Mục tiêu
1. Nêu được đầy đủ các thành phần của 2 yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của châm tê :
− Yếu tố kỹ thuật châm tê.
− Yếu tố người bệnh.
2. Phân tích được cơ sở lý luận của các yếu tố tham gia vào kết quả châm tê.
3. Trình bày được những ưu và nhược điểm của châm tê.
I. Đại cương
Châm tê là phương pháp dùng kim châm vào một số huyệt để nâng cao ngưỡng
đau, giúp người bệnh có thể chịu đựng được cuộc mổ trong trạng thái
tỉnh; cảm giác sờ, nóng, lạnh hầu như không thay đổi, chỉ có cảm giác
đau giảm xuống rõ rệt; tình trạng vận động hầu như không bị ảnh hưởng.
Phương pháp châm tê dựa trên nguyên lý châm có thể chống đau và điều chỉnh chức năng sinh lý của cơ thể của châm cứu.
Hiện nay, số ca mổ châm tê trên thế giới đã lên đến hàng trăm vạn, được
tiến hành ở nhiều nước (Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, ý, Nhật, Mỹ, ấn Độ,
Xiri- Lanca, Miến Điện, Liên Xô....) thu được kết quả nhất định và được
coi là một trong những phương pháp vô cảm. Nhưng cũng không phải không
còn ý kiến bàn cã i, trong số đó có người cho cảm giác tê là do bệnh
nhân bị ám thị.
Dựa trên thực tiễn trong nước có thể khẳng định, nếu chọn đúng đối
tượng, châm tê có thể phát huy được tác dụng của nó và có thể dùng trong
nhiều loại phẫu thuật.
II. Sơ lược lịch sử phát triển của châm tê
Năm 1958, ở Trung Quốc có một số thầy thuốc đã mạnh dạn thử dùng kim
kích thích vào huyệt để thay thế thuốc tê. Họ bắt đầu bằng những việc
rất đơn giản như châm để giảm đau khi thay băng, giảm đau sau khi cắt
amiđan. Sau một thời gian nghiên cứu, họ đã thành công trong việc dùng
châm tê để cắt amiđan. Từ đó đến nay, các thầy thuốc Trung Quốc đã áp
dụng thành công châm tê vào các loại mổ nhỏ, vừa và lớn vào khoảng 100
vạn ca ở các lứa tuổi khác nhau.
Những công trình nghiên cứu về cơ chế tác dụng của châm tê cũng được
tiến hành ở nhiều nước trên thế giới về các mặt Thần kinh, Thần kinh -
thể dịch và cũng đã đạt được nhiều kết quả.
Những cơ sở đầu tiên mổ châm tê ở Việt Nam là Viện Chống lao Trung ương
(1969) mổ cắt thùy phổi và cắt xẹp sườn; Viện Đông y (1970) mổ cắt 2/3
dạ dày; Bệnh viện Việt Đức (1972) mổ bướu cổ, tụ máu dưới màng cứng sọ
não; Quân y Viện 9 (1972) mổ chấn thương. Nguyễn Tài Thu, Hoàng Bảo Châu
là những người thầy thuốc Việt Nam đầu tiên thực hiện châm tê để mổ
những bệnh ngoại khoa nói chung và phục vụ cho giải phẫu các vết thương
chiến tranh.
Sau đó phong trào nghiên cứu áp dụng châm tê được triển khai trong các
bệnh viện Quân đội, bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện tỉnh và huyện.
Song song với việc nghiên cứu áp dụng để phục vụ sức khỏe cán bộ, Quân
đội và nhân dân, các thầy thuốc nước ta còn tiến hành khảo sát châm tê
trên các mặt nghiên cứu lâm sàng và khai thác khả năng châm tê trong các
loại mổ chấn thương, thẩm mĩ, nhằm khắc phục hậu quả vết thương chiến
tranh và áp dụng nó có sáng tạo, có sửa đổi cho phù hợp với một số loại
mổ và với điều kiện cụ thể của mình. Khi áp dụng châm tê, nước nào cũng
đang tìm cách khắc phục 3 tồn tại của châm tê (chưa hết đau hoàn toàn,
cơ giãn chưa tốt, còn các phản ứng khi co kéo nội tạng) và cũng đã đạt
một số kết quả.
