm thu liên tục (loạn nhịp hoàn toàn), không nghe âm thổi.
• Phổi: Ran ẩm to hạt ở hai đáy.
* Chẩn mạch: Hai bộ thốn và xích trầm vi, hai bộ quan huyền nhược (bên trái vi nhược hơn bên phải), kết đại.
* Chẩn đoán sơ bộ: Rung tâm nhĩ do suy tim toàn bộ.
Cho đi làm điện tâm đồ để xác định chẩn đoán. Kết quả điện tâm đồ: Rung tâm nhĩ, lệch dẫn truyền.
* Biện chứng đông y: Âm Dương lưỡng hư, Tâm khí bất túc, tâm huyết ứ tắc.
* Phép chữa: Bổ dương liễm âm, ích khí hoạt huyết.
* Phương thuốc: Dùng bài Nhân sâm dưỡng vinh gia 
Kiết lâm sâm   20 g
Chích kỳ   20 g
Đương quy 16 g 
Bạch truật 20 g 
Bạch thược 12 g 
Bạch linh 6 g 
Nhục quế 4 g  (Tán bột gói riêng, hòa vào thuốc sắc)
Trần bì 6 g
Viễn chí 6 g 
Xương bồ   8 g 
Hắc táo nhân 12 g 
Ngũ vị tử 4 g 
Chế phụ tử  8 g 
Đào nhân 12 g 
Hồng hoa 8 g 
Sinh khương 12 g 
Đại táo 3 quả
Bốc 4 thang, sắc uống.
Ngày 2/4/1993 tái khám: Tổng trạng bệnh nhân khá hẳn, bớt mệt, da đã có sắc hồng, cảm thấy dễ thở hơn. Nghe tim vẫn còn ngoại tâm thu nhưng những nhát bóp đều hơn, không âm thổi. Xem mạch thấy hai bộ thốn đã có mạch rõ hơn, đều hơn, nhưng bộ quan xích còn trầm vi lắm.
Chúng tôi giữ y theo thang thuốc trước, cho uống tiếp 12 thang nữa.
Ngày 14/4/1993 tái khám: Bệnh nhân khá hẳn lên, tinh thần phấn khởi. Huyết áp 110/70 mmHg, Mạch 68 lần/phút, nhưng vẫn ăn chưa ngon, khó ngũ. Nghe tim các nhát bóp rõ hơn, đều hơn... nhưng vẫn còn ngoại tâm thu nhịp 2, nhịp 3. Chẩn mạch thì lưỡng thốn tế, quan xích vẫn rất vi, gần như không có mạch.
Tiếp tục uống đến thang thứ 20, tình hình vẫn không tiến triển thêm.
Ngày 18/4/1993, chúng tôi quyết định vẫn giữ nguyên phương cũ, tăng chế phụ tử lên hai mươi gam (20 gam), và cho sắc trước, giữ sôi 30 phút, bốc từng thang một cho bệnh nhân mang về nhà sắc uống.
Uống thang thứ nhất, bệnh nhân nghe khắp thân thể đau nhừ như bị ai đánh, có cảm giác đầy nghẹn ở cổ. Khám nghe tim T1, T2 rõ, đều thỉnh thoảng mới có một nhịp ngoại tâm thu. Chẩn mạch thì hai tay ba bộ đều có mạch rõ ràng, tượng huyền, hơi sắc.
Căn cứ vào nghe tim và chẩn mạch như trên, chúng tôi giữ nguyên thang thuốc với lượng phụ tử hai mươi gam, cho uống cách nhật, đến thang thứ 5 thì xuất hiện dấu hiệu ngộ độc phụ tử:
- Bệnh nhân than mệt ngực trở lại.
- Nghe tim xuất hiện loạn nhịp nhanh, kiểu ngoại tâm thu nhịp 3 nhanh, tần số 86 lần/phút. Chẩn mạch lại thấy mạch trầm vi kết đại như lúc đầu. Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt, không buồn nôn, không nôn. Huyết áp 110/70mmHg.
Vẫn y phương cũ, khử phụ tử, gia giảm cho uống tiếp 5 thang nữa, mọi triệu chứng bệnh đều khỏi, bệnh nhân khỏe, nghe tim và chẩn mạch đều bình thường. Theo dõi đến mười năm sau, không thấy tái phát.
* Bàn luận: Nhân Sâm Dưỡng Vinh (NSDV) là bài thuốc thường dùng trên lâm sàng, để điều trị các chứng tâm hỏa hư, âm dương lưỡng hư. ở đây, dùng NSDV gia phụ tử để tăng cường sức bổ hỏa. Nhưng trong trường hợp này, nếu không tăng phụ tử lên đến liều hai mươi gam, và không uống đến ngộ độc phụ tử, thì e rằng không cắt hẳn được cơn rung nhĩ mà không bị tái phát trong thời gian lâu như vậy. (Vì uống đến thang thứ 4, nghe tim vẫn còn ngoại tâm thu. Đây là dấu chứng báo hiệu rung nhĩ sẽ tái phát).
Đến thang thứ 5, xuất hiện dấu hiệu ngộ độc Aconitine, biểu hiện trên tim là loạn nhịp ngoại tâm thu nhịp đôi, nhịp ba nhanh. Mạch cũng thấy trầm vi, kết đại. Trầm vi là hàn, kết đại là hàn cực. Phụ tử là thuốc đại ôn nhiệt, nhưng dùng quá thì lại sinh hàn. Đây là nguyên lý nhiệt cực sinh hàn, vật cực tắc phản. Từ chỗ hỏa hư nên phải bổ hỏa. Nhưng bổ hỏa cho đến cái giới hạn hơi quá một chút, khiến hỏa bị “ức chế đột ngột”, đích thực là làm cho tim bị sốc vì hỏa. Chúng tôi trộm nghĩ cơ chế cắt cơn rung nhĩ trong trường hợp này, tương tự như làm sốc điện trên tim.
Những nghiên cứu dược lý lâm sàng gần đây của Trung Quốc cũng chứng minh tác dụng cường tim của phụ tử. Phải chăng do vậy mà Phụ tử được xếp vào nhóm thuốc ĐộC BảNG A?