III. Phương pháp châm tê
A. Vấn đề người bệnh trong châm tê để mổ
1. Chọn người bệnh, loại bệnh phải mổ
Nói chung nên chọn người bệnh bình tĩnh, khi châm thử dễ đắc khí và có
khả năng làm theo lời khuyên của thầy thuốc ngay trong lúc mổ. Nên chọn
loại bệnh mà thời gian mổ không quá dài ở mọi lứa tuổi, tốt nhất là
thanh niên trở lên, cả nam lẫn nữ, có hay không có chống chỉ định gây mê
bằng thuốc (như các bệnh nhân có chức năng hô hấp, chức năng gan, chức
năng thận kém; dị ứng với thuốc, v.v...)
2. Hướng dẫn, dặn dò người bệnh
Khi mổ châm tê nếu người bệnh càng bình tĩnh thì càng thuận lợi cho cuộc
mổ. Hơn nữa họ còn phải làm theo hướng dẫn của thầy thuốc, chủ động giữ
gìn cho hơi thở ít bị rối loạn. Do đó, cần phải hướng dẫn để người bệnh
yên tâm, bình tĩnh phối hợp tốt với kíp mổ.
3. Bảo vệ người bệnh
Công việc này giúp sự phối hợp giữa thầy thuốc và người bệnh tốt nhất.
Cụ thể là giữ vững tinh Thần, động viên người bệnh bằng những kỹ thuật
chuyên môn của mình, giảm bớt sự đau đớn, kịp thời điều hòa chức năng
sinh lý của người bệnh đã bị cuộc mổ làm ảnh hưởng.
Châm tê chưa làm hết đau hoàn toàn: có người bệnh, có thì mổ còn khó
chịu nên có những phản ứng như co cứng, thở hổn hển, tim đập nhanh,
huyết áp tăng.....Do còn tỉnh nên trạng thái tinh Thần của họ ảnh hưởng
rất lớn đến sự đáp ứng sinh lý của cơ thể đối với tác dụng của châm cũng
như đối với kích thích của cuộc mổ. Khi căng thẳng quá, cảm giác về đau
lập tức nhạy bén, có thể cảm thấy đau trước khi bị đau, ngưỡng đau đồng
thời trở nên rất thấp, trên cơ sở đó mọi thao tác của ngoại khoa đều có
thể gây đau....cho nên phải phòng trước và phải giữ cho sự hiệp đồng
giữa thầy thuốc và người bệnh được hài hòa.
B. TRìNH Tự TIếN HàNH MộT CUộC Mổ CHâM Tê
1. Chuẩn bị
− Thăm khám trước khi mổ như thường lệ.
− Thầy thuốc ngoại khoa dự kiến cách mổ.
− Người châm tìm hiểu người bệnh: châm thử để đánh giá mức độ đáp ứng.
− Và người hồi sức cũng có kế hoạch cấp cứu khi cần.
− Trước ngày mổ cần hội ý thống nhất phương án mổ, cách thức châm, cách thức phục vụ người bệnh trong và sau khi mổ.
2. Đưa bệnh nhân vào cuộc mổ
Đêm hôm trước cho bệnh nhân uống thuốc ngủ hoặc thuốc an Thần. Khi đưa
người bệnh vào phòng mổ, một mặt chuẩn bị tiêm truyền, đo áp huyết, lấy
mạch, đo tần số hô hấp v.v...; mặt khác bắt đầu châm kim theo phương án
đã chuẩn bị. Sau 15 phút cho nửa liều thuốc tiền mê, tiếp tục vê kim
hoặc thông điện đến phút thứ 25 hoặc 30 phút có thể bắt đầu mổ được (gần
đến lúc mổ có thể tiêm thêm nửa liều tiền mê hoặc nếu gây được cảm giác
đắc khí thật tốt và dự kiến bệnh nhân có thể qua được dễ dàng thì rạch
da, cơ; nên dành thuốc tiền mê còn lại cho khi đang mổ).
Trong khi mổ, mọi biến đổi về hô hấp, mạch, huyết áp và các biểu hiện
sinh lý khác liên quan đến sức chịu đựng của người bệnh đều được theo
dõi chu đáo. Việc truyền dịch, máu, điện giải v.v.. vẫn làm như trong mổ
gây tê, mê thông thường.
Nếu bệnh nhân không đau lắm không cần phải cho thuốc giảm đau. Khi qua
các tổ chức, các vùng nhạy cảm như màng bụng, màng phổi, mạc treo ruột,
màng xương, lân cận các vùng Thần kinh hoặc các dây Thần kinh lớn nên
phong bế bằng một ít thuốc tê, vừa nâng tác dụng trấn đau của châm tê
vừa giảm bớt cảm giác do đụng chạm, sờ mó để bệnh nhân bớt căng thẳng.
Từ khi bắt đầu châm cho đến khi mổ xong, kíp mổ nên hướng dẫn người bệnh
hít thở đều đặn và sâu dài cho thầy thuốc ngoại khoa dễ làm việc, cho
châm tê phát huy tốt tác dụng. Người châm tê cũng cần chia sẻ với bệnh
nhân nỗi băn khoăn hoặc sự lo sợ của họ khi bị đau, lau mồ hôi, cho nước
thấm giọng và dịu dàng, thân thiết khích lệ họ. ở những thì mổ ít đau,
nên dừng vê kim hoặc dừng thông điện cho bệnh nhân nghỉ.
3. Chăm sóc sau khi mổ
Thường là đơn giản vì người bệnh tỉnh và không có tác dụng phụ của thuốc
tê, mê. Tuy nhiên vẫn phải theo dõi chu đáo, đầy đủ, chú ý ảnh hưởng do
thao tác châm tê gây nên như: tay chân căng tức, nặng như có hàng chục
cân đè lên người (cảm giác này sẽ giảm và sẽ hết hẳn sau đó).
Những yếu tố quan trọng trong châm tê
- Phải làm cho người bệnh thì yên tân, tin tưởng và sẵn sàng làm theo yêu cầu của thầy thuốc.
- Thao tác ngoại khoa phải nhẹ nhàng, chính xác, khẩn trương.
- Kỹ thuật châm tê phải bảo đảm cung cấp đủ lượng kích thích cần thiết.
- Người hồi sức phải chu đáo trong việc phục hồi lượng máu, lượng điện giải đã hao hụt để duy trì sức chịu đựng của người bệnh.
C. NộI DUNG PHươNG PHáP CHâM Tê
Ba yếu tố căn bản quyết định kết quả châm tê:
1. Công thức huyệt sử dụng
Cần chọn huyệt thích hợp. Huyệt được chọn phải liên quan mật thiết đến
vùng mổ, phải dễ gây đắc khí (có cảm ứng mạnh), không ở vị trí trở ngại
cho thao tác ngoại khoa và khi vê hoặc xoay kim không làm chảy máu.
2. Kỹ thuật châm tê
Cường độ và tần số kích thích phải phù hợp với từng người và từng thì mổ
để người bệnh chịu được những thao tác của ngoại khoa. Cường độ và tần
số quan hệ khăng khít với nhau để đảm bảo lượng kích thích nhất định (ví
dụ: ở những thì mổ khẩn trương (rạch da, rạch màng bụng) hoặc khi thao
tác gần bó mạch - Thần kinh lớn, các đám rối Thần kinh… nên cho tần số
và cường độ cao).
3. Sự đáp ứng của người bệnh
Đáp ứng về châm tê: nếu có đáp ứng kích thích của châm thì cảm giác tê
nói chung xuất hiện từ các đầu chi, chỏmđầu và từ đó lan ra khắp mặt da
toàn thân.
Đáp ứng về tinh Thần kinh: nếu người bệnh có nghị lực tin tưởng vào sự
sắp xếp của người thầy thuốc thì có thể xem như thuận lợi một phần.
Có người bệnh ngủ sau khi tiền mê, lúc này trạng thái tinh Thần ở vị trí thứ yếu, tác dụng của châm ở vị trí nổi bật.
Khi kích thích vào huyệt người bệnh có thể tê nhiều hay tê ít hoặc không
tê. Khi đã tê, nếu tin tưởng thì mức độ tê sẽ được giữ vững hoặc phát
huy thêm, trái lại, nếu lo sợ thì độ tê sẽ giảm sút nhiều.