Phạm Ngọc Cảnh

Luận trị liệt dương theo “Biện chứng kỳ văn” (tiếp theo kỳ trước)

2. Liệt dương do dương khí của tỳ vị không vượng

Có người tinh lạnh, tinh loãng, tuy cũng có thể giao hợp, nhưng nửa đường đứt gánh hay “vừa đến chợ đã hết tiền”, người ta cho là hỏa mệnh môn suy, ai hay đó là do dương khí của tỳ vị không vượng. 
Tỳ vị thuộc thổ, mà thổ sinh từ hỏa, dương khí của tỳ vị không vượng tựa hồ như hỏa mệnh môn suy. Đâu biết rằng hỏa của mệnh môn là hỏa tiên thiên, còn thổ của tỳ vị là thổ hậu thiên. Thổ hậu thiên vốn có gốc nơi hỏa tiên thiên, nếu hỏa tiên thiên không vượng thì thổ hậu thiên không thể sinh. Bổ hỏa tiên thiên chính là để sinh thổ hậu thiên. Thổ của tỳ vị tuy gốc là hậu thiên, nhưng kỳ thực bên trong không phải không có khí tiên thiên. Hỏa mệnh môn mà hàn, thì khí tiên thiên của tỳ vị làm sao sinh được. Mệnh môn đã không thể sinh khí tiên thiên của tỳ vị, trong khi khí hậu thiên của tỳ vị mỗi lúc càng thêm suy vi, mà muốn cho khí vượng để có thể cố sáp được tinh, cho tinh đậm đặc chứ không loãng nhạt thì làm sao có thể được? 
Phép điều trị tất phải bổ hỏa tiên thiên của mệnh môn, đồng thời bổ thổ hậu thiên của tỳ vị, thì thổ khí đã vượng mà hỏa khí lại chẳng suy, khiến cho khí ấm áp mà tinh đậm đặc vậy.
Phương thuốc dùng Hỏa Thổ ký tế đan:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Sơn thù du 1 lượng, Thỏ ty tử 1 lượng, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ.
Sắc uống liên tục 10 thang thời tinh khí ấm áp. Uống được 3 tháng thời vĩnh viễn không suy nhược trở lại. 
Phương này kiện tỳ vị thổ đồng thời bổ mệnh môn hỏa, nên tránh được các tai họa hỏa bốc lên quá cao hay thổ nhiễm phải hàn thấp. Thấp khí khử được thì tinh thuần chất, hàn khí khử được thì tinh ấm áp. Hàn thấp đã trừ, âm khí tiêu vong thì dương khí mạnh mẽ, đâu phải hổ thẹn vì dương sự yếu kém nữa.