Do đó, người bệnh qua được cuộc mổ không phải đơn thuần nhờ vào hiệu quả
gây tê của châm mà còn chịu ảnh hưởng của trạng thái tinh Thần của
người bệnh biểu hiện trong quá trình mổ.
4. Kỹ thuật châm
a) Lượng kích thích
Châm cần đạt đắc khí. Kinh nghiệm lâm sàng cho biết, khi châm tê nếu
người bệnh dễ đắc khí và thầy thuốc duy trì được mức độ đắc khí thích
đáng thì cuộc mổ sẽ thuận lợi.
Khi châm đắc khí rồi, nếu chỉ lưu kim mà không tiếp tục vê kim hoặc
thông điện thì hiệu quả gây tê sẽ giảm đi. Nhưng nếu người bệnh có cảm
giác đau khi vê kim thì hiệu quả làm tê cũng kém.
Tác dụng tê và đáp ứng của người bệnh là hai nhân tố giúp người bệnh
chịu được cuộc mổ. Hai nhân tố này phụ thuộc vào lượng kích thích của
châm. Lượng kích thích đủ thì hiệu quả của tê được duy trì tốt. Trong
khi mổ mọi kích thích của thao tác ngoại khoa (một vết rạch, một nhát
cắt, một động tác co kéo thăm dò) đều làm giảm sức chịu đựng và tăng
thêm sự đau đớn cho người bệnh. Vì vậy, về mặt châm, lượng kích thích đủ
là yếu tố quan trọng có tác dụng quyết định để khống chế cái đau do
thao tác mổ, để giữ vững hiệu quả tê và nâng cao sức chịu đựng của cơ
thể.
b) Dùng thêm thuốc trấn tĩnh, giảm đau
Châm tê để mổ cũng như các phương pháp gây tê, mê khác, phải cho thuốc
trấn tĩnh, giảm đau để giảm đến mức thấp nhất sự lo lắng, hồi hộp của
người bệnh; đảm bảo cho chức năng của hệ tuần hoàn, hô hấp ít bị rối
loạn; tạo ra ở người bệnh bệnh trạng thái thoải mái.
c) Cách châm kim và kích thích huyệt
Cần dựa vào tình hình cụ thể của người bệnh gầy hay béo, cơ dày hay mỏng để châm nông hay sâu cho thích hợp.
ở tay, chân, bụng, lưng có thể châm tương đối sâu (thường châm từ 1 - 2
thốn) và phải làm người bệnh có cảm giác căng tức, nặng ở nơi châm, cần
chú ý không được làm tổn thương các cơ quan quan trọng và tránh mạch
máu.
ở loa tai, nên châm sâu khoảng 0,2 - 0,3 thốn và phải làm người bệnh có cảm giác căng, tê, nóng ở loa tai.
Sau khi châm đạt đắc khí rồi, có thể chọn dùng: lay động kim bằng tay,
kích thích bằng xung điện hoặc tiêm thuốc để kích thích huyệt.
− Lay động bằng tay: có thể dùng lối vê kim hoặc mổ cò, cũng có thể vừa
vê kim vừa mổ cò; nếu châm ở loa tai thì chỉ vê mà không mổ cò. Tần số
lay động kim ước 90 - 160 lần/phút. Biên độ vê kim trong khoảng 900 đến 3600.
Biên độ mổ cò trong vòng 10mm, cường độ vừa phải. Khi lay động kim bằng
tay động tác phải nhịp nhàng giữ cho thân kim và mũi kim cùng một
hướng. Trong quá trình lay động kim liên tục, thầy thuốc có thể thấy mũi
kim không chặt như lúc đầu mà đã lỏng lẻo. Lúc này cần mở rộng biên độ
vê kim, mổ cò hoặc thay đổi hướng mũi kim để lấy lại mức độ đắc khí cũ.
Lay động kim bằng tay có lợi: có thể điều chỉnh kích thích cho thích hợp
với sự tiếp thu của bệnh nhân và yêu cầu của thì mổ, cách làm này đơn
giản không cần thiết bị gì khác ngoài kỹ thuật châm, vê thành thạo một
vài chiếc kim.
− Kích thích bằng xung điện: sau khi châm kim vào huyệt đạt cảm giác đắc
khí, thông vào kim một dòng điện nhất định. Người ta thường dùng loại
xung nhọn, tần số điện xung khoảng 50Hz - 60Hz, có thể đến 200Hz. Không
nên dùng điện một chiều vì dễ làm bỏng tổ chức và gãy kim do tác dụng
phân giải ion của nó. Cũng như trong điều trị, ở đây khi thông điện và
ngắt điện cần lưu ý tăng dần hoặc giảm dần cường độ dòng điện, tránh cho
người bệnh những kích thích đột ngột. Thông điện liên tục trong thời
gian dài sẽ có hiện tượng “quen”. Do vậy, ở những thì mổ nào không gây
kích thích nhiều nên ngắt điện cho người bệnh nghỉ, những thì mổ quan
trọng cần lưu ý nên tăng thích đáng cường độ dòng điện.
− Cường độ kích thích: cường độ và tần số tác động phù hợp với từng
người và từng thì mổ. Nói chung, cường độ kích thích cần đủ mạnh để duy
trì đắc khí tốt, thấp quá hoặc mạnh quá đều làm hiệu quả châm tê giảm
sút (ví dụ: khi lay động kim bằng tay người bệnh có cảm giác căng, tức,
nặng là vừa; nếu có cảm giác đau là cường độ mạnh). Khi thông điện người
bệnh có cảm giác tê buồn hoặc như đấm vào người và nhóm cơ quanh kim co
duỗi nhịp nhàng là vừa. Nếu có cảm giác đau hoặc nóng bỏng thì sẽ không
có hiệu quả.
− Thời gian gây được tê: trung bình 20 - 30 phút có thể làm ngưỡng đau
của người bệnh nâng lên mức khá cao để có thể bắt đầu được cuộc mổ.
− Lưu kim: trong một số thì mổ, khi kích thích ngoại khoa tương đối nhẹ,
có thể ngừng lay động kim hoặc ngừng thông điện. Trong thời gian lưu
kim có thể duy trì hiệu quả tê ở mức độ nhất định, nhưng nếu lưu kim
thời gian dài, hiệu quả châm tê kém dần đi. Vì vậy, không nên lưu kim
quá lâu. Khi sắp bước vào thì mổ gây kích thích mạnh, cần phải lay động
kim hoặc thông điện trước để khỏi ảnh hưởng đến hiệu quả châm tê.
5. Chọn huyệt
Cách chọn huyệt trong châm tê cũng dựa theo lý luận của tạng, phủ, kinh,
lạc. Ngoài ra còn chọn huyệt theo lý luận sinh lý giải phẫu Thần kinh.
a) Lấy huyệt theo lý luận YHCT
Theo lý luận này, châm tê giúp cho khí huyết vận hành thông suốt toàn
thân trong cả quá trình mổ, nhằm đạt kết quả chống đau và khống chế rối
loạn sinh lý. Vì vậy, khi chọn huyệt cần chú ý đến đường đi của kinh
mạch và quan hệ giữa các tạng phủ kinh mạch với vị trí mổ.
Lấy huyệt theo kinh - chọn kinh: dựa theo nguyên tắc kinh mạch đi qua
vùng nào có tác dụng phòng chống được bệnh tật hoặc đau đớn liên quan
đến vùng đó, cho nên phải chọn những kinh mạch trên hoặc gần đường rạch
và có quan hệ đến tạng phủ sẽ bị tác động đến khi mổ.
− Mổ vùng mặt cổ nên chọn kinh dương minh Đại trường ở tay.
− Mổ dạ dày nên chọn kinh dương minh Vị ở chân.
− Mổ vùng hố chậu nên chọn kinh quyết âm Can và kinh thái âm Tỳ ở chân.
− Mổ sọ não thường dùng các kinh dương và kinh quyết âm Can ở chân.
Chọn huyệt: nói chung mỗi huyệt có 3 loại tác dụng (tại chỗ, theo đường
kinh và toàn thân). Người xưa đã phân huyệt thành nhiều loại, những loại
huyệt thường dùng trong châm tê gồm:
Huyệt ngũ du (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp) còn gọi là huyệt du của
chính kinh đó (bản kinh). Trong số này nên nhớ huyệt du chống đau tốt,
huyệt hợp dùng trong mổ tạng phủ tốt.