3. Liệt dương do tâm hỏa bế tắc


Có người do lúc thiếu thời gặp chuyện không toại nguyện, uất ức sầu muộn dẫn đến dương vật yếu mềm, không nhấc lên nổi, hoặc có cương mà không cứng. Người ta cho  là hỏa của mệnh môn suy, ai hay đó chính là do tâm hỏa bế tắc.
Thận là chức quan tác cường, kỹ xảo từ đó mà ra, là nơi tàng trữ tinh và chí (theo Nội Kinh) . Tâm chí không thỏa mãn thì dương khí không thư thái. Dương khí chính là chân hỏa trong thận vậy. Chân hỏa trong thận tất phải vâng mệnh của tâm. Tâm hỏa mà động thì thận hỏa ứng liền. Tâm hỏa bị đè nén uất ức, không khai thông thì thận hỏa tuy vượng, cũng không thể đáp ứng, tựa như hỏa yếu mà thật ra không phải hỏa yếu. 
Điều trị không được dùng phương pháp trợ mệnh môn hỏa. Nếu nhầm dùng trợ mệnh môn hỏa thời hỏa vượng ở hạ tiêu mà khí ức uất không được tuyên thông, tất dẫn đến thảm họa dương vượng âm tiêu, biến sinh chứng ung thư không thể cứu được. Nên tuyên thông uất ức trong tâm, khiến tâm ý thư thái cởi mở, dương khí được khai thông thời chứng liệt dương liền khỏi.
Dùng phương Tuyên chí thang như sau:
Phục linh 5 chỉ, Xương bồ 1 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Bạch truật 3 chỉ, Sinh táo nhân 5 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Sài hồ 1 chỉ, Đương quy 3 chỉ, Nhân sâm 1 chỉ, Sơn dược 5 chỉ, Ba kích thiên 3 chỉ. Sắc uống 2 thang tâm chí liền thư thái, uống thêm 2 thang dương sự cất lên ngay, không cần uống nhiều. Bệnh này nguyên nhân do hỏa bế tắc mà sanh khí muộn phiền buồn bực, chứ tuyệt nhiên không phải do hỏa hàn mà lửa tắt. Vì thế, chỉ cần thổi một vài lần là hỏa bùng lên, không cần bổ hỏa nhiều mới đầy đủ. Nhưng tiếc thay, phần lớn người đời đã chữa nhầm như vậy!
(còn nữa)

Phan Lang 

Luận trị liệt dương theo “Biện chứng kỳ văn”