Huyệt nguyên và huyệt lạc: đôi huyệt nguyên hợp cốc và thái xung
thường được dùng trong nhiều loại mổ. Cũng có thể dùng đôi huyệt nguyên
lạc của hai kinh có quan hệ biểu lý.
Huyệt du và huyệt mộ: các huyệt du ở lưng được dùng tương đối rộng rãi, còn các huyệt mộ thường dùng là chương môn, quan nguyên, trung cực.
Huyệt khích: trong mổ ngực, người ta thường hay dùng khích môn
của kinh quyết âm Tâm bào ở tay; trong mổ sản phụ khoa dùng huyệt trung
đô là huyệt khích của kinh quyết âm Can ở chân.
Huyệt hợp ở dưới: túc tam lý, thượng cự hư, hạ cự hư thường được dùng trong các cuộc mổ vùng bụng trên và bụng dưới.
Mổ mắt dùng huyệt của kinh quyết âm Can là hàm ý can khai khiếu ra mắt;
mổ xương dùng huyệt của kinh thiếu âm Thận là hàm ý thận chủ xương.
Trong quá trình mổ có thể có các phản ứng tim đập nhanh hoặc chậm lại,
thở gấp, khó chịu, bồn chồn trong ngực do “tâm khí bị nhiễu loạn” có thể
dùng Thần môn, tam tiêu ở loa tai hoặc nội quan.
b) Lấy huyệt theo lý luận sinh lý giải phẫu Thần kinh
Tại huyệt, điện trở da và trở kháng luôn thấp hơn vùng xung quanh, do đó
kích thích sẽ mạnh hơn. Dựa vào đặc điểm Thần kinh sinh học, ta có mấy
cách chọn huyệt sau đây:
− Lấy huyệt ở tiết đoạn gần: chọn huyệt thuộc sự chi phối của cùng một tiết đoạn hoặc tiết đoạn gần với vị trí mổ.
Mổ răng có thể chọn các huyệt hạ quan, giáp xa, thừa tương, nhân trung tùy theo vị trí răng bị bệnh.
Cắt các nang u bã ở da có thể chỉ cố định kim ở mặt da hoặc gài kim dưới da nơi mổ rồi thông điện để kích thích là được.
Có huyệt tuy cách tương đối xa nơi mổ nhưng vẫn được chọn vì thuộc cùng
tiết đoạn hoặc tiết đoạn gần chi phối (ví dụ: mổ khoang ngực, khoang
bụng có thể chọn huyệt du ở lưng, huyệt giáp tích ở hai bên cột sống
tương ứng để châm; mổ ngực, mổ tuyến giáp chọn hợp cốc, nội quan thuộc
tiết đoạn tủy gần vị trí mổ).
− Lấy huyệt ở tiết đoạn xa: có những huyệt châm có cảm giác đắc
khí mạnh, hiệu quả chống đau thường tốt và phạm vi chống đau rộng. Do
đó, khi không cùng tiết đoạn với cơ quan và vị trí mổ, người ta thường
chọn số huyệt cảm ứng mạnh ấy hợp thành đơn huyệt dùng cho nhiều loại mổ
(ví dụ: hợp cốc, nội quan có thể dùng gây tê mổ ở đầu, mặt, cổ, và
ngực...).
Trong lâm sàng người ta thường phối hợp hai phương pháp lấy huyệt ở tiết
đoạn gần và tiết đoạn xa với nơi mổ, vì thấy cách này đưa tới hiệu quả
tốt hơn so với chỉ lấy huyệt ở tiết đoạn xa. Tuy nhiên, một đơn huyệt
dùng cho nhiều loại mổ cũng có ích lợi nhất định trong việc phổ cập châm
tê.
Kích thích dây Thần kinh: hiện nay, trong mổ xương tứ chi, người ta hay
dùng cách trực tiếp kích thích vào dây Thần kinh chi phối vùng mổ.
Ví dụ: trực tiếp kích thích rễ Thần kinh thắt lưng 3 - 4, dây Thần kinh đùi, dây Thần kinh hông trong một số ca mổ ở chân.
Kích thích đám rối Thần kinh ở tay (thông qua huyệt thiên tỉnh, cực tuyền) trong một số ca mổ tay..v.v..
Trong mổ tuyến giáp trạng, mổ sọ não có lúc người ta cũng dùng phương pháp kích thích dây Thần kinh.
c) Chọn huyệt ở loa tai
Thường thực hiện việc chọn huyệt như sau:
− Huyệt quan hệ với da: phổi (nếu mổ qua da).
− Huyệt quan hệ với cơ quan định mổ.
− Huyệt Thần môn (để an Thần).
− Huyệt giao cảm (nếu mổ nội tạng).
Một số nơi đã phối hợp huyệt ở thân thể với huyệt ở loa tai. Dùng tổng
hợp như vậy có hiệu quả hơn, hay dùng đơn thuần huyệt ở thân thể hoặc
huyệt ở loa tai hơn, hiện nay chưa kết luận.
6. Dùng thuốc hỗ trợ
Trong các ca mổ bằng phương pháp gây tê, gây mê, thuốc hỗ trợ vừa có tác
dụng nâng cao hiệu quả gây tê (hoặc mê), vừa bảo đảm cho chức năng tuần
hoàn và hô hấp được bình thường. Châm tê cũng vậy, trước trong khi mổ
cần có thuốc hỗ trợ, lượng thuốc dùng có thể ít hơn so với gây tê (hoặc
mê). Cũng có ca mổ không phải dùng thuốc hỗ trợ.
a) Thuốc hỗ trợ trước khi mổ
Để trấn tĩnh, chống đau, người ta dùng dolargan, phenergan, aminazin; có
nơi chỉ dùng dolargan (hoặc các chế phẩm tương tự khác) hoặc kết hợp
với các thuốc khác dưới dạng Coctai litic. Cần nhớ không nên dùng
dolargan cho trẻ em dưới 1 tuổi; những bệnh gan - thận suy không nên
dùng phenergan, aminazin. Để ức chế tiết dịch của các tuyến nước bọt, mồ
hôi, đường hô hấp, dạ dày, ruột, có lợi cho việc giữ gìn thông suốt
đường hô hấp, người ta dùng thuốc chống tiết cholin như: atropin,
scopolamin; bệnh tăng nhãn áp không dùng atropin; người già, trẻ em
không nên dùng scopolamin.
b) Thuốc hỗ trợ trong khi mổ
Nói chung trong khi mổ nếu người bệnh đau nhiều có thể cho thuốc tê như novocain, procain..v.v..tiêm tại chỗ hoặc phong bế.
Trước khi tác động tới các khu vực nhạy cảm như màng bụng, màng xương
hoặc khi co kéo mạnh các nội tạng, nên phong bế trước các vùng đó.
Trong việc cho thuốc hỗ trợ, nói chung nên giữ sao cho bệnh nhân vẫn tỉnh để phối hợp được với kíp mổ.
Những yếu tố kỹ thuật trong châm tê
- Chọn huyệt để kích thích:
+ Huyệt được chọn phải liên quan mật thiết đến vùng mổ. Có thể phối hợp lý luận đường kinh và Thần kinh sinh học.
+ Huyệt phải dễ gây được cảm giác đắc khí (có cảm ứng mạnh).
+ Huyệt phải không ở vị trí trở ngại cho thao tác ngoại khoa và khi vê hoặc xoay kim không làm chảy máu.
- Chọn loại kích thích: có thể bằng tay (lay động kim, vê kim). Hiện nay
chủ yếu là kích thích điện (xung tần số thấp, điện thế thấp).
+ Chọn xung nhọn, tần số khoảng 50Hz - 60Hz, có thể đến 200Hz
+ Kích thích mạnh với tần số cao, cường độ cao trong những thì mổ gây đau nhiều.
- Phối hợp sử dụng đúng thuốc hỗ trợ trước (tiền mê) và trong khi mổ sẽ có hiệu quả giảm đau tốt nhất.