1. Liệt dương do tâm khí bất túc
Người đang có cảm hứng muốn ân ái, dương vật  bỗng mềm nhũn, không cương cứng được, tìm đủ cách kích thích, cuối cùng vẫn không thể giao hợp được. Có người cho đó là do hoả mệnh môn suy. Có mấy ai biết được thực ra là do tâm khí bất túc?Nói chung, người có thể giao hợp kéo dài không suy là nhờ sức của mệnh môn tướng hoả sung mãn. Dương vật mềm yếu không cương, đúng là mệnh môn hoả suy. Như vậy, cớ sao lại bảo là do tâm khí bất túc? 
Nên biết quân hoả của tâm động thì tướng hoả của mệnh môn mới theo đó mà động. Tướng hoả không thể vượt qua thay thế quân hoả mà hành sự. Quân hoả vượng mà tướng hoả lại chẳng suy, cho nên giao hợp được lâu mà không xuất tinh. Nếu quân hoả suy trước, không thể tự chủ, dù tướng hoả có thúc giục bên cạnh thì sự suy yếu vẫn là chủ. ý vua không mạnh mẽ cứng rắn thì thần tướng làm sao tự phấn chấn lên được. Cho dù thần tướng có cưỡng ép vua ra lệnh cho chư hầu, hoả động nhưng trong tâm chỉ rung rung ở thế không thể chủ động, thì có nghe quyền lệnh của thần tướng cũng tạm cương lên trong giây lát, chứ không thể giao hợp kéo dài cho thoả lòng hoan lạc.
Vì vậy trị bệnh liệt dương tất phải trên thời bổ tâm, dưới thời bổ thận. Tâm thận đều vượng sau đó mới bổ tướng hoả của mệnh môn. Giống như vua sáng tôi hiền thì vận nước dài lâu, tâm tĩnh lặng mà thận khởi động thì chuyện “nhất dạ đế vương” mới bền vững vậy.
Trong trường hợp này dùng bài thuốc “Khởi dương thang” gồm có:
Nhân sâm 1 chỉ, Bạch truật 1 lượng, Ba kích thiên 1 lượng, Hoàng kỳ 5 chỉ, Bắc ngũ vị 1 chỉ, Thục địa 1 lượng, Nhục quế 1 chỉ, Viễn chí 1 chỉ, Bá tử nhân 1 chỉ, Sơn thù du 3 chỉ. Sắc uống.
Uống liên tục 4 thang, thấy dương cương. Uống tiếp 4 thang thì dương vượng. Uống 4 thang nữa tất có thể giao hợp lâu mà không thất bại. Nếu uống kéo dài được 3 tháng thì thấy người đổi khác hẳn, chẳng những xương cốt nặng chắc mà cả thân người như được tái tạo lại vậy.
Phương thuốc này hay ở chỗ đại bổ khí của tâm thận, không hoàn toàn ôn hoả của mệnh môn mà hoả khí tự vượng. Người đời không biết rằng bổ tâm để sinh hoả thì tâm khí vốn đã suy khi gặp hoả vượng sẽ gây hại tâm. Lại không biết bổ thận để sinh hoả thì thận thuỷ vốn đã thiếu khi gặp hoả vượng sẽ làm tổn thận. Tâm bị hại, thận bị tổn, tuy hoả vượng phỏng có ích gì, hoả vượng chỉ tổ thiêu đốt âm huyết khô táo, ắt dẫn đến tình thế dương vượng âm tiêu không thể cứu được. Đạo của ta vốn có phương thuốc trợ dương, nhân vì ngại kẻ hiền trí cậy vào để hưởng lạc, cho nên thánh nhân đời trước giấu đi không nói ra. Nhưng thật đáng tiếc, nền nếp xã hội ngày càng suy bại, các giới quan lại thượng lưu luôn khẩn cầu bọn phương sĩ chế luyện các bài thuốc bằng kim loại đất đá cho uống, dẫn đến chết người vô số kể. Thấy thế, thầy ta rất đỗi xót thương, cho nên chợt bàn đến chứng âm nuy (liệt dương) mà truyền lại phương thuốc này. Ta chẳng dám giấu, do vậy ghi ra đầy đủ, cấp cho những kẻ đang sửa soạn các phương thuốc kim loại đất đá để rước hoạ mất mạng, nếu may mà uống được phương thuốc này đạt được hiệu quả sinh tân trợ dương thì quý lắm thay!
(Còn nữa)

Phan Lang