IV. Lợi ích và tồn tại của châm tê
A. Lợi ích của châm tê
1. Khi mổ châm tê chức năng sinh lý ít bị rối loạn
Khi gây tê bằng châm, ngoài tác dụng làm tê thì phương pháp này còn có
tác dụng điều chỉnh chức năng của cơ thể, cho nên nói chung khi mổ châm
tê, các chức năng sinh lý của bệnh nhân không bị ảnh hưởng nghiêm trọng
(huyết áp, mạch, hơi thở đều tương đối ổn định). Tuy nhiên, đối với một
số ca mổ thì nó gây nhiều kích thích cho bệnh nhân (như tổn thương bệnh
lý nặng, ổ bệnh dính nhiều v.v..) hoặc là gặp bệnh nhân đáp ứng không
thật tốt (mức độ tê không thật nhiều) thì các chức năng sinh lý nhất
thời có thể bị rối loạn nhiều nhưng qua thì mổ căng thẳng, các chức năng
này mau chóng ổn định lại nhờ ảnh hưởng liên tục của tác dụng điều
chỉnh của châm tê.
Tuy vậy, trong mổ châm tê cần theo dõi chặt chẽ phản ứng của bệnh nhân
để kịp thời phát hiện tình huống không bình thường và kịp thời xử lý.
2. Mổ châm tê bệnh nhân chóng lại sức
Nhờ ăn uống sớm, ít bị ảnh hưởng có hại của thuốc tê, mê, nên thời gian nằm viện được rút ngắn.
3. áp dụng được cho bệnh nhân có chống chỉ định thuốc tê, mê
Châm tê được áp dụng tốt cho các trường hợp bệnh nhân mạn tính, suy mòn,
suy dinh dưỡng, lão suy, sức khỏe toàn thân kém, dị ứng với thuốc tê
hoặc mê, chức năng gan, thận, phổi kém.
4. Trang thiết bị dùng cho châm tê
Trong thiết bị dùng cho châm tê rất đơn giản, bao gồm: một ít kim châm,
một máy phát xung để gây tê (tham khảo ở phần điện châm); một ít kim
tiêm, bông, cồn. Trong trường hợp nhất định, có thể dùng tay vê kim gây
tê thay máy.
B. Nhược điểm của châm tê
Ngoài những điểm ưu việt của châm tê đã nêu ở trên thì châm tê cũng còn nhược điểm và tồn tại nhất định cụ thể như:
1. Chưa đạt đến giảm đau hoàn toàn
Khi châm tê, ngưỡng đau của bệnh nhân được nâng cao, nhưng cảm giác chưa
hoàn toàn mất, trong thì nào đó của cuộc mổ có thể có bệnh nhân vẫn
thấy đau.
2. Chưa hoàn toàn khống chế được phản ứng nội tạng
Khi thăm dò ổ bụng hoặc co kéo nội tạng hoặc khi mở màng phổi người bệnh còn có thể bứt rứt, khó chịu, nôn nao, khó thở.
3. Giãn cơ chưa vừa ý thầy thuốc mổ
Trong mổ bụng, khi cơ bụng giãn chưa vừa ý nhất định thao tác ngoại khoa bị trở ngại.
Ba tồn tại trên biểu hiện ở mức độ khác nhau trong từng ca mổ. Nhưng
nhìn chung, phần lớn các ca mổ châm tê đều có kết quả tương đối tốt.
Người ta đã và đang không ngừng tìm cách khắc phục các tồn tại này (như
chọn huyệt và các kích thích thỏa đáng; cải tiến thao tác mổ, dùng thuốc
hỗ trợ cho thật phù hợp v.v..).
Như vậy, châm tê cũng có chỗ mạnh và yếu như các phương pháp gây tê, mê
bằng thuốc. Do vậy khi châm tê, nếu muốn phát huy hết mặt ưu và hạn chế
mặt nhược, phải chọn đúng đối tượng, đúng hoàn cảnh.
Lợi ích và tồn tại của châm tê
- Những điểm mạnh của châm tê:
+ Sử dụng được cho những trường hợp có chống chỉ định dùng thuốc tê, mê (dị ứng, suy gan thận nặng…).
+ Chăm sóc hậu phẫu đơn giản hơn (chức năng sinh lý ít bị rối loạn, bệnh nhân mau phục hồi sức…).
- Những điểm yếu của châm tê:
+ Chưa đạt hết đau hoàn toàn. Đây cũng là nhược điểm chung của tất cả các phương pháp vô cảm mà bệnh nhân tỉnh.
+ Không đạt được mức độ giãn cơ đáp ứng được yêu cầu phẫu thuật viên.
+ Phản ứng nội tạng còn nhiều.
hãng máy bay eva air
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
korean air vn
phòng vé máy bay đi mỹ
đặt vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